Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số 5 – 6 ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số 5 – 6 tuổi

.DOCX
31
1415
140

Mô tả:

UBND HUYỆN KRÔNG ANA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Tên đề tài: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số 5 – 6 tuổi Lĩnh vực: Phát triển ngôn ngữ Họ và tên tác giả: Vũ Thị Lợi Đơn vị: Trường Mầm non Sơn Ca Dray Sáp, tháng 03 năm 2019 MỤC LỤC Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU...................................................................................1 I. Đặt vấn đề..........................................................................................................1 II. Mục tiêu nghiên cứu:........................................................................................3 Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ..............................................................3 I. Cơ sở lí luận của vấn đề:....................................................................................3 II. Thực trạng vấn đề:............................................................................................5 III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:............................................8 IV. Tính mới của giải pháp:................................................................................18 V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:...................................................................19 Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.........................................................20 1. Kết luận:..........................................................................................................20 2. Kiến nghị:........................................................................................................21 TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................24 Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề Như chúng ta đã biết giáo dục mầm non là khâu quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân, là bậc học chuẩn bị tiền đề cho giáo dục phổ thong theo mục tiêu giáo dục toàn diện. Ngành học mầm non những năm qua có nhiều chuyển biến về chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ không những ở những thành phố lớn, thị xã, thị trấn, mà được nhân dân các vùng ven, miền núi đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng đang từng bước được cải thiện. Ngôn ngữ là phuơng tiện giao tiếp, là hiện thực trực tiếp của tư duy. Sử dụng ngôn ngữ tốt không thể không tính đến yếu tố mạch lạc. Ngôn ngữ mạch lạc là ngôn ngữ có nội dung rõ ràng, cụ thể, có trình tự, logic, có thể được sử dụng hỗ trợ bằng các quan hệ từ, câu chuyển ý... được người nghe lĩnh hội và hiểu đúng. Ngôn ngữ mạch lạc cũng thể hiện năng lực tư duy và hiểu vấn đề của trẻ. ( Trích Môđun 3 BDTX) Để thực hiện vấn đề này một cách có hiệu quả nâng cao chất lượng giao tiếp bằng Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thì cần phải phát triển ngôn ngữ, bởi vì Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của trẻ, sự phát triển ngôn ngữ là giúp trẻ tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác là phương tiện để giao lưu tình cảm về mối quan hệ và cách ứng xử trong xã hội là sự tìm tòi khám phá thế giới tự nhiên, cuộc sống xung quanh của trẻ. Trong những năm vừa qua nhà nước đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ cho trẻ em người dân tộc thiểu số như: Quyết định số 2123/2010/QĐ-TTG của thủ tướng chính phủ về phê duyệt đề án phát triển giáo dục đối với các dân tộc ít người giai đoạn 2010 – 2015 “Nhà nước ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất và thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục có trẻ dân tộc rất ít người có chế độ, chính sách đặc thù cho trẻ em, học sinh, sinh viên dân tộc rất ít người; tạo cơ hội cho trẻ em sinh viên dân tộc ít người được học tập, đảm bảo thực hiện công bằng trong giáo dục”. Nhưng đối với trẻ dân tộc thiểu 1 số thì đó là vấn đề bất cập, để vận động trẻ đến tuổi ra lớp gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó việc bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ đã gây ra nhiều khó khăn trong việc giao tiếp, mặt khác phụ huynh chưa hiểu hết vấn đề về học tập. Con cái muốn học hành thế nào cũng được, họ ít quan tâm đến việc học của con em mình. Đối với trẻ thì không muốn đi học vì đi học thì sẽ bị gò bó trong khuôn khổ, trẻ thích theo cha mẹ đi lên rẫy để săn bắn chim, chăn trâu, chăn bò. Mặt khác còn một số hạn chế như: Trẻ nhút nhát, tự ti và lung túng khi đứng trước đám đông, chưa có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm, chưa có kỹ năng thích ứng, kỹ năng giải quyết vấn đề, đặc biệt kiến thức còn nghèo nàn. Chính vì thế giáo viên phải đến tận nhà của trẻ để vận động phụ huynh cho con đi học. Khi đến lớp các cháu tỏ ra e ngại, rụt rè, sợ cô không muốn đi học vì trẻ không biết giao tiếp bằng Tiếng Việt mà chỉ biết nói tiếng bản địa. Trẻ dân tộc thiểu số có nhiều nhu cầu khác nhau cần được hỗ trợ khi đến trường mầm non, một trong những nhu cầu quan trọng nhất đối với trẻ dân tộc thiểu số là phát triển ngôn ngữ nói chung và tăng cường Tiếng Việt. Điều này chứng minh trong báo cáo FDI năm 2012 và 2014 ( Bộ giáo dục và đào tạo) về kết quả phát triển của trẻ em vùng dân tộc thiểu số ở các lĩnh vực khác nhau. Kết quả báo cáo trên đã gợi ý cho chúng ta cần phải tập trung vào lĩnh vực phát triển ngôn ngữ và giao tiếp trong quá trình giáo dục trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Chính vì vậy chúng ta cùng nhìn nhận và thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống nói chung và kỹ năng giao tiếp nói riêng cho trẻ. Bên cạnh đó, cần có những biện pháp cụ thể mang tính đặc thù cho nền giáo dục mầm non nói chung và cho nền giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số nói riêng đây là yêu cầu cần thiết và khách quan trong sự phát triển. - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những giải pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số tại lớp lá 5 trường Mầm non Sơn Ca xã Dray Sáp Huyện Krông Ana mà bản thân đã thực hiện trong quá trình giảng dạy trong những năm học vừa qua. 2 - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu và đề ra những biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số tại lớp lá 5 trường Mầm Non Sơn Ca. Nhiệm vụ của các cô giáo mầm non trong việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ mầm non hiện nay đang là vấn đề bức thiết, là việc làm cần thiết có vai trò to lớn trong việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ mầm non, đặc biệt là trẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số nơi tôi đang công tác. Do đó việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ người dân tộc thiểu số là rất cần thiết. Xuất phát từ các lý do trên, bản thân tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số 5 – 6 tuổi tại lớp lá 5”. II. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu đề tài nhằm góp phần nâng cao khả năng giao tiếp cho trẻ ở trường mầm non và chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ vào học trường phổ thông và sự phát triển sau này của trẻ. Đề tài này xây dựng biện pháp giáo dục kĩ năng giao tiếp cho trẻ người dân tộc thiểu số tại lớp lá 5 Trường Mầm non Sơn Ca, Huyện Krông Ana. Lựa chon các biện pháp và giải pháp để giúp trẻ phát triển tốt kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số để nâng cao chất lượng giáo dục tại lớp mình phụ trách. Trong quá trình giảng dạy những năm học vừa qua, những hoạt động ngoài giờ lên lớp có liên quan đến việc tăng cường kỹ năng giao tiếp Tiếng Việt cho trẻ dân tộc. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận của vấn đề: Giáo dục mầm non là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài, ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển nền giáo dục phổ thông, đây là bậc học đầu tiên là nền tảng để trẻ học lên các lớp trên, chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1. Góp phần phổ cập tiểu học đúng độ tuổi. Đồng thời mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ nhận thức phát triển ngôn ngữ, phát triển tình cảm xã hội. Song vị trí của phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non tương đối đặc 3 biệt vì từ sự phát triển ngôn ngữ sẽ tham gia trực tiếp vào sự phát triển của các lĩnh vực khác. Bởi ngôn ngữ là phương tiện giao lưu tình cảm, phương tiện để trẻ nhận thức khám phá tự nhiên. Tiếng Việt là một môn học hết sức quan trọng đối với tất cả các bậc học của nước ta hiện nay. Với trẻ là người dân tộc thiểu số, việc tăng cường Tiếng việt nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ dân tộc là một trong những vấn đề đang được các cấp các ngành các trường học đặc biệt quan tâm. Nghị quyết 40/2002/NQ-QH của quốc hội khóa IX về đổi mới giáo dục phổ thông đã khẳng định: Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông được đưa vào dạy học thống nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tiếng việt trong nhà trường tồn tại với hai tư cách: Vừa là một môn học vừa là công cụ giao tiếp, học tập của trẻ. Do đó trình độ Tiếng Việt (vốn từ, kiến thức về tiếng việt và kỹ năng sử dụng vốn từ trong học tập, giao tiếp) có vai trò và ảnh hưởng rất quan trọng đối với khả năng giao tiếp và lĩnh hội các kiến thức của trẻ. Mục đích của giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số là nhằm phát triển toàn diện nhân cách nói chung và phát triển năng lực hành động của trẻ nói riêng trong các mối quan hệ của trẻ ở gia đình, nhà trường và xã hội. Mục đích của quá trình giáo dục đó phải là hướng tới là hình thành ở trẻ các kỹ năng hành vi, biết biểu lộ thái độ, quan điểm của mình trong giao tiếp với người khác. Đó là trẻ có kĩ năng chào hỏi, nói lời cảm ơn, xin lỗi, biết cách lễ phép với người lớn tuổi, có kỹ năng chia sẽ với người thân, bạn bè, những người xung quanh niềm vui và nỗi buồn biết tự nhận thức về mình và người khác có kỹ năng nghe và trả lời câu hỏi của bạn bè và người lớn tuổi, biết cách từ chối yêu cầu đề nghị khi thấy không hợp lý, có khả năng xử lý tình huống trong quan hệ giao tiếp, có kỹ năng giải quyết một số vấn đề cơ bản. Đất nước Việt Nam ta có rất nhiều dân tộc anh em nhưng Tiếng việt là ngôn ngữ chính để giao tiếp trao đổi với nhau thuận lợi hơn. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay đa số trẻ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, trước khi đến trường trẻ chỉ sống trong gia đình, ở các thôn bản nhỏ, trong môi trường 4 tiếng mẹ đẻ do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu ngữ. Trẻ biết rất ít hoặc thậm chí không biết Tiếng việt. Trong khi đó Tiếng việt là ngôn ngữ được dùng chính thức trong trường học và các cơ sở giáo dục khác. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phải liên quan mật thiết với việc phát triển của bán cầu đại não và hệ thần kinh nói chung, bộ máy phát âm nói riêng. Vì thế cần phải phát triển ngôn ngữ đúng lúc mới đạt kết quả tốt. (Trích phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ em nhà xuất bản Đai học Huế) Trẻ càng lớn thì vốn từ càng tăng nhanh, theo các nghiên cứu thì năm lên 4 tuổi vốn từ của trẻ là 1200 từ, 5 tuổi là 2000 từ và khi được 6 tuổi vốn từ của trẻ lên đến 3000 từ. Sự linh hoạt và phong phú trong ngôn ngữ của trẻ không chỉ phụ thuộc vào tuổi, mà nó phụ thuộc rất lớn vào môi trường ngôn ngữ xung quanh trẻ, nó bao gồm cả môi trường lớp học, môi trường gia đình và môi trường văn hóa xã hội ở địa phương nơi mà trẻ sinh sống. (Trích môđun 3 tài liệu bồi dưỡng thường xuyên) Trên thực tế tiếng nói các dân tộc thiểu số, hầu như chưa có vai trò rõ rệt trong việc hỗ trợ Tiếng Việt trong giáo dục vì vậy, cho đến nay việc dạy và học Tiếng việt ở các vùng dân tộc thiểu số chỉ đạt kết quả thấp. Đặc biệt ở lớp chúng tôi đa số các cháu là người dân tộc Êđê việc nghe và nói tiếng Việt rất kém, mặc dù cô giáo có kèm cặp nhiệt tình thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là do Tiếng việt không phải là một phương tiện sử dụng dễ dàng đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở lớp trẻ mới dùng Tiếng việt nói với giáo viên khi cần thiết còn ngoài ra trẻ vẫn thường xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, dẫn đến tình trạng cô và trò không hiểu nhau dẫn đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ không thể đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy việc cung cấp Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số là hoạt động cần thiết nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít 5 Tiếng Việt có thể học tập và sử dụng Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức một cách đơn giản hơn. II. Thực trạng vấn đề: Trong những năm gần đây được sự quan tâm của sở giáo dục và đào tạo, sự chỉ đạo sát sao của bậc học Mầm non. Hoạt động giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ dân tộc thiểu số nói riêng đã dần được đưa vào một chuyên đề quan trọng. Được sự chỉ đạo sát sao của cán bộ chuyên môn phòng Giáo dục và Đào tạo sự quan tâm của chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể sự ủng hộ nhiệt tình của quý phụ huynh và Ban Giám Hiệu nhà trường thường xuyên quan tâm, hỗ trợ kinh phí, đồ dùng học tập chuyên môn nhà trường thường xuyên phân công dạy mẫu, thao giảng để bản thân cũng như các đồng nghiệp học hỏi đúc rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng giảng dạy cũng như năng lực chuyên môn. Phần lớn trẻ dân tộc thiểu số trước khi tới trường đều sống hoàn toàn trong môi trường tiếng mẹ đẻ, không có vốn Tiếng việt ban đầu nên việc giáo dục kỹ năng giao tiếp Tiếng việt còn khó khăn, do điều kiện kinh tế khó khăn đa số phụ huynh ở đây không biết chữ, phần lớn gia đình đều làm nông nhận thức của bố mẹ còn hạn chế vì thế con em của họ không có điều kiện thuận lợi như những đứa trẻ ở thành thị. Đối với trẻ dân tộc thiểu số môi trường học tập ở trường học còn mới mẻ. Đa số trẻ chưa biết nói Tiếng việt mà trẻ chỉ giao tiếp với nhau bằng tiếng địa phương. Cộng với sự bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ. Chính vì thế giáo dục kỹ năng giao tiếp ở trẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cần có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để trẻ có được nền tảng và nhân cách tốt cho sau này. 6 Giáo dục mầm non có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành nhân cách gốc cho trẻ mầm non, đặt cơ sở nền tảng đẻ trẻ phát triển bền vững sau này. Mục tiêu của giáo dục mầm non hướng vào việc trang bị cho trẻ những kỹ năng giao tiếp chiếm vị trí, vai trò quan trọng nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của giáo dục mầm non. Bởi mọi hoạt động trong trường, lớp đều được thực hiện thông qua giao tiếp. Giao tiếp ở trường mầm non được tiến hành trong mối quan hệ giữa cô – trẻ; giữa trẻ - trẻ; trẻ - với những người xung quanh. Để giao tiếp thành công, hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải hiểu được ngôn ngữ của trẻ. Việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ chưa đạt kết quả cao là do những nguyên nhân các yếu tố như: Giáo viên chủ nhiệm không phải là người đồng bào tại chổ nên việc xử lý các tình huống, cách trao đổi, giao tiếp với trẻ có lúc còn gặp khó khăn và hạn chế. Một mặt chịu sự tác động của các bậc phụ huynh. Một số phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học. Đặc biệt họ có lối sống biệt lập giữa dân tộc này với dân tộc khác nên ít có điều kiện giao tiếp bằng Tiếng Việt, họ không muốn cho con em đi học với mục đích ở nhà đỡ tốn tiền đi học. Đối với trẻ thì không muốn đi học vì nếu đi học đến lớp sẽ bị gò bó trong khuôn khổ, trẻ thích theo bố mẹ lên rẫy chăn bò, bắn chim....Trẻ còn ngại ngùng còn nhút nhát trong giao tiếp, ngại tiếp xúc với người lạ. Thêm vào đó sự bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ đã không ít gây nhiều khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức kỹ năng, khiến trẻ không thích đi học. Được phân công giảng dạy tại lớp lá 5, nơi có 100% trẻ là người dân tộc thiểu số, đa số trẻ có bản tính là nhút nhát môi trường sống chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình và chòm xóm, thiếu môi trường giao tiếp dẫn đến thiếu kỹ năng, trong các giờ học giáo viên lại thiếu quan tâm đến việc rèn luyện kỹ năng 7 giao tiếp cho trẻ sẽ dẫn đến thực trạng. Do đó bản thân đã nghĩ mình phải làm sao? Làm như thế nào để cho trẻ không nhút nhát, tự ti. Bản thân đã mạnh dạn tăng cường những nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp chưa được tiến hành thường xuyên nhằm giúp trẻ tự tin, tự chủ bộc lộ thái độ và hành vi, kỹ năng trong các hoạt động. Việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ hiện nay chưa mang lại kết quả như mong muốn, những biện pháp đã sử dụng trước đây như tạo môi trường, tích hợp lồng ghép, thông qua hoạt động vui chơi chưa đạt hiệu quả cao cụ thể như: Vào đầu năm học, tôi đã chủ động kiểm tra, khảo sát trẻ 35 trẻ lớp lá 5 trường Mầm non Sơn Ca để thấy được thực trạng sử dụng những kỹ năng giao tiếp hằng ngày của trẻ đạt kết quả như sau: Những kỹ năng giao tiếp hằng ngày của trẻ Trẻ lắng nghe thấu hiểu Nói lời yêu cầu đề nghị Xử lý tình huống Giải quyết vấn đề Nói lời cảm ơn, xin lỗi Chào hỏi Tự chủ trong giao tiếp Nói lời từ chối yêu cầu, đề nghị 8 Trước khi chưa Tỷ lệ có biện pháp thực hiện 15/35 12/35 10/35 11/35 13/35 15/35 12/35 10/35 42% 34% 28% 31% 37% 42% 34% 28% Bảng 1: Những kỹ năng giao tiếp hằng ngày của trẻ trong quá trình khảo sát. Kết quả khảo sát cho thấy các kỹ năng giao tiếp cơ bản của trẻ còn nhiều hạn chế, đây là những kỹ năng được sử dụng hằng ngày, thường xuyên và rất quan trọng đối với trẻ dân tộc thiểu số khi tham gia vào các hoạt động ở trường. Từ những điều kiện đặt nêu trên bản thân đã tìm ra những giải pháp, biện pháp để thực hiện trong thời gian vừa qua và thời gian tiếp theo tại lớp đạt hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục. III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Nhằm đánh giá đúng thực trạng và tình hình trên tôi đã mạnh dạn đưa ra các biện pháp và mục tiêu chính của giải pháp để giải quyết vấn đề về giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ em người dân tộc thiểu số. Giúp trẻ phát triển toàn diện các lĩnh vực như: Phát triển về thể chất, tình cảm, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ. Hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1, hình thành ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở cấp học tiếp theo và cho việc học suốt đời. Giúp giáo viên làm tốt công tác giáo dục kĩ năng giao tiếp cho trẻ để đạt được hiệu quả cao hơn. Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng tư vấn tuyên truyền kiến thức nuôi dạy con theo khoa học với các bậc cha mẹ cho toàn thể đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý của trường. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên về giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Bản thân tôi nhận thấy việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong nhà trường là việc làm thường xuyên, liên tục theo kế hoạch hàng tháng, hàng tuần của Ban giám hiệu nhà trường. Đặc biệt là vấn đề dạy kỹ năng giao tiếp cho trẻ trong 9 trường mầm non còn mới mẻ và rất nhiều giáo viên còn chưa hiểu rõ được tầm quan trọng của vấn đề hoặc thiếu kỹ năng giảng dạy để có thể truyền đạt cho trẻ hiểu và hình thành cho trẻ những kỹ năng giao tiếp cần thiết cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm học nhà trường đã tiến hành họp chuyên môn và nêu nhiệm vụ trọng tâm của trong năm học, trong đó nhấn mạnh đến việc đưa các kỹ năng dạy trẻ tập làm một số công việc tự phục vụ, chú ý yếu tố cá nhân của trẻ. Muốn nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh, trước tiên giáo viên phải có nhận thức về những nội dung dạy trẻ. Để giúp giáo viên có vốn kinh nghiệm nhận thức sâu sắc về việc dạy kỹ năng sống cho trẻ thì cần xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên bao gồm những nội dung cụ thể sau: - Cung cấp tài liệu cho giáo viên tham khảo về những hoạt động dạy trẻ kỹ năng sống. Cho giáo viên tham khảo một số giáo án hay, những kinh nghiệm dạy trẻ có nội dung về giáo dục kỹ năng giao tiếp của các giáo viên giỏi và trên các tạp chí. - Tập trung bồi dưỡng cho giáo viên về lý thuyết những nội dung mà trẻ còn yếu để giáo viên có kiến thức dạy trẻ. Bồi dưỡng cho giáo viên hiểu rõ thế nào là dạy kỹ năng giao tiếp. Dạy kỹ năng giao tiếp là dạy cho trẻ những kỹ năng gì. Dạy kỹ năng giao tiếp cho trẻ vào thời điểm nào là hiệu quả nhất. Đặc biệt nhấn mạnh đến những kỹ năng: Hợp tác, chia sẻ; lễ giáo; khám phá, học hỏi; mạnh dạn tự tin. Trẻ cần biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu. Trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ, nó có vị trí khá chính yếu so với tất cả các kỹ năng khác như: Đọc, viết...Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay một chính kiến nào đó, trẻ sẽ dễ dàng học và sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ. 10 + Kỹ năng sống tự tin: Ngay từ khi đến lớp giáo viên nên khuyến khích động viên trẻ giới thiệu tên của mình với các bạn trong lớp. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi, mọi lúc. Thể hiện khả năng, năng khiếu của bản thân trước tập thể như: Biết tự giới thiệu về bản thân, tham gia các chương trình văn nghệ, biểu diễn thời trang… Ví dụ: Trẻ tự tin đứng trước mọi người giới thiệu tên của mình và hát 1 bài hát yêu thích. + Kỹ năng lao động tự phục vụ: Trẻ ở lứa tuổi MN còn rất vụng về, khi để trẻ tự xúc ăn có thể bố, mẹ hoặc cô giáo thấy trẻ lúng túng thì lại đút cho trẻ ăn để tránh rơi vãi, hoặc là khi đến lớp bố mẹ không để cho con cất giầy dép, cởi bớt áo khoác, cất ba lô mà lại làm giúp cho con. Nhưng giáo viên phải xác định rằng đó là cách trẻ học làm người lớn, để cho trẻ tự cần thìa xúc cơm ăn, lúc đầu có thể chưa quen nhưng sau đó dần dần trẻ sẽ thành thục trong việc tự phục vụ cho mình trong ăn uống. VD: Tự đi giày dép, uống nước, tự lấy nệm, lấy gối cho mình (trẻ lớp mầm)…tự mặc quần áo, cùng với cô và các bạn kê dọn bàn ăn, tự đánh răng sau khi ăn, tự rửa mặt … + Kỹ năng sống hợp tác: Khi dạy trẻ kỹ năng hợp tác cần giúp trẻ hiểu có những công việc một mình sẽ không thể làm được. VD Trong giờ hoạt động góc trẻ hợp tác cùng bạn xây dựng ngôi nhà, khu vui chơi… Chính vì vậy phải có sự hợp tác của các thành viên trong nhóm. + Kỹ năng ham học hoi, khả năng thấu hiểu : Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. VD: Trong giờ Khám phá khoa học “ Một số con vật nuôi trong gia đình” trẻ được quan sát các con vật, từ đó tìm hiểu xem con 11 vật đó lông của nó như thế nào hay vì sao con gà lại dùng chân bới xuống đất để làm gì…. + Dạy trẻ biết nói lời cảm ơn, xin lỗi: Ngay từ khi còn bé, nếu trẻ hiểu được nên dùng những lời cảm ơn và xin lỗi trong hoàn cảnh phù hợp thì sẽ rất có lợi cho việc hình thành nhân cách của trẻ sau này. Cho nên giáo viên cần phải biết dạy trẻ sử dụng các lời nói đó vào những hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ khi có người lớn cho quà trẻ phải biết nhận bằng hai tay và nói lời “cảm ơn”, hoặc khi không may lỡ làm bạn ngã thì phải biết dùng lời “xin lỗi” đối với bạn. - Bồi dưỡng về thực hành cho giáo viên: Muốn giáo viên dạy được trẻ các kỹ năng giao tiếp thì đòi hỏi thao tác của giáo viên phải chuẩn mực và có sự thống nhất, những kỹ năng này phải được các cô giáo hướng dẫn giống nhau không có sự lệch lạc mỗi lớp hướng dẫn một kiểu thì sẽ rất khó cho việc kế thừa từ lớp nhỏ đến lớp lớn. Hướng dẫn cho giáo viên cách xây dựng các tiết học theo chủ đề, cách lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống trong các hoạt động chung, nhất là cách tạo ra các tình huống để trẻ giải quyết. Hàng tháng tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn nhằm trao đổi về chuyên môn, về cách lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Từ đó tìm ra những mặt tích cực và khắc phục những mặt còn tồn tại. Ban giám hiệu thường xuyên dự giờ dạy và các hoạt động của giáo viên có lồng ghép nội dung này, từ đó đánh giá được đúng mức trình độ của từng giáo viên để có kế hoạch bồi dưỡng, góp ý. Với những giáo viên khá, giỏi cần hướng cho giáo viên cách tổ chức các tiết dạy và các hoạt động có lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp với nhiều hình thức sáng tạo, hấp dẫn. Cách làm đồ dùng, đồ chơi, sáng tác thơ ca, truyện kể có nội dung về giáo dục kỹ năng giao tiếp. Với những giáo viên mới và có chuyên môn trung bình, Ban giám hiệu đã tập trung bồi dưỡng về chuyên môn, tác phong sư phạm khi lên lớp, cách tổ 12 chức các giờ dạy theo chủ đề, cách lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ sao cho phù hợp và có hiệu quả. Với việc tổ chức các hoạt động mẫu và dự giờ giáo viên thường xuyên, bổ sung góp ý cho giáo viên theo đúng khả năng, chất lượng của giáo viên trong trường đã được nâng lên một cách rõ rệt. Việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ cũng được thực hiện thường xuyên hơn ở trong tất cả các hoạt động. Biện pháp 2: Tổ chức hoạt động tăng cường Tiếng Việt trong việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ . Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người trong xã hội. Ngôn ngữ chính là quá trình con người sử dụng tiếng nói để giao tiếp với nhau. Trong quá trình giao tiếp, con người biểu hiện ý nghĩ và cảm xúc nhờ tiếng nói, do đó để hiểu nhau cùng tiến hành các hoạt động. Thế nhưng đối với trẻ dân tộc thiểu số ở đây mà nói môi trường giao lưu hạn chế, trẻ thường sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp với nhau, trẻ học Tiếng việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai trẻ thường phát âm không chuẩn và có thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp và vui chơi kể cả khi ở trong lớp. Bên cạnh đó hiểu biết về cuộc sống và kỹ năng tiếng mẹ đẻ của trẻ kém ảnh hưởng đến việc tiếp nhận Tiếng Việt của trẻ.Một trong những nhu cầu quan trọng nhất đối với nhóm trẻ ở đây là phát triển ngôn ngữ nói chung và tăng cường tiếng việt. Điều này đã được chứng minh trong báo cáo EDI nă 2012 và 2014 (Bộ giáo dục và đào tạo ) và kết quả phát triển của trẻ em vùng dân tộc thiểu số ở các lĩnh vực khác nhau. Kết quả báo cáo trên cho chúng ta thấy cần tập trung vào lĩnh vực phát triển ngôn ngữ và giao tiếp trong quá trình giáo dục trẻ dân tộc thiểu số. Nắm rõ được tầm quan trọng của việc tăng cường tiếng việt đối với trẻ dân tộc thiểu số dựa vào kế hoạch của năm học, bản thân đã đưa hoạt động “Tăng cường tiếng việt” vào xây dựng kế hoạch của mình theo từng tháng, tuần và ngày phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và được chuyên môn xét duyệt. 13 Qua đó bản thân được trang bị đầy đủ về nội dung, phương pháp và cách thức tổ chức tại lớp về tăng cường tiếng việt cho trẻ em dân tộc thiểu số. Bản thân nhận thấy rằng khi bắt đầu học tiếng việt mục tiêu đầu tiên là hiểu được nghĩa: Tạo giao tiếp tốt với trẻ bằng ánh mắt, mỉm cười thể hiện niềm vui khi nói chuyện với trẻ tránh chất vấn trẻ và trò chuyện một cách tự nhiên với trẻ cần cho trẻ thời gian để phản ứng sử dụng đồ vật và tranh ảnh khi dạy từ mới cho trẻ cung cấp từ khi trẻ cần và mở rộng câu nói phù hợp với trẻ.Trong đó trẻ được lắng nghe, được khuyến khích trò chuyện một cách tự nhiên, giáo viên là người tạo cơ hội cho trẻ giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Kể chuyện là phương pháp hỗ trợ tiếng việt cho trẻ. Trong hoạt động kể chuyện bản thân đã chỉnh sửa câu chuyện cho phù hợp với trẻ dân tộc thiểu số và kết hợp tăng cường tiếng việt cho trẻ - Khi kể chuyện giới thiệu câu chuyện và các nhân vật trước khi đọc chuyện. - Kể lại câu chuyện và sử dụng các đạo cụ minh họa. - giới thiệu các từ chính thong qua hành động và tiếng địa phương. - Kể lại câu chuyện thông qua hoạt động đóng kịch - Khuyến khích trẻ kể lại câu chuyện - mời trẻ có khả năng Tiếng Việt tốt lên kể lại câu chuyện, cho trẻ kể từng đoạn hoặc nhắc lại lời thoại. - Ví dụ: Trong câu chuyện “ Chú dê đen” 14 + Bản thân đã sử dụng con rối để giới thiệu từng nhân vật (dáng đi, tiếng kêu)tính đặc điểm bề ngoài của nhân vật. + Cho trẻ xem tranh và giới thiệu các từ và cho trẻ phát âm nhiều lần. + Khuyến khích trẻ các cụm từ chính vào hoạt động kể chuyện. + Đặt câu hỏi trước, trong và sau khi kể chuyện? Đây là con gì? Nó là con vật sống ở đâu? Thường xuyên cho trẻ hát những bài hát, đồng giao thể hiện nền văn hóa của địa phương. Hỗ trợ chăm sóc vệ sinh, hỗ trợ dinh dưỡng hằng ngày cho trẻ như: Cho trẻ gọi tên món ăn, những loại thực phẩm mà trẻ được ăn hằng ngày. Phương pháp đưa hoạt động “Tăng cường Tiếng Việt” cho trẻ mọi lúc mọi nơi bản thân nhận thấy ngôn ngữ của trẻ phát triển đáng kể. Trẻ tự tin mạnh dạn hơn, không rụt rè, nhút nhát. Trẻ có thể sử dụng thành thạo Tiếng Việt mà ít nói tiếng mẹ đẻ hơn.Từ đó trẻ mạnh dạn giao tiếp với cô giáo với bạn bè hơn. 15 Hình 3: Tạo môi trường tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số mọi lúc mọi nơi. Biện pháp 3: Tăng cường giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số thông qua các góc hoạt động. Lớp học, trường học là môi trường thuận lợi trong việc phát triển tri thức tư duy và ngôn ngữ giao tiếp; lớp học và trường học như một xã hội thu nhỏ, ở đó các em được học tập, vui chơi khám phá và tìm tòi. Trẻ sẽ được hòa mình vào những mối quan hệ giao tiếp rộng hơn. Đối với trẻ mầm non chơi mà học, học bằng chơi, hoạt động vui chơi chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động của trẻ lúc ở trường. thông qua giờ chơi trẻ đóng vai khác nhau trong xã hội, đóng vai và tái hiện lại những gì trẻ đã thấy trong giao tiếp hằng ngày. Tất cả những kiến thức và kinh nghiệm cuộc sống mà trẻ có sẽ được thể hiện qua hoạt động vui chơi. Chính vì vậy tôi rất chú trọng đến việc tạo tình huống khi trẻ đóng vai để trẻ tìm cách giải quyết, cũng như quan sát những điều trẻ thể hiện được những kiến thức mà trẻ có. 16 Hằng ngày khi đến lớp được tham gia vào góc hoạt động qua đó kỹ năng giao tiếp càng được cải thiện như: Đối với góc sách thư viện trẻ được lắng nghe cô và bạn, trẻ bắt chước những từ hoặc câu nói trong chuyện, trẻ tự kể, trả lời câu hởi và những từ mới. Ví dụ: Trong câu chuyện “Chú dê đen” trẻ có thể xem tranh câu chuyện qua đó trẻ có thể kể lại câu chuyện và bắt chước giọng nói hung tợn của nhân vật Dê đen “Dê kia, mày đi đâu?) bắt chước trạng thái và giọng nói run sợ của Dê Trắng “ Tôi đi tìm lá non để ăn và nước mát để uống” - Khi tham gia chơi ở góc phân vai: trẻ có thể chơi giả bộ, đóng vai trẻ biết điều chỉnh giọng nói, ngữ điệu của mình cho phù hợp với vai chơi. Hầu hết các trẻ đều thích chơi ở góc phân vai vì ở đây trẻ tìm được sự lien kết giữa gia đình và lớp học. Chúng được tự do suy nghĩ và tưởng tượng khi đóng các vai như: Giáo viên, bác sĩ, bố mẹ, em bé, ông bà…Trẻ khám phá, tìm hiểu các vai mà chúng đóng. Bản thân cũng đã xây dựng và thiết kế khu chơi đóng vai thể hiện nét văn hóa cộng đồng và gia đình của trẻ. Ví dụ: Ở trò chơi khám bệnh, trẻ xưng hô: Tôi – Bác, Tôi – bạn… Bệnh nhân: Á tôi đau bụng quá bác sĩ ơi Bác sĩ: Để tôi khám cho bác nhé, tôi sẽ lấy thuốc cho bác bác hãy mau uống thuốc đi… Bệnh nhân: Cảm ơn bác sĩ Những câu nói trên của trẻ đã thể hiện sắc thái trang trọng phù hợp với nghề nghiệp. Trẻ đã biết sử dụng các đại từ nhân xưng thích hợp, có sắc thái thể 17 hiện với vai mình đóng. Qua vai chơi trẻ biết điều chỉnh cách nói chuyện thân thiện và xa lạ. Qua đó trẻ học được kỹ năng đó là: Nói chuyện trong khi chơi với bạn, lắng nghe bạn nói, bắt chước bạn học được những từ mới, nói về cảm xúc của bản thân; trẻ được trao đổi, thỏa thuận, chào hỏi…. - Khi tham gia ở góc tạo hình: + Tạo hình là hoạt động nghệ thuật luôn được trẻ ưa thích, tạo cơ hội cho trẻ được thử nghiệm, sáng tạo, khám phá mới, thích thú và trẻ được tiếp nhận cảm xúc. Qua hoạt động này trẻ được trò chuyện trao đổi với nhau khi vẽ; được miêu tả , kể mình vẽ cái gì? - Đối với góc xây dựng, lắp ghép: Trẻ được cung cấp nhiều cơ hội để phát triển óc tưởng tượng, sang tạo, giúp phát triển kỹ năng giao tiếp, ở đây trẻ được lắng nghe, trao đổi thảo luận với bạn, lắng nghe ý kiến của bạn, đề nghị bạn giúp đỡ, chia sẽ đồ chơi, hợp tác giúp đỡ bạn, được miêu tả những gì mình đã xây dựng. - Đối với góc âm nhạc: Trẻ được lắng nghe giai điệu, nhịp điệu âm thanh nhận ra những âm thanh từ những nhạc cụ khác nhau. Trong mỗi giờ lên lớp, trong mỗi hoạt động bản thân đều khuyến khích trẻ chủ động trong giờ học không những tăng cường mối quan hệ giữa cô và trẻ mà còn giúp trẻ có cơ hội được thể hiện ;được trải nghiệm thực tế và kỹ năng của mình khắc phục tính nhút nhát và thiếu tự tin trong giao tiếp. Chính vì thế trẻ cảm thấy lúc ở bên cô sẽ được an toàn, trẻ chủ động mạnh dạn khi giao tiếp với bạn bè và cô giáo. Trẻ hạn chế nói trống rỗng, nói tục mà biết sử dụng những 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan