Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Hóa học Skkn một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường trung học phổ thông...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường trung học phổ thông

.PDF
19
1918
90

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc TÊN ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Quảng Bình, tháng 01 năm 2019 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc TÊN ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Họ và tên: Nguyễn Thị Phương Thảo Chức vụ: Tổ phó chuyên môn Đơn vị công tác:Trường THPT Phan Đình Phùng Quảng Bình, tháng 01 năm 2019 MỤC LỤC I. MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1 2. Điểm mới của đề tài.................................................................................................. 1 3. Phạm vi áp dụng ...................................................................................................... 2 II. NỘI DUNG ............................................................................................................. 3 Chương 1. Thực trạng học sinh cá biệt trong nhà trường phổ thông hiện nay............. 3 1.1. Một số vấn đề chung về học sinh cá biệt .............................................................. 3 1.1.1. Thế nào là học sinh cá biệt ................................................................................ 3 1.1.2. Phân loại HSCB .................................................................................................. 3 1.1.2.1. Học sinh cá biệt về học tập ............................................................................. 3 1.1.2.2. Học sinh cá biệt về đạo đức ............................................................................. 3 1.1.3. Nguyên tắc chung trong giáo dục học sinh cá biệt ............................................. 4 1.1.3.1. Phương pháp thuyết phục ................................................................................ 4 1.1.3.2. Phương pháp thúc đẩy ..................................................................................... 4 1.1.3.3. Phương pháp rèn luyện .................................................................................... 5 1.2. Thực trạng giáo dục HSCB ở trường THPT hiện nay ........................................... 5 1.3. Kết quả giáo dục các năm trước ........................................................................... 7 1.3.1. Dạng học sinh cá biệt về học tập ........................................................................ 7 1.3.2. Dạng HSCB về đạo đức...................................................................................... 7 Chương 2. Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT ............. 8 2.1. Nắm chắc quan điểm chỉ đạo của cấp trên ............................................................ 8 2.2. Phải động viên kịp thời, đúng lúc, đúng đối tượng ............................................... 8 2.3. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong xã hội......................................... 8 2.4. Nhà trường tích cực đổi mới phương thức quản lý, hoạt động ............................. 9 2.5. Nêu gương sáng cho HS noi theo .......................................................................... 10 2.6. Dùng tình cảm để cảm hóa các em ........................................................................ 10 2.7. Kiên trì tạo niềm tin và yêu thương ...................................................................... 11 2.8. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình ..................................................... 12 2.9. Tích cực tham gia vào công tác đánh giá, xếp loại ............................................... 12 Chương 3. Kết quả vận dụng một số biện pháp .......................................................... 13 3.1. Dạng học sinh cá biệt về học tập ........................................................................... 13 3.2. Dạng HSCB về đạo đức......................................................................................... 13 III. KẾT LUẬN ........................................................................................................... 14 1.Ý nghĩa của đề tài ...................................................................................................... 14 2. Kiến nghị, đề xuất..................................................................................................... 15 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Luật giáo dục đã xác định: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân”… ( Điều 23-Luật giáo dục). Có thể nói rằng, sự nghiệp giáo dục đào tạo hiện đang được toàn Đảng toàn dân quan tâm. Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Trước những vụ bạo lực học đường liên tiếp xảy ra gần đây đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của các nhà trường. Vậy, làm sao để giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả? Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT”, vấn đề này chắc hẳn không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ, làm sao học sinh của mình trở thành những con người tốt có ích cho xã hội. 2. Điểm mới của đề tài: Đề tài tập trung đưa ra một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT. Nhìn chung, các biện pháp nêu ra căn bản dựa trên các phương pháp giáo dục học sinh truyền thống, dựa vào đặc điểm tình hình học sinh cụ thể, giáo viên sử dụng nghệ thuật sư phạm của mình để cảm hóa các em, giúp các em hoàn thiện nhân cách, trở thành con người tốt, có ích cho xã hội. Nhưng khác với các cách giáo dục HSCB khác, điểm mới của đề tài này là tập trung vận dụng kết nhiều phương pháp khác nhau, vừa dùng nghệ thuật sư phạm để kích thích vai trò chủ động của học sinh trong hoàn thiện nhân cách phù hợp với tư duy đổi mới của 1 toàn ngành, vừa cố gắng tạo ra một môi trường giáo dục lành mạnh để tác động đến các em theo kiểu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” như cha ông ta xưa. Đề tài cũng được xem như một “phương thuốc” để chữa trị tác dụng phụ của công nghệ 4.0 đang phát triển như vũ bão ngày nay. 3. Phạm vi áp dụng đề tài Đề tài tập trung nghiên cứu đối tượng học sinh THPT, lấy khảo sát từ học sinh lớp 11, 12 trường THPT Phan Đình Phùng. Đề tài cũng có thể áp dụng cho học sinh THPT nói chung, nhưng khi áp dụng đại trà, giáo viên cần căn cứ vào tình hình cụ thể từng đối tượng để có sự linh hoạt, nhằm làm tăng hiệu quả giáo dục hơn. 2 II. PHẦN NỘI DUNG Chương 1. Thực trạng về học sinh cá biệt trong Nhà trường phổ thông hiện nay 1.1. Một số vấn đề chung về học sinh cá biệt (HSCB) 1.1.1. Thế nào là HSCB? Trước hết, cần hiểu đúng khái niệm “học sinh cá biệt”. Đó là những học sinh có cá tính khác biệt so với số đông học sinh bình thường (không có nghĩa học sinh cá biệt là bất bình thường). Chẳng hạn khi ở lớp học đang yên lặng làm bài tập thì em đó bỗng la lớn lên khi làm bài được, thích học thì học, không thích thì đùa giỡn, quậy phá các bạn kế bên, chọc cho bạn giỡn, nói chuyện với mình, tâm trạng thì "mưa nắng thất thường" hoặc thầy cô đang giảng về vấn đề này lại hỏi vấn đề khác. 1.1.2. Phân loại HSCB 1.1.2.1. Học sinh cá biệt về học tập: có ba loại: + Một là những em có trí tuệ và khả năng nhận thức bình thường nhưng rất lười biếng, lêu lổng, học kiểu “tài tử” dẫn đến hổng kiến thức, hay quay cóp trong học tập. Kết quả học tập thất thường, sút kém, luôn xếp “đội sổ”, dẫn đến chán học. + Hai là những em thiểu năng về trí tuệ: Là những trẻ trông hình thức bề ngoài bình thường, hơi có vẻ như đần độn, trong học tập thì dạy mãi, học mãi chẳng nhập tâm được cái gì (hay nói cách khác là thuộc diện “chậm hiểu”). + Ba là những em thuộc diện khuyết tật (nói ngọng hoặc không nói được, mắt, tai, tay chân…) dẫn dến không đủ giác quan, phương tiện để học tập bình thường như những bạn khác. 1.1.2.2. Học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống: Thường có những biểu hiện như: + Hay trốn học đi chơi điện tử, lừa dối cha mẹ, thầy cô, giả tạo chữ kí của bố mẹ trong sổ liên lạc hoặc giấy xin phép; + Dọa nạt bạn bè thậm chí đánh nhau; lảng tránh các hoạt động tập thể; + Tiêu xài các khoản phí của bố mẹ cho để đóng góp với nhà trường; càn 3 quấy, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thích “chơi trội” theo kiểu con nhà đại gia giàu có cụm lại với nhau đối lập với tập thể lớp, thích ăn chơi phá phách hơn là học hành tử tế; thậm chí còn có cả ăn cắp, ăn trộm, “cắm quán” tài sản không chỉ của mình mà còn lừa “mượn” của bạn; + Khéo léo, nhanh trí trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cô, bạn bè; hay xem thường, trêu ngươi, khiêu khích trước thầy cô, bạn bè nhằm thỏa mãn những nhu cầu tinh nghịch được sắp sẵn trong đầu. Có cách nói năng, ăn mặc, đi đứng hành động khác thường để gây sự chú ý. + Có biểu hiện thích yêu đương, phân tán tư tưởng, thích diện, hay cãi lí với bố mẹ và thầy cô; sẵn sàng bỏ học đi chơi cùng bạn… 1.1.3. Nguyên tắc chung trong giáo dục đạo đức cho HSCB 1.1.3.1. Phương pháp thuyết phục Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau: Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công dân cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ… Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện, đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của giáo viên và học sinh trong trường. 1.1.3.2. Phương pháp thúc đẩy Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “cưỡng bức đạo đức bên ngoài” để điều chỉnh, khuyến khích những “động cơ kích thích bên trong” của học sinh nhằm xây dựng đạo đức cho học sinh. Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường. Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo. 4 Xử phạt: là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính chất cưỡng bức đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh. 1.1.3.3. Phương pháp rèn luyện Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành hành động thực tế: Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn có khả năng giao tiếp, khuyên nhủ tốt. Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học sinh tham gia tốt phong trào này. Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm đề cử các em đảm nhiệm một số nhiệm vụ của lớp, hay theo dõi thi đua trong lớp . Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào đó bằng cách gây cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác động có hại. 1.2. Thực trạng giáo dục HSCB ở trường THPT hiện nay Từ nhiều nguyên nhân khác nhau, mà hiện nay ở các nhà trường phổ thông, hiện tượng HSCB trở thành một vấn nạn. Thỉnh thoảng chúng ta lại nghe các thông tin nổi cộm trên các phương tiện thông tin đại chúng về học sinh đánh bạn, 5 học sinh đồi bại về nhân cách, trộm cắp, ma túy, cưỡng dâm, điện tử… Điều đó không chỉ xảy ra với học sinh nam mà còn hoành hành với cả học sinh nữ. Trong các nhà trường phổ thông nói chung, THPT nói riêng, đây chính là một vấn đề nhức nhối, trăn trở. Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ 4.0 hiện nay, một số em chăm ngoan nếu không biết làm chủ mình, không biết cách học, cũng có thể trở thành HSCB, làm “nô lệ” cho các thiết bị truy cập Internet, mất khả năng tư duy… Bài tập về nhà được các em thực hiện một cách vô cảm: tra Google và chép vào, không mảy may suy nghĩ … Đặc biệt, càng ngày các em càng vùi sâu vào “cuộc sống ảo”, vô cảm thờ ơ với mọi người xung quanh. Em nào bị nặng có thể trở nên tự kỷ… Thực trạng trên có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau đây: - Thứ nhất là từ gia đình: Thiếu sự quan tâm hay quá tin tưởng, chiều chuộng của gia đình; những éo le trong cuộc sống gia đình ảnh hưởng rất lớn đến sự hư đốn, hay nói một cách khác là đạo đức học sinh yếu kém. - Thứ hai là từ xã hội : Thực trạng những mặt xấu của xã hội; Trong điều kiện xã hội hiện nay từng giờ từng ngày những cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực đến học sinh. - Thứ ba là từ nhà trường: Nhà trường chưa có biện pháp phù hợp trong việc quản lí giáo dục học sinh; chưa quan tâm đúng mức tới những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt (những em quá đầy đủ về vật chất, được chiều chuộng; ngược lại những em quá khó khăn thiếu thốn về vật chất hoặc những em có hoàn cảnh éo le, những em có cá tính khác thường…); chưa tạo ra môi trường thân thiện thực sự khi các em đến trường, làm cho các em thấy nhàm chán khi đến trường, có nhu cầu muốn tự thay đổi và làm mới môi trường sống; … - Thứ tư là từ bản thân học sinh : Giai đoạn tâm sinh lý có nhiều biến đổi. Từ tuổi thiếu niên chuyển sang tuổi thanh niên, học sinh muốn khẳng định mình bằng sự hiểu biết chưa hoàn thiện của mình; có thể do bản năng hoặc bệnh a dua ... 6 1.3. Kết quả giáo dục các năm trước Qua thống kê và theo dõi lớp 11A3, Trường THPT Phan Đình Phùng, lớp tôi chủ nhiệm, năm học 2017 – 2018, có một số em học sinh thuộc dạng cá biệt như sau: 1.3.1. Dạng cá biệt về học tập Đây là những học sinh lười học tập, không chịu lắng nghe giảng bài, thường vắng học và có kết quả học tập thấp. Kết quả kiểm tra cuối năm gồm có 09 em dưới điểm, xếp học lực yếu, chiếm tỉ lệ là trên 24 %. Đa số các em mất gốc kiến thức. Cụ thể: STT Họ và tên Ghi chú 1 Nguyễn Hoàng Hải Yếu Văn, Sinh, Lý, Anh 2 Lê Trung Hậu Yếu Toán, Lý, Anh 3 Trần Đình Hiếu Yếu Anh, Toán, 4 Nguyễn Phi Hùng Yếu Tin, Toán, Văn 5 Lê Thế Long Yếu Lý, Anh 6 Hoàng Văn Lợi Yếu Sinh, Văn, Anh 7 Trần Ngọc Phú Yếu Sinh, Hóa, Anh, Toán 8 Lê Ngọc Sơn Yếu Hóa, Văn, Anh 9 Đoàn Anh Tuấn Yếu Anh, Lý, Toán 1.3.2. Dạng cá biệt về đạo đức Qua khảo sát năm học 2017-2018, lớp 11A3 có 04 HSCB, trong đó, có 02 em hạnh kiểm yếu, 02 em hạnh kiểm trung bình, chiếm tỉ lệ 10,8 %. Hầu hết các em này thường nói tục, chửi thề, ngồi học không tập trung, không nghe lời giáo viên, lười học bài, có em nghiện điện tử... Có em thường hay vắng học không lý do, hỏi ít chịu trả lời…. Trong đó có các em sau : - Nguyễn Hoàng Hải – hay nghỉ học không có lí do - Nguyễn Chung Bửu – lắng nghe nhưng không học theo, thường làm theo những gì mình muốn. - Lê Ngọc Sơn – hay nói tục, chửi thề, nghỉ học … 7 - Nguyễn Viết Quân – không chịu vâng lời Chương 2. Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Như chúng ta đã biết, giáo dục HSCB là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn, phức tạp và rất khó thành công trong một thời gian ngắn. Nó đòi hỏi một quá trình dài lâu, có sự gắn kết, thật sự trách nhiệm của các giáo viên chủ nhiệm từ lớp dưới đến lớp trên, cùng sự quan tâm chia sẻ thường xuyên từ phía phụ huynh, gia đình… Để góp phần làm cho công tác giáo dục HSCB trong nhà trường đạt hiệu quả, sau đây tôi xin đưa ra một số biện pháp: 2.1. Nắm chắc quan điểm chỉ đạo của cấp trên Nắm vững đường lối quan điểm của Đảng về công tác giáo dục, mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, lớp học, kế hoạch, nhiệm vụ giáo dục, dạy học của học kỳ, năm học đối với HSCB. Khéo léo khích lệ HSCB chủ động hòa nhập, thực hiện nhiệm vụ chung, nhiệm vụ của lớp trong phong trào chung. Đồng thời, phải nắm vững tri thức lý luận giáo dục, có nghệ thuật sư phạm, xây dựng và phối hợp tốt các mối quan hệ trong nhà trường và địa phương. Tìm hiểu tiềm năng của cộng đồng, địa phương, xã hội, theo dõi thời sự trong nước và quốc tế để vận dụng những hiểu biết đó vào công tác chủ nhiệm. 2.2. Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng Đã là con người thì không ai hoàn toàn đúng, cũng không ai hoàn toàn sai. Đúng hoặc sai trong hành động, việc làm của con người chỉ mang tính tương đối. Vì vậy, với HSCB cũng không ngoại lệ. Dù các em có cá biệt đến đâu thì cũng có khi các em đúng. Với những lúc như thế, dù nhỏ bé, dù ít ỏi, giáo viên cũng phải biết trân trọng. Một lời động viên khích lệ kịp thời khi các em chỉ có một việc làm tốt rất nhỏ cũng đủ làm cho các em thấy tự tin hơn, thấy mình thực sự có ích. Hãy mạnh dạn giao việc, hướng dẫn các em làm theo định hướng của mình nhưng vẫn phải để “đất” cho các em thể hiện tính sáng tạo, tuyệt đối không được áp đặt. 2.3. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong xã hội Chúng ta cần biết sử dụng và phát huy hợp lí giá trị, tác dụng của dư luận xã hội. Chính những dư luận đó có thể tác động ít nhiều đến các em. Các em có 8 thể không sợ thầy cô, bố mẹ nhưng các em có thể sợ dư luận. Giáo viên cần phát huy vai trò của ban đại diện hội cha mẹ học sinh, hợp tác với họ để uốn nắn học sinh. Những khi học sinh mắc lỗi, giáo viên chủ nhiệm thông báo cho ban đại diện cha mẹ học sinh để có biện pháp phối hợp, cùng giáo dục. Thường xuyên thăm gia đình HS để tìm hiểu hoàn cảnh, tạo sự gần gũi giữa giáo viên, HS và phụ huynh. Không nên chỉ khi các em có khuyết điểm mới đến thăm gia đình. Ngoài ra, giáo viên cũng cần tổ chức các buổi ngoại khóa, kết hợp với những người cao tuổi, có uy tín trong làng xã, mời họ đến trường nói chuyện, nhờ họ tuyên truyền giáo dục giúp nhà trường. 2.4. Nhà trường tích cực đổi mới phương thức quản lí, hoạt động Đẩy mạnh và đổi mới các hoạt động tập thể, xây dụng môi trường thân thiện, xây dựng cơ sở vật chất, khu vui chơi giải trí, thể thao. Tổ chức các buổi hoạt động tham quan dã ngoại để lôi cuốn các em đến trường, làm cho các em thực sự thấy “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Tăng cường đưa giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe vị thành niên, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường để các em có đủ hành trang bước vào cuộc sống, không bị bỡ ngỡ, bất ngờ. Khi gặp phải những tình huống bất ngờ các em biết bình tĩnh xử lí hiệu quả nhất. Sưu tầm và đưa các trò chơi dân gian, có thể sáng tạo các trò chơi dân gian cho phù hợp với thời đại ngày nay vào trong nhà trường. Đoàn trường chủ động phối hợp với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn tổ chức tốt phong trào thi đua học tập, rèn luyện đoàn viên theo năm điều Bác Hồ dạy, phong trào xây dựng trường hoc thân thiện, học sinh tích cực; thường xuyên đổi mới nội dung hình thức sinh hoạt; xây dựng đội tuyên truyền hoạt động thường xuyên, nêu gương tốt, phê phán nhưng thói hư tật xấu…Tổ chức sinh hoạt đoàn thường xuyên tạo sân chơi lành mạnh cho các em học sinh chưa ngoan. Có thể tổ chức các hoạt động, các sân chơi theo chủ đề, chủ điểm, các hội thi như: Chúng em với ATGT, Thi cắm hoa, thi văn nghệ, diễn đàn giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên. Thông qua các hoạt động nhằm giáo dục kĩ năng nhận diện vấn đề, biết xác định tình huống, biết cách tự khẳng định, biết cách từ chối khi bị lôi cuốn, 9 biết tự chăm sóc sức khỏe, biết phòng chống các tệ nạn xã hội, thực hiện tốt ATGT, tránh rủi ro đáng tiếc. 2.5. Nêu gương sáng cho học sinh noi theo Bản thân người giáo viên chủ nhiệm phải là tấm gương sáng biết tự hoàn thiện phẩm chất nhân cách của mình. Hơn ai hết, giáo viên chủ nhiệm lớp cần phải có trí tuệ, có lương tâm, có uy tín, sống mẫu mực, tự trọng và biết giữ chữ tín; hiểu biết tâm lý lứa tuổi của học sinh mình chủ nhiệm; phải có tinh thần trách nhiệm cao yêu nghề, yêu thương học sinh và luôn luôn xác định phương châm “vì sự nghiệp trăm năm trồng người” và “tất cả vì học sinh thân yêu”; biết sự kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực hiện thiên chức người kỹ sư tâm hồn; có sự nhạy cảm sư phạm biết dùng yếu tố tình cảm như một nghệ thuật sư phạm để cảm hóa học sinh cá biệt. Đã là giáo viên chủ nhiệm phải gương mẫu về mọi mặt, đoàn kết, nhất trí thành một khối thống nhất có tác dụng giáo dục mạnh mẽ đối với HSCB; phải không ngừng tự hoàn thiện nhân cách của mình, phải thương yêu, tôn trọng, tin tưởng học sinh, có ý thức trách nhiệm về mọi hành vi ngôn ngữ, cử chỉ của mình đối với học sinh cá biệt, đồng nghiệp, bản thân phải là tấm gương cho học sinh noi theo. 2.6. Dùng tình cảm để cảm hóa các em Để hiểu HSCB, trước hết phải biết chấp nhận các em vô điều kiện. Luôn đứng về phía các em, quan tâm điều các em nghĩ, bàn về những đề tài các em thích. Thỉnh thoảng, sử dụng “thuật ngữ” của các em. Đó là cách mang các em đến gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiện, khi niềm tin đủ lớn, người thầy sẽ thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi, khai sáng tư duy, định hướng nhận thức…Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em. Hãy tôn trọng nhân cách của các em. Hãy đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các em biết người tốt chung quanh ta nhiều lắm. Các em cần được đối xử tử tế, cần được yêu thương và tôn trọng. Không ai được ngược đãi các em vì các em học chậm. Các em có quyền được đặt câu hỏi và yêu cầu thầy cô giáo giải thích cho em hiểu. Chính vì vậy mới cần có trường học. Và đó là lý do tại sao cần có thầy cô giáo...” 10 Khi các em vi phạm, nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học sinh cá biệt này, nếu không sẽ không có hiệu quả, có khi gặp phản ứng không tốt ngược trở lại về phía học sinh. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn: chẳng hạn trong vấn đề xử phạt "mềm nắn, rắn buông". Nếu học sinh có thói hư tật xấu phạm lỗi trầm trọng cũng có thể tùy trường hợp hay tùy đối tượng mà xử lí, không xử lí một cách cứng nhắc. Dù lỗi lầm lớn nhưng nếu em đó biết nhận lỗi và sửa lỗi thì tôi luôn tạo cho học sinh đó cơ hội tự làm chủ bản thân, có niềm tin nghị lực để vươn lên. Thế nhưng đối với những học sinh lỗi vi phạm không đáng kể nhưng lại vi phạm thường xuyên thì tôi không thể bỏ qua mà xử lí một cách linh động tùy theo từng đối tượng. Dù các em vi phạm ở mức độ lỗi lớn hay nhỏ tôi cũng xử lí trên cơ sở giáo dục các em, cụ thể cho em đó biết chuộc lỗi, làm một việc tốt, giao cho em đó thời gian thử thách. 2.7. Kiên trì tạo niềm tin và yêu thương Để điều hành được HSCB, người thầy phải sắm đủ các vai. Khi thì nhà mô phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu vào. Khi thì nhà tâm lý, lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ông trọng tài, lúc khác lại là người cố vấn... Cứ như thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi. Từ cảm giác cô thầy đã không chối bỏ mình, không chê mình, luôn khen ngợi, động viên ..., các em dần phát hiện ra giá trị của bản thân, cảm thấy mình hữu ích và được việc... Thế là tinh thần học tập được nhân lên, tạo ra sự tương tác và cộng hưởng. Giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng. Ta phải làm sao tạo cho học sinh có cảm giác là giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, khích lệ mình khi mình khó khăn trong gia đình, bế tắc trong học tập. Giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn phải thức sớm một chút để không phải đi trễ, mình học yếu thì nên chịu khó, siêng làm bài tập hơn các bạn, khi nào làm bài tập, học sinh mệt thì nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi làm tiếp, không nên cố gắng quá sức. Giáo viên không nên giáo dục 11 ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh cá biệt, tính tình ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không cũng không quan trọng. 2.8. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình Muốn HSCB nghe theo mình thì một yêu cầu quan trọng là thầy, cô phải giỏi nghề. Thầy, cô luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau “mới” hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích tạo nên sự đam mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình. Thầy, cô biết hỏi “gợi mở” mang tính “phát động”, nhất định sẽ nhận được câu trả lời độc đáo. Thầy, cô biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, sẽ “lấp” thời gian “chết”, trò không “nhàn cư vi bất thiện” nghịch, đánh cờ ca rô, nhắn tin… ngay trong tiết học. Ngược lại, trò sẽ tập trung nghe giảng để thực hiện nhiệm vụ của mình. Khi học sinh hỏi bài, giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những việc mà học sinh hỏi, tránh để học sinh cảm thấy mình lạc lỏng, cảm giác vì mình học dở nên không ai quan tâm, ai cũng khinh dễ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình. 2.9. Tích cực tham gia vào công tác đánh giá xếp loại hạnh kiểm, xét thi đua, khen thưởng và kỷ luật học sinh Giáo viên chủ nhiệm phải nghiên cứu lý lịch, hồ sơ học sinh cá biệt: (học bạ, hoàn cảnh gia đình….); trao đổi với các em để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng xu hướng sở thích của học sinh; trao đổi với giáo viên bộ môn, về tình hình của lớp; trao đổi với ban giám hiệu, Đoàn trường, cha mẹ học sinh để có thêm những thông tin về đối tượng HSCB. Sau đó, giáo viên thực hiện đầy đủ các loại sổ sách theo quy định, báo cáo trung thực, kịp thời cho Ban giám hiệu về tình hình đạo đức của HSCB. Trong năm học GVCN cần đến nhà học sinh ít nhất 01 lần để nắm thông tin, thuyết phục cha mẹ học sinh tham gia họp đầy đủ. Hàng tháng chuyển sổ liên lạc đến gia đình học sinh, hoặc nhắn tin qua điện thoại đúng thời gian quy định, xử lý thông tin phản hồi kịp thời, có hiệu quả. Khi có tình huống đột xuất xảy ra, phải xử lý khéo léo. 12 Trên đây là một số biện pháp nhằm giáo dục HSCB ở trường THPT mà tôi đã vận dụng trong học kỳ I, năm học 2018 – 2019 vừa qua. Với tư cách là một giáo viên chủ nhiệm, tôi như tìm được “chìa khóa vàng” để mở cửa vào quá trình hoàn thiện nhân cách của học sinh – một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong nhà trường phổ thông hiện nay. Chương 3. Kết quả vận dụng một số biện pháp giáo dục HSCB ở trường THPT Sau một học kỳ vận dụng phương pháp giáo dục HSCB mới ở lớp chủ nhiệm (12A3), trường THPT Phan Đình Phùng, năm học 2018 – 2019, bản thân tôi nhận thấy kết quả khả quan như sau: 3.1. Dạng cá biệt về học tập Sơ kết học kỳ I, năm học 2018 - 2019, có 01 em dưới điểm, xếp học lực yếu, chiếm tỉ lệ là trên 2,8 %. Cụ thể: STT Họ và tên 1 Trần Ngọc Phú Ghi chú Kém môn Vật Lý 3.2. Dạng cá biệt về đạo đức Qua khảo sát học kỳ I, năm học 2018-2019, cả lớp còn 01 HSCB, xếp hạnh kiểm yếu, chiếm tỉ lệ 2,8 %. Em này thường hay nghỉ học, không chịu lắng nghe giáo viên bộ môn, đi học không chép bài vở … Như vậy, kết quả hai mặt của học kỳ I năm học 2018 – 2019 so với năm học 2017 – 2018, đã tiến bộ hơn hẳn, số HSCB về học lực và HSCB về đạo đức giảm hẳn. Từ 09 em yếu học lực năm 2017 - 2018, đến kỳ I năm học 2018 – 2019 chỉ còn 01 em; hạnh kiểm từ chổ 02 em yếu, đến học kỳ I năm 2018 – 2019 chỉ còn 01 em. Các em ngoan hơn, chăm học hơn, có ý thức xây dựng tập thể, vâng lời thầy cô giáo…. Tuy nhiên, cha ông ta nói cũng thật chí lý: “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò”. Học trò được xếp vào bậc có thứ hạng nên dù đại đa số các em đã ngoan, tiến bộ thì vẫn còn học sinh chưa ngoan, chưa tiến bộ. Giáo viên chủ nhiệm sẽ kết hợp thêm nhiều biện pháp để có kết quả giáo dục tốt hơn. 13 III. PHẦN KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa của đề tài sáng kiến kinh nghiệm Trước thực trạng đạo đức của học sinh THPT có chiều hướng giảm sút nghiêm trọng, việc tìm ra giải pháp giáo dục đạo đức cho HSCB hiệu quả, chất lượng là đòi hỏi cấp bách của gia đình, nhà trường và xã hội nhằm giáo dục những chuẩn mực cơ bản về đạo đức chân chính về truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam từ xưa cho đến ngày nay. Nhất là trong giai đoạn hiện nay: thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế tri thức. Giáo dục HSCB là một công việc khó khăn, phức tạp và hết sức nhạy cảm, đòi hỏi sự kiên trì, lòng nhiệt tình, trách nhiệm cao, tình thương chân thành và cần thiết có một sự phối hợp thường xuyên, chặt chẽ, có hiệu quả từ các lực lượng giáo dục nhất là vai trò của gia đình. Xã hội đang gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về nạn bạo lực học đường. Làm nghề “gõ đầu trẻ”, chúng ta phải tránh đối xử thô bạo, trách móc các em, hãy tôn trọng nhân cách các em; gần gũi, cảm thông, độ lượng, chia sẻ, tạo điều kiện và cơ hội để các em sửa chữa những lỗi lầm, khuyết điểm hoặc phát huy những tài năng, sáng tạo (nếu có). Chúng ta hãy giúp các em lấy lại niềm tin, lòng tự trọng. Đừng bao giờ để các em đánh mất niềm tin ở chính bản thân mình. Bởi vì đánh mất niềm tin ở chính bản thân mình thì các em sẽ mất tất cả. Hãy đến với các em bằng tình thương, sự đồng cảm hơn là một người giáo dục. Những vấn đề chúng tôi vừa trình bày đã và đang là một trong những bức xúc lớn, được sự đồng thuận của đông đảo các cán bộ quản lý giáo dục, các thầy cô giáo. Chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm cùng chia sẻ của đông đảo các bạn đồng nghiệp. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu chỉ là một trường THPT nên có nhiều vấn đề chưa được nhìn nhận một cách toàn diện. Một số phân tích có thể phiến diện chưa bao quát toàn cục của vấn đề, các giải pháp đưa ra chưa thể vận dụng hoàn hảo được trong các trường THPT hiện nay, nhưng tôi tin rằng ít nhiều đề tài cũng giúp cho các nhà quản lý giáo dục thấy được thực trạng của đạo đức HSCB hiện nay, để định hướng lại một số việc cần phải làm 14 trong thời gian sắp tới nhằm góp phần thành công vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt . Đề tài xin được dừng lại ở đây. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp để vấn đề dạy học văn ngày càng đạt hiệu quả cao. 2. Kiến nghị, đề xuất Nhân đây tôi cũng muốn cấp Sở có nhiều chuyên đề hội thảo, bồi dưỡng thường xuyên giúp giáo viên chúng tôi có cơ hội học hỏi, trau dồi kinh nghiệm để thành thạo hơn, nhuần nhuyễn hơn trong công tác chủ nhiệm. 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghiệp vụ quản lý trường THPT – tập 4- trường cán bộ quản lý giáo dục TP. Hồ Chí Minh. Năm 2003. 2. Lý luận quản lý giáo dục và phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục trường THPT- tập 2- trường cán bộ quản lý giáo dục TP. Hồ Chí Minh. Năm 2003. 3. Báo giáo dục, báo tiền phong . 4. Quyết định số 40/2006/QĐ- BGDĐT về việc ban hành quy chế đánh giá xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT. 5. Quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT về việc ban hành điều lệ trường THCS, trường THPT và trường PT có nhiều cấp học. 6. Một số tài liệu tập huấn của Bộ, Sở có liên quan. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan