Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số biện pháp hướng dẫn gv trang trí và sử dụng công cụ hỗ trợ trong lớ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp hướng dẫn gv trang trí và sử dụng công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình vnen

.DOC
29
1248
76

Mô tả:

Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN MỤC LỤC STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 NỘI DUNG TRANG I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 3. Đối tượng nghiên cứu 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 2. Thực trạng 2.1 Thuận lợi, khó khăn 2.2 Thành công, hạn chế 2.3 Mặt mạnh, mặt yếu 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra. 3.Giải pháp, biện pháp 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp 3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp biện pháp 3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp 3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề 1 2 2 3 3 3 4 4 4 5 5 6 6 7 8 8 8 9 23 24 24 25 nghiên cứu. III.PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Kiến nghị 26 26 26 MỤC LỤC MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN GIÁO VIÊN TRANG TRÍ VÀ SỬ DỤNG CÔNG CỤ HỖ TRỢ HỌC TẬP TRONG LỚP HỌC THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI VNEN I. Phần mở đầu: 1. Lý do chọn đề tài. Như chúng ta đã biết, Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam (Dự án GPE-VNEN, Global Partnership for Education – Viet Nam Escuela Nueva) là một Dự án về sư phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam. 1 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy học. Mô hình trường học mới Việt Nam tập trung vào các phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, cho phép học sinh tương tác đến các yếu tố trong lớp học, đặc biệt là tương tác với các công cụ hỗ trợ học tập để tham gia các hoạt động do giáo viên tổ chức. Qua đó, các em được giải đáp những băn khoăn , thắc mắc, phát triển tiềm năng, đam mê, sáng tạo, được rèn luyện các kĩ năng hợp tác, các năng lực học tập, góp phần hình thành phát triển nhân cách con người đáp ứng với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay. Năm học 2015-2016, có trên 3700 trường tiểu học triển khai áp dụng mô hình Vnen trên cả nước; toàn tỉnh Đắk Lắk đã có 74 trường tiểu học tham gia dự án. Huyện Krông Ana đang thực hiện chương trình giáo dục VNEN năm thứ tư. Bước đầu thí điểm tại 4 trường, trong đó có TH Nguyễn Thị Minh Khai. Tính đến năm nay đã có thêm 4 trường nhân rộng. Điểm nổi bật của mô hình VNEN là đổi mới về các hoạt động sư phạm, một trong những hoạt động đó là đổi mới về cách thức tổ chức lớp học, đổi mới về phương pháp dạy học, đổi mới về cách trang trí và sử dụng các công cụ hỗ trợ học tập. Theo mô hình này, quản lí lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”, các “Ban” trong lớp do học sinh tự nguyện xung phong và được các bạn tín nhiệm. Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của các công cụ trong lớp học góp phần không nhỏ vào chất lượng giáo dục theo mô hình Vnen. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu quả của việc sử dụng các công cụ học tập trong lớp học, Ban lãnh đạo đã thường xuyên hướng dẫn, chỉ đạo các lớp cố gắng trong việc xây dựng các công cụ, tổ chức cho học sinh sử dụng các công cụ hỗ trợ học tập dưới nhiều hình thức sáng tạo. Việc phát huy và sử dụng đúng từng loại công cụ với mục đích thích hợp của mỗi bài học đều đem lại hiệu quả nhất định cho việc đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình VNEN. Điều này đòi hỏi sự sáng tạo, đổi mới trong công tác quản lí, chỉ đạo việc dạy học. Mặt khác, để nâng cao chất lượng dạy học và đổi mới phương pháp theo mô hình mới, đòi hỏi người lãnh đạo phải là người nhận thức rõ về “bản chất” của VNEN, từ đó thổi luồng gió mới cho tất cả cán bộ, giáo viên trong trường để cùng thực hiện. Đặc biệt, người quản lí phải hết sức tâm huyết, phải tìm ra được những biện pháp tối ưu nhất để chỉ đạo công tác dạy học. Như vậy mới đưa chất lượng nhà trường ngày càng đi lên. Trong khuôn khổ của bài viết này, tôi chỉ muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp một số biện pháp về Công tác hướng dẫn giáo viên cách trang trí và sử dụng các Công cụ hỗ trợ học tập trong lớp theo mô hình trường học mới (VNEN), để góp phần nâng cao chất lượng dạy học của trường TH Nguyễn Thị Minh Khai. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 2 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN Như chúng ta đã biết, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, có lộ trình và bước đi phù hợp. Mục tiêu mà đề tài cần đề cập là mục đích và tác dụng của việc trang trí lớp học. Trang trí để làm gì? Vì sao phải trang trí và trang trí như thế nào? Thời điểm nào thì bắt đầu thực hiện? Quan trọng nhất là cách sử dụng. Nếu sử dụng không đúng mục đích, không phù hợp đối tượng thì kết quả sẽ không như mong muốn. Vì vậy, nhiệm vụ của đề tài là tìm ra các giải pháp giúp giáo viên năm rõ cách trang trí và biết vận dụng linh hoạt vào bài dạy. Điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Giáo viên – học sinh – cha mẹ và cộng đồng. Tất cả phải có cùng quan điểm, có sự đồng thuận và nhất trí cao mới đem lại thành công. Thực tế lâu nay chúng ta chưa thật sự quan tâm nhiều đến vấn đề này, nhiều người vẫn nghĩ rằng các công cụ chỉ để trang trí cho đẹp, hoặc nếu có cũng chỉ dừng lại mức độ tự học sinh trao đổi với nhau cho vui, chưa phát huy hết tác dụng như Mô hình VNEN mong đợi. Qua quá trình ba năm thực hiện, từ thực tế giải quyết những khó khăn của học sinh, lớp nào ở trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai cũng chọn được một số công cụ phù hợp để thực hiện. Đó là Góc Cộng đồng, Góc Học tập, Góc Thư viện, Góc Thiên nhiên… Tất cả hiện ra dưới bàn tay khéo léo, cần cù, sáng tạo của thầy trò và cha mẹ học sinh. Các công cụ lớp học đã góp phần không nhỏ trong việc rèn kĩ năng sống và giáo dục đạo đức, phẩm chất, năng lực của các em. 3. Đối tượng nghiên cứu - Một số biện pháp hướng dẫn giáo viên trang trí và sử dụng các công cụ hỗ trợ học tập trong lớp học. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu về vai trò người quản lí trong công tác quản lí, chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN). - Nghiên cứu về cách trang trí, tác dụng và cách sử dụng các công cụ hỗ trợ học tập. - Nghiên cứu giáo viên và học sinh khối VNEN của trường TH Nguyễn Thị Minh Khai (về cách sử dụng các công cụ trong mỗi lớp học). 5. Phương pháp nghiên cứu 3 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN -Sưu tầm, nghiên cứu tài liệu: Thường xuyên sưu tầm tra cứu sách báo tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài, qua đó phân tích tổng hợp hệ thống hóa theo mục đích nghiên cứu. - Điều tra, khảo sát thực tiễn: Tiến hành kiểm tra, khảo sát chất lượng và thiết lập một số câu hỏi dạng trắc nghiệm, qua đó nắm bắt được thực trạng chung. - Tư vấn, so sánh: Dựa vào kết quả học tập của học sinh qua từng giai đoạn để so sánh chất lượng. Tư vấn, chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp cho từng giáo viên sau mỗi đợt kiểm tra. - Tổng kết kinh nghiệm: Qua các cuộc họp đột xuất và định kì, đúc rút kinh nghiệm được hoặc chưa được để tổng hợp đi đến kết luận. II. Phần nội dung 1. Cơ sở lý luận Những năm qua ngành giáo dục nước ta có nhiều giải pháp nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng mục tiêu mà Đảng đề ra: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Tuy vậy vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu mà Đảng ta đã chỉ ra. Nguyên nhân có nhiều, song vấn đề mấu chốt hiện nay vẫn là Phương pháp dạy học. Định hướng đổi mới giáo dục của Đảng được thể hiện trong luật giáo dục. Qua đó cho thấy việc đổi mới phương pháp dạy học không còn là vấn đề chung chung mà đã có định hướng rõ ràng, phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, cùng nhau thảo luận để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra. Rèn kỹ năng, đem lại hứng thú học tập cho học sinh và khắc phục kiểu dạy lấy giáo viên làm trung tâm; Hạn chế tối đa lối dạy học truyền đạt một chiều . . . Bắt đầu từ năm học 2008 – 2009 ngành giáo dục phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực ở Tiểu học”. Đây là tín hiệu đáng mừng cho những ai quan tâm đến giáo dục, là bước tiến vượt bậc của ngành. Tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh làm việc trong bầu không khí tích cực, thân thiện. Qua đó giáo dục tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước cho học sinh. Xây dựng nền giáo dục hiện đại giúp học sinh chủ động, thân thiện với bạn bè, thầy cô và với mọi người xung quanh hơn. Học sinh biết tích cực hoạt động trong học tập, bước đầu rèn luyện kĩ năng sống: “Học để biết. Học để làm. Học để tự khẳng định mình. Học để cùng chung sống”. Đối với mô hình trường học mới Việt Nam, việc tạo ra môi trường học tập thân thiện là vô cùng quan trọng. Vì mô hình này tập trung vào các phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, cho phép học sinh tương tác đến các yếu tố trong lớp học, đặc biệt là tương tác với các công cụ hỗ trợ học tập để phát huy các hoạt động học do GV tổ chức. Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của việc sử dụng các công cụ hỗ trợ học tập trong lớp học, trường đã triển khai cho GV hoàn thành các góc công cụ trong lớp một cách sáng tạo, đa số giáo viên đã tạo điều kiện cho các em tương tác công cụ dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, bước đầu đem lại hiệu quả nhất định. 4 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN 2.Thực trạng 2.1. Thuận lợi- khó khăn * Thuận lợi: Trường có hai phân hiê êu đóng ở trung tâm ba thôn Hòa Tây – Hòa Trung – Hòa Đông thuộc Xã EaBông. Tình hình an ninh trật tự trong khu vực tương đối đảm bảo, người dân có mức sống tương đối ổn định. Nhà trường thường xuyên được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính quyền địa phương, của Phòng giáo dục và các ban ngành đoàn thể. Hội phụ huynh học sinh tích cực và có nhiều đóng góp hỗ trợ cho các hoạt động phong trào của nhà trường. Đặc biệt là việc trang trí lớp học theo mô hình VNEN. Đội ngũ CB-GV-NV có tinh thần đoàn kết và hướng phấn đấu tích cực để từng bước xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt. Được PGD&ĐT quan tâm tạo điều kiện trong mọi hoạt động như các đợt tập huấn các cấp và chuyên đề cấp trường. Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, học sinh được học 02 buổi/ngày. Hầu hết học sinh ngoan, chăm chỉ học tập; có 100% học sinh lớp 1 đã qua lớp Mẫu giáo 5 tuổi. Đại bộ phận giáo viên đã tích cực tìm hiểu, tham khảo để nâng cao nhận thức về chủ trương của Bộ GD&ĐT, của Sở GD&ĐT Đắk Lắk, Phòng GD&ĐT Krông Ana trong việc dạy học theo mô hình VNEN. Bước đầu phụ huynh, học sinh hào hứng tham gia, đã có sự đồng thuận trong cộng đồng xã hội. * Khó khăn Đây là mô hình dạy học mới mẻ nên còn nhiều khó khăn trong công tác tuyên truyền. Một vài PHHS chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em, chưa quan tâm đến việc trang trí lớp học. Giáo viên chưa được trải nghiệm kĩ về phương pháp dạy học mới nên còn nhiều lúng túng. Đặc biệt là cách trang trí và sử dụng các Công cụ trong lớp học. Trong quá trình thực hiện kế hoạch đổi mới chương trình, một bộ phận nhỏ giáo viên vẫn chưa tích cực cải tiến phương pháp, còn nặng nề trong lối dạy cũ, chưa chịu khó học hỏi nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đặc biệt là việc sử dụng các Công cụ vào giảng dạy. Họ mới chỉ dừng lại ở hình thức, chưa đi sâu vào nội dung. Một số học sinh chưa quen cách học mới nên còn nhiều bỡ ngỡ. 2.2. Thành công và hạn chế * Thành công: Sau ba năm thực hiện mô hình thí điểm VNEN, theo đánh giá khách quan đã đạt được kết quả bước đầu. Tất cả giáo viên trong trường đã biết cách trang trí và sử dụng công cụ vào dạy học. Hầu hết giáo viên đã hiểu rõ tác dụng của các Công cụ lớp học. Nó góp phần không nhỏ trong sự thành công của từng bài học. Học sinh mạnh dạn, tự tin, không khí học tập trong lớp tự nhiên, nhẹ nhàng, thân thiện, 5 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN giáo viên và học sinh tương tác với nhau nhiều hơn và kết quả học tập, chất lượng giáo dục bước đầu được cải thiện. Cụ thể, giáo viên đã linh hoạt hơn trong việc tổ chức các hoạt động cho học sinh. Giáo viên không còn phải soạn bài nhưng có ý thức nghiên cứu tài liệu học tập, điều chỉnh một số hoạt động cho phù hợp với đối tượng học sinh; làm đồ dùng dạy học để giúp học sinh có phương tiện học tập tốt hơn. Còn với các em học sinh khi áp dụng mô hình thực nghiệm này, tại các lớp học đã thành lập hội đồng tự quản của lớp, bước đầu các em đã biết làm quen với nhiệm vụ của mình. Đáng ghi nhận là sự phát triển năng lực tự học của học sinh. Các em biết tương tác với các Công cụ hỗ trợ học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên, giúp cho việc tiếp thu bài học nhẹ nhàng và hiệu quả hơn (đây được coi là điểm mới của học sinh học lớp VNEN, hơn hẳn các lớp không học theo mô hình này). Nhiều em đã thể hiện được khả năng của mình khi điều khiển và có thể hướng dẫn các bạn khác học. Một điều dễ nhận thấy, đó là học sinh đã mạnh dạn, linh hoạt và sáng tạo hơn trong học tập, có tư duy độc lập khi phát hiện kiến thức mới. Mặt khác, phong trào trang trí lớp học phát triển rầm rộ, có chất lượng và được nhiều trường bạn đến tham quan. Đa số phụ huynh hài lòng với môi trường học tập của con em mình. * Hạn chế: Tuy nhiên, từ thực tế tại trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai (mặc dù đã là trường chuẩn quốc gia) cho thấy, vẫn còn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất không thể “một sớm, một chiều” mà khắc phục được ngay. Trước hết, diện tích lớp học nhỏ, sĩ số học sinh lại đông nên việc trang trí các góc học tập chưa được như mong muốn. Một vài giáo viên chưa biết cách phối hợp hài hòa giữa các công cụ trong lớp, còn trang trí lòe loẹt, rối mắt. Một số giáo viên sức khỏe yếu, tuổi cao và một số giáo viên nữ đang trong độ tuổi sinh đẻ nên có tác động không nhỏ đến việc thực hiện triển khai mô hình mới trong trường. Một số giáo viên chưa hiểu hết tác dụng của các Công cụ lớp học nên việc sử dụng chưa đạt hiệu quả cao. Việc chuyển đổi từ phương pháp truyền thống qua phương pháp dạy học tích cực còn mới mẻ nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh sự bỡ ngỡ. 2.3. Mặt mạnh – mặt yếu * Mặt mạnh: Học sinh được trải nghiệm 3 năm với chương trình VNEN, đa số các em biết cách tự học, chủ động sáng tạo trong việc tham gia tương tác và sử dụng các công cụ tương đối thành thạo. Phụ huynh đồng thuận, tích cực tham gia trong việc trang trí lớp học. Họ đã biết được con mình học gì, học như thế nào, từ đó giúp con nhiều hơn trong việc liên hệ, ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc sống (cha mẹ là giáo viên thực hành khi ở nhà). Nhà trường được PHHS các lớp đồng tình ủng hộ, 6 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN không còn băn khoăn, lo lắng; ban đại diện PHHS các lớp luôn tạo điều kiện tối đa để cùng phối hợp, kết hợp với nhà trường giáo dục học sinh, trong đó có việc tăng cường cơ sở vật chất để trang trí lớp học, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học tập. Trên thực tế, các lớp học thực nghiệm mô hình VNEN tại trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai năm học vừa qua và năm học 2015-2016 được trang trí rất sinh động, đẹp và vui mắt; xây dựng góc học tập, góc thư viện, góc văn hóa địa phương, bản đồ dân cư, trưng bày các bài viết, vẽ... của học sinh nên các em rất yêu thích lớp học và có ý thức giữ gìn, trang trí lớp học của mình tốt hơn. * Mặt yếu: Học sinh vùng nông thôn một số kĩ năng còn nhiều hạn chế như: giao tiếp, hợp tác, lãnh đạo,… Chuyển đổi từ phương pháp truyền thống qua phương pháp học tích cực một cách đột ngột nên không khỏi gây cho GV, HS và phụ huynh tâm lý hoang mang, sợ học sinh không tiếp thu được kiến thức bài học, nhất là đối tượng học sinh còn hạn chế về năng lực. Một số PHHS chưa quan tâm tới việc học của con em, còn phó mặc cho giáo viên. Một số giáo viên còn lúng túng khi tổ chức hướng dẫn học sinh sủ dụng công cụ và sử dụng công cụ chưa đúng mục đích, chưa phù hợp với thời điểm nên công cụ chưa được phát huy tác dụng. Đồng thời một số giáo viên chưa có tinh thần trách nhiệm, chưa tích cực trong việc hướng dẫn học sinh sử dụng công cụ hỗ trợ học tập nên hiệu quả chưa cao. Một vài giáo viên còn thụ động trong việc trang trí và sử dụng các Công cụ lớp học. Chưa có sự sáng tạo, linh hoạt để phát huy hết tác dụng của các Góc học tập. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Thứ nhất, cơ sở vật chất phải đảm bảo chuẩn theo yêu cầu của mô hình Vnen. Thứ hai, nhận thức và sự cầu tiến của giáo viên rất quan trọng. Họ là nhân vật chính để thay đổi phương pháp dạy học. Thứ ba, sự tiếp thu và tiến bộ của học sinh, đây chính là ”sản phẩm” của quá trình dạy học. Chất lượng học sinh quyết định kết quả của việc đổi mới giáo dục. Thứ tư, sự nhiệt tình tham gia của cộng đồng, họ phải đồng thuận với chúng ta trên con đường giáo dục hiện nay. Một yếu tố tác động mà bất cứ trường tiểu học nào cũng sẽ gặp phải khi triển khai thực nghiệm mô hình VNEN, đó là học sinh từ lớp 1 lên lớp 2 khả năng điều hành của nhóm trưởng chưa tốt, chưa quen với việc tương tác với các công cụ lớp học nên phải mất nhiều thời gian để giáo viên hướng dẫn học sinh ở những tháng đầu năm học mới, cần có thời gian để các em làm quen. Bởi vậy, dù các học sinh trong lớp đã tự bầu ra được hội đồng học tập, các nhóm học tập nhưng cũng phải mất một vài tháng đầu năm học, các em học sinh trong mới có thể luân phiên đảm 7 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN nhận trách nhiệm làm nhóm trưởng để giúp các em có được sự tự tin, hoạt bát như mục tiêu của mô hình VNEN đề ra. 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề của thực trạng trên Thực tế giáo dục nói chung và dạy học nói riêng của nước ta hiện nay còn nhiều biểu hiện hạn chế, thậm chí còn lạc hậu trước những yêu cầu của nền kinh tế xã hội đang đổi mới và yêu cầu phát triển của đất nước. Vì vậy việc quản lý hoạt động dạy học là nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học để thực hiện chiến lược con người - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội là bức thiết, là quan trọng. Trước đây, vì chưa có kinh nghiệm nên việc trang trí còn mang nặng tính hình thức, màu mè, rườm rà và dẫn đến phản tác dụng cho việc tích hợp giữa mục tiêu học tập, rèn luyện các kỹ năng của học sinh. Thông thường công việc này chỉ được khởi xướng rầm rộ vào đầu năm học. Nhưng sau đó không được cập nhật nên dần dần bộc lộ những hạn chế. Năm nay, chúng tôi định hướng cho giáo viên để việc trang trí lớp học có những nét chung mà vẫn đảm bảo đặc thù riêng của từng lớp. Mỗi giáo viên phải hiểu rõ ý nghĩa của việc trang trí. Phải thuyết phục được học sinh, phụ huynh cùng tham gia. Phải có kế hoạch sử dụng các Công cụ như thế nào cho đạt hiệu quả. Không được để các Công cụ chỉ là “cho đẹp, cho đúng với hình thức lớp VNEN” mà phải là một phần trong các tiết học nếu có nội dung phù hợp. Đó mới là cải đích mà VNEN momg muốn. Phải khẳng định rằng, công cụ để tổ chức hoạt động dạy học trong nhà trường VNEN là rất quan trọng, thông qua các công cụ này, giáo viên có thể phát hiện và nuôi dưỡng các tiềm năng; giải đáp những băn khoăn, lo lắng; giúp các em phát triển sự đam mê, sự sáng tạo và hình thành nhân cách cùng các kỹ năng hợp tác trong học tập. Học sinh sử dụng các công cụ để tham gia hoạt động dựa trên vốn từ vựng và năng lực của mình. Giáo viên có thể hỗ trợ để giúp các công cụ này phát huy được tác dụng trong quá trình học tập của học sinh. Vì vậy, giáo viên cần tận dụng tối đa những công cụ mà lớp lựa chọn để phục vụ cho học tập và các hoạt động của lớp. Các công cụ đã được chứng minh là hữu ích cho công tác quản lý các hoạt động ở lớp học, trường học. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Nhằm đề xuất các giải pháp giúp giáo viên biết cách trang trí và sử dụng các Công cụ hỗ trợ học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Qua đó, giúp các em chia sẻ, tư duy sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, tự tin… góp phần nâng cao chất lượng dạy học, đáp ứng yêu cầu giáo dục hiện nay trong thời kỳ hội nhập. Định hướng cho giáo viên xác định đúng mục đích của việc trang trí lớp: Lớp học có thân thiện thì học sinh mới tích cực. Giúp giáo viên biết cách sử dụng các công cụ như thế nào cho hợp lí và đạt hiệu quả cao. 8 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN Đưa phong trào trang trí lớp vào thi đua, góp phần khơi dậy sự sáng tạo, linh hoạt, có trách nhiệm trong dạy học. Ban giám hiệu không để giáo viên đơn độc mà huy động cả công đồng cùng tham gia vào công tác giáo dục. Trường tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai được nằm trong dự án của chương trình "Dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)”. Điều đó cho thấy, cơ hội cho trường cũng cao nhưng thách thức cũng không phải là nhỏ. Chính vì vậy chúng tôi luôn cố gắng để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Với xu hướng “Dạy thật - học thật - chất lượng thật”, việc dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN) sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh, đồng thời giúp cho người giáo viên nhẹ nhàng hơn trong khâu soạn giảng, có nhiều thời gian đầu tư nghiên cứu bài dạy. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện không thể không gặp những khó khăn nhất định. Vì vậy, sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu là rất quan trọng, chính là đòn bẩy để giúp giáo viên vượt qua những khó khăn ban đầu. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Biện pháp 1: Công tác tuyên truyền Để thực hiện tốt chương trình VNEN, khâu đầu tiên là công tác tuyên truyền. Đặc biệt, người quản lí phải thực sự thấm nhuần bản chất của mô hình VNEN. Từ đó truyên truyền sâu rộng trong nhân dân, các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là trong Hội đồng sư phạm. Tôi luôn xác định: mỗi giáo viên là một “tuyên truyền viên” xuất sắc để giúp phụ huynh và học sinh hiểu rõ về VNEN. Có như vậy mới tìm được sự đồng thuận của cả xã hội. Vì thế, khi được Phòng giáo dục phân công chọn trường dạy thí điểm của dự án, tôi đã không khỏi băn khoăn lo lắng. Chúng tôi tham gia các cuộc họp dân của cả ba thôn, giải thích cụ thể về cách dạy, cách học và đặc biệt là sự hợp tác của cha mẹ học sinh. Mới đầu thật là khó khăn vất vả, nhưng dần dần họ cũng hiểu và ủng hộ nhà trường. Về phía giáo viên và học sinh, sau khi được đi tập huấn tại Sở giáo dục, phòng giáo dục, tôi đã tổ chức chuyên đề cấp trường để tất cả giáo viên thấm nhuần việc dạy học theo mô hình Vnen. Đặc biệt, với công tác trang trí lớp, tôi luôn tìm hiểu, sưu tầm qua các tài liệu để định hướng cho giáo viên cách thực hiện tốt nhất. Những năm trước, chúng ta đã thực hiện trang trí “Trường học thân thiện- học sinh tích cực” nhưng mới đạt ở mức độ hình thức. Với VNEN, việc trang phải xác định rõ: Trang trí cho ai ? Trang trí để làm gì ? Trang trí như thế nào? Bộ phận nào thực hiện ? Vì vậy, cần thông tin, tuyên truyền sâu rộng trong phụ huynh học sinh, chia sẻ với phụ huynh những điều họ còn băn khoăn trong việc giảng dạy theo mô hình trường học mới (VNEN) nhất là vào buổi họp phụ huynh đầu năm học để từ đó họ hiểu và ủng hộ nhà trường, đăc biệt là trong công tác trang trí lớp học. Đồng thời, việc tạo ra một môi trường học tập tốt, để các em coi lớp học như gia 9 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN đình của mình là trách nhiệm của mỗi thầy cô giáo. Từ đó các em sẽ thấy mỗi ngày đến trường thực sự là một ngày vui. Biện pháp 2: Công tác chỉ đạo Triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các cấp; chủ động xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động của nhà trường. Ngay từ đầu năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch và đề ra những giải pháp cụ thể trong công tác quản lý nhằm khắc phục những khó khăn khi thực hiện việc dạy học theo mô hình trường học mới. Cử giáo viên tham gia tập huấn các chuyên đề do Sở giáo dục tổ chức. Phân công giáo viên theo tình hình thực tế của trường và chú ý đến việc phân công giáo viên giảng dạy theo mô hình trường học mới (VNEN). Tham khảo ý kiến trong Hội đồng trường, tổ chuyên môn và thống nhất trong Ban giám hiệu phân công giáo viên theo đúng trình độ chuyên môn, sở trường sở đoản của giáo viên nhằm tạo điều kiện cho họ phát huy hết khả năng của mình trong công tác giảng dạy. Lên kế hoạch thực hiện cụ thể theo từng khối lớp. Phân công thực hiện các chuyên đề, thường xuyên thăm lớp dự giờ để giúp đỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc của giáo viên. Chỉ đạo cán bộ thư viện trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách tham khảo và những tài liệu chuyên môn cần thiết cho công tác giảng dạy. * Về công tác chủ nhiệm lớp: Tôi thấy rằng để xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực” là phải bắt đầu từ việc “xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Mỗi lớp học thân thiện, mỗi học sinh tích cực là một viên gạch nền móng vững chắc cho một ngôi trường thân thiện. Vì thế, vai trò của giáo viên chủ nhiệm rất quan trọng. Họ là người quyết định sự thành công và chất lượng của từng lớp. Nhiều lớp tốt sẽ có trường tốt. Họ là nhịp cầu nối giữa gia đình và nhà trường, là một “tuyên truyền viên” để cộng đồng ủng hộ chúng ta trong lĩnh vực giáo dục hiện nay. Yêu cầu giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Họp cha mẹ học sinh đầu năm để triển khai kế hoạch của nhà trường. Cùng cha mẹ học sinh thực hiện kế hoạch trang trí lớp học. Vận động họ phối hợp nhịp nhàng trong việc giáo dục các em. Đưa hoạt động trang trí lớp vào tiêu chuẩn thi đua và xếp loại GVCN. Đưa việc sử dụng các Công cụ vào tiêu chí đánh giá giờ dạy của mỗi giáo viên. * Về công tác trang trí lớp học: Môi trường học tập xanh, sạch, đẹp, an toàn, thân thiện là yếu tố rất quan trọng góp phần thu hút trẻ đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động. Vì vậy, tôi đã hướng dẫn, tư vấn cho giáo viên cách trang trí để mỗi lớp mang một sắc màu riêng. Tổ chức chuyên đề cách sử dụng để tăng hiệu quả tiết dạy, phát huy tối đa hiệu quả của từng Công cụ. Từ đó, giúp giáo viên hiểu rõ về các Công cụ và 10 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN tác dụng của nó. Không những thế, giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết tương tác với các Công cụ, biết phối hợp với học sinh qua từng hoạt động. Quan trọng nhất, giáo viên phải hiểu được Công cụ lớp học là gì? Ai làm? Trang trí ở đâu? Sử dụng như thế nào? Vì vậy, ngay đầu năm học, tôi đã thực hiện chuyên đề về trang trí lớp và cách sử dụng các Công cụ lớp học. Chúng ta cần biết lựa chọn những Công cụ nào phù hợp với học sinh lớp mình, không nên lạm dụng vì sẽ gây tốn kém và lãng phí. Quan trọng nhất là bản thân mỗi giáo viên phải hiểu rõ tác dụng và mục đích của từng loại Công cụ. Có rất nhiều loại nhưng tôi hướng dẫn giáo viên lựa chọn như sau: - Bảng 10 bước học tập - Hòm thư cá nhân- (Nhịp cầu bè bạn) - Góc sinh nhật - Bảng theo dõi Ngày em đến lớp - Cây nội quy lớp học - Bản đồ cộng đồng - Góc địa phương - Góc thiên nhiên - Góc thi đua - Góc học tập (góc Toán, góc Tiếng Việt, góc TNXH) Trong buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi hướng dẫn giáo viên quy trình thực hiện như sau: Sau khi được sự thống nhất chỉ đạo của Ban giám hiệu, các khối họp tổ bàn bạc, thảo luận và đề xuất phương án thực hiện để lãnh đạo nhà trường duyệt. Sau đó, họp cha mẹ học sinh, thông qua kế hoạch của nhà trường, của lớp và cùng thống nhất cách làm. Tôi luôn nhắc nhở giáo viên làm thể nào để có sự sáng tạo nhưng lại tiết kiệm trong việc lựa chọn nguyên vật liệu. Có thể tận dụng những vật dụng trong gia đình như hộp bánh để làm Hòm thư, bìa cát tông, tờ lịch cũ để làm bảng Ngày em đến lớp; giấy màu, ống hút hoặc báo để làm hoa, có thể tận dụng đũa tre, que kem, xốp để trang trí… Mỗi lớp đều có sự đầu tư, suy nghĩ để làm sao cho lớp mình trở nên vui tươi, nhiều màu sắc mà vẫn đạt thẩm mĩ, không bị rối mắt, giúp các em có cảm giác hưng phấn khi bước chân vào lớp học hàng ngày. Trong buổi chuyên đề, tôi giải thích rõ về mục đích, tác dụng, cách xây dựng và vận dụng từng loại công cụ vào dạy học. Việc này phải thực hiện ngay từ tháng tám. Sau đây là một vài ví dụ về cách xây dựng và sử dụng một số công cụ trong lớp học: * Hòm thư cá nhân hay Nhịp cầu bè bạn: Trước hết, giáo viên phải hiểu rằng: Hòm thư kết bạn tạo cơ hội cho GV và HS trong lớp được chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ, hình thành cho HS thói quen biết quan tâm, chia sẻ với mọi người; rèn luyện HS biết tôn trọng sự riêng tư của bạn, góp phần nâng cao năng lực sử dụng Tiếng Việt cho các em. Công cụ này còn 11 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN là cách để động viên, khích lệ HS hiểu nhau và thương yêu nhau hơn. Có thể vận dụng vào các bài học GD Đạo đức, môn Tiếng việt, các tiết SHTT hoặc NGLL... - Cách thực hiện như sau: + Bước 1: GV cho mỗi HS tự tạo một hộp thư nhỏ từ các vật dụng như hộp bánh nhỏ, giấy bìa, tranh ảnh, giấy màu, giấy trắng… GV để HS tự vẽ, cắt dán, trang trí những hình ảnh các em yêu thích. Trên mỗi hộp thư cá nhân có tên của HS. GV có thể hỗ trợ HS, HS có thể hỗ trợ lẫn nhau để tạo hộp thư. Công việc này cũng có thể thực hiện ở nhà với sự hỗ trợ của PHHS. GV lưu ý HS về kích cỡ tối đa cho mỗi hộp thư cá nhân. + Bước 2: HS cùng gắn những hộp thư cá nhân của mình tại một vị trí trong lớp. Hộp thư bè bạn được trang trí đẹp mắt, được gắn ở vị trí đảm bảo tất cả các HS trong lớp đều có thể với tới được. - Cách sử dụng: GV cùng trao đổi với HS về tác dụng của hộp thư bè bạn, giải thích cho HS thấy mỗi cá nhân trong lớp đều có một hộp thư riêng nên bất cứ điều gì các em muốn chia sẻ, trao đổi với bạn bè hoặc GV, các em có thể viết thư và bỏ vào hộp thư riêng của bạn, của Cô. Các em có thể đề tên của mình trong thư hoặc không. GV nên sử dụng hộp thư bè bạn để khích lệ, động viên, góp ý với HS mà không làm các em xấu hổ trước lớp. GV cũng có thể bỏ vào hộp thư cá nhân của các em những bài toán, câu đố để tăng thêm hứng thú học tập cho các em. GV nên mở hộp thư hàng ngày hoặc hàng tuần để ghi nhận, trả lời những ý kiến của HS cũng như giải quyết các vấn đề nảy sinh trong lớp. Tốt nhất nên mở hộp thư hàng ngày để đảm bảo cập nhật và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Tôi lưu ý GV, những vấn đề mang tính cá nhân thì cần trao đổi với cá nhân HS, những vấn đề mang tính tập thể thì cần có sự trao đổi, bàn bạc trước cả lớp để tìm ra phương án giải quyết. 12 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN Nói chung, Hộp thư Bè bạn hay Hòm thư cá nhân đều là con đường dẫn dắt giáo dục học sinh hoàn thiện dần cái hay cái đẹp, giúp tình cảm bạn bè của học sinh ngày càng thắm thiết qua những lời tâm sự mộc mạc, ngây thơ của tuổi học trò; từ đó khơi dậy, thôi thúc các em thêm yêu trường, yêu lớp, yêu bạn bè… qua những lời tâm tư tình cảm, còn là chiếc cầu nối của các em với phụ huynh và thầy cô giáo trong những trường hợp cần thiết mà các em không thể nói trực tiếp. Nhiều giáo viên của trường cũng viết thư cho học sinh tâm sự như những người bạn thân, giúp cho các em chuyển biến từ nhận thức tiêu cực sang nhận thức tích cực. Có những lời tâm sự qua thư trở thành những kỉ niệm đẹp khó quên, in đậm mãi trong tâm hồn của trẻ, hơn hẳn những lời dạy bảo khác. Cũng có những bức thư làm cô giáo xúc động, thương các em nhiều hơn. Qua những lá thư, tình cảm giữa cô trò càng thêm gắn bó và có trách nhiệm hơn. Đăc biệt, có thể phối hợp với cha mẹ học sinh để khai thác tác dụng của Công cụ này trong việc rèn Kĩ năng sống hoặc giáo dục đạo đức cho các em. Đó cũng là một cách để tăng cường Tiếng việt cho học sinh. Ví dụ: Trước buổi họp CMHS, giáo viên tổ chức cho các em viết thư cho người thân, những điều mà các em không muốn nói trực tiếp, hãy nhờ hộp thư chia sẻ những tâm tư tình cảm để bố mẹ, ông bà hiểu mình hơn. Và điều không ngờ đã xảy ra. Học sinh hào hứng tham gia. Bố mẹ các em thì rất ngạc nhiên với hình thức mới mẻ này. Đọc thư của con, người thì cười tủm tỉm, có người lại quay đi giấu những giọt nước mắt. Giáo viên chủ nhiệm nhờ cây cầu tình cảm đó mà thắt chặt mối quan hệ nhà trường với cộng đồng. Một điều không thể thiếu trong việc giáo dục các em học sinh. Tôi vẫn nhớ một kỷ niệm khó quên ở lớp 5C, khi tôi dự giờ một tiết Sinh hoạt lớp. Cô giáo tổ chức cho học sinh kiểm tra Hộp thư bè bạn và Điều em muốn nói. Có một lá thư đã làm cả lớp xúc động, riêng tôi phải rơi nước mắt. 13 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN Một lá thư của HS Sau tiết học đó tôi và cô giáo chủ nhiệm đã tìm hiểu hoàn cảnh gia đình em và động viên để em có niềm vui trong học tập. Em Hiếu nhận món quà nhỏ của tôi tại văn phòng 14 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN Như vậy, nếu chúng ta biết cách khai thác dù là những chuyện nhỏ nhưng hiệu quả giáo dục đem lại rất lớn. *Về Góc sinh nhật: Giáo viên cần hiểu rõ ý nghĩa của Góc sinh nhật: Tạo sự vui tươi trong lớp học, giúp cho HS biết cách quan tâm đến bạn bè, biết cách tổ chức các buổi lễ kỉ niệm nho nhỏ tạo sự gắn kết các thành viên trong lớp. Ở lứa tuổi Tiểu học, nhiều em không nhớ mình sinh vào ngày, tháng, năm nào? Có những em chưa một lần được bố mẹ tổ chức sinh nhật cho. Thậm chí có em không biết “sinh nhật” là gì?. Cũng có em đã được bố mẹ tổ chức một, hai lần ở nhà nhưng cũng chỉ có những người thân, các anh, chị và bạn bè trong thôn, xóm mà thôi. Việc xây dựng “Góc sinh nhật” là một trong những điểm mới của mô hình “Lớp học VNEN”. Nó giúp các em hưởng trọn niềm vui, niềm hạnh phúc trong ngày kỷ niệm trọng đại đó bên thầy cô, bố mẹ và bạn bè cùng trang lứa. 15 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN Cách xây dựng: GV không nên tự làm mà nên trao đổi với HS trong lớp về cách xây dựng góc sinh nhật. Có thể là một cây với 12 bông hoa hoặc quả tương ứng với 12 tháng trong năm và trên mỗi bông hoa ghi tên các bạn có ngày sinh trong tháng. GV hãy để các em tự trao đổi và thống nhất cách thực hiện. Cũng có cách xây dựng khác nữa là GV chia lớp thành các nhóm có cùng tháng sinh. Nhóm đó sẽ cùng bàn bạc để tìm cách mừng sinh nhật mà các em thích nhất cho từng thành viên trong nhóm của mình. Có thể cả phụ huynh cùng tham gia. - Cách sử dụng: GV và HS có thể lên kịch bản cho một chương trình văn nghệ, trò chơi... trong tiết Sinh hoạt lớp hoặc tiết SHTT. GV cần hướng dẫn cho HS trong lớp chúc mừng bạn mình và gợi ý HS sử dụng các công cụ khác (vd: hộp thư bè bạn, những lời yêu thương...) để hiện tình cảm với bạn mình trong ngày sinh nhật của các em. GV nên tạo điều kiện cho HS được mừng sinh nhật nói về bản thân mình, về những thay đổi khi một tuổi mới đến với em hoặc những tâm tư tình cảm của các em. Như vậy, qua Công cụ này giúp học sinh được Tăng cường Tiếng việt và rèn kĩ năng tự tin, mạnh dạn trước tập thể. * Bảng theo dõi: Ngày em đến lớp. Mục đích: Bảng Ngày em đến lớp được thiết kế để theo dõi sĩ số hàng ngày của lớp. Công cụ này như một bảng đánh giá sự chuyên cần của HS. Giúp HS phát triển tính tự giác, đi học đúng giờ, có tinh thần trách nhiệm trong học tập. HS cảm thấy vui vẻ, hứng thú khi đến trường. Cách xây dựng: Làm một bảng chung cho cả lớp, ghi tên HS, ngày tháng vào các ô tương ứng. Có thể trang trí xung quanh bảng cho đẹp và vui mắt. Tôi còn nhớ năm đầu tiên thực hiện VNEN, từ quản lí đến giáo viên đang còn bỡ ngỡ, chỉ biết trang trí lớp cho thật nhiều, thật đẹp mà không nghĩ đến cách sử dụng. Vì vậy, bảng Ngày em đến lớp treo thật cao, giáo viên cũng phải bắc ghế mới tới nơi. Sau vài năm, khi đã hiểu rõ về VNEN, chúng tôi mới “vỡ” ra nhiều 16 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN điều. Góc trang trí “Ngày em đến lớp” sẽ do các em tự điền dấu tích đánh dấu mỗi ngày đến trường. Qua đó, hình thành ý thức đi học chuyên cần, sự thi đua giữa các bạn với nhau. Vì thế, phải đặt ở vị trí thấp và dễ cho học sinh đánh dấu. Cũng không cần đóng bảng cầu kì, chỉ cần một lốc Lịch cũ, lật ngược mặt sau và trang trí thêm hoa lá, vẽ vài đường diềm là ta đã có bảng Ngày em đến lớp thật đẹp, gần gũi và tiện dụng. HS lớp 3 A đang đánh dấu ngày mình đi học * Bảng Nội quy lớp học: Cách xây dựng: Đầu năm học, GV tổ chức cho HS trong lớp cùng thảo luận, thống nhất đưa ra nội quy của lớp. Nội quy cần ngắn gọn, cụ thể dễ hiểu dễ nhớ. Có thể bổ sung điều chỉnh nội quy nếu thấy cần thiết và nên công bố ở kỳ họp cha mẹ HS. Vật liệu làm nên chọn bìa cát tông và vẽ trang trí cây hoa hoặc quả. Mỗi bông hoa là một yêu cầu về nội quy. Ví dụ: “Chúng ta cùng nhau đoàn kết, giữ gìn vệ sinh chung các bạn nhé!” Cách sử dụng: Cây nội quy nên đặt ở nơi dễ nhìn thấy, hội đồng tự quản theo dõi và nhắc nhở các bạn thường xuyên thực hiện tốt nội quy. Từ đó hạn chế được việc vi phạm nội quy, ảnh hưởng đến phong trào thi đua của lớp. Qua đó giáo dục các em tinh thần tự giác, sống có trách nhiệm với bản thân và với mọi người. Có thể vận dụng vào các bài học GD Đạo đức, môn Tiếng việt … * Góc cộng đồng Mục đích: Bản đồ cộng đồng giúp HS biết được khoảng cách các em đi học từ nhà đến trường. Xác định được những thuận lợi khó khăn gặp trên đường đi. Biết những chỗ nguy hiểm để tránh rủi ro. Biết địa chỉ nhà bạn để đến thăm. 17 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN Cách xây dựng: Bản đồ cộng đồng là sự mô tả một cách đơn giản bằng hình vẽ khổ to về cộng đồng địa phương, trong đó bao gồm đường đi lại, ao hồ, trường học, các nơi công cộng, các trụ sở công an, nhà văn hóa, công viên, trạm y tế , những nơi có thể nguy hiểm với HS... Quan trọng nhất là Bản đồ cộng đồng có tất cả các ngôi nhà của HS trong lớp đang sinh sống. Để làm được Công cụ này không thể thiếu sự hợp tác của phụ huynh. Họ sẽ giúp giáo viện xác định vị trí các ngôi nhà, vẽ sơ đồ, đánh dấu những nơi nguy hiểm nhất… Nhà gần, nhà xa, nhà to, nhà nhỏ, chợ Hòa Đông, chùa Thiện Hòa xuất hiện đầy đủ trong sơ đồ. Nếu không có sự hợp tác của cha mẹ các em thì không thể tái hiện Góc cộng đồng một cách đầy đủ, chi tiết như vậy. Đây là điều mới mẻ mà công tác chủ nhiệm trước kia chúng chưa làm được. Nếu muốn đến nhà em A, chỉ cần nhìn vào sơ đồ là ta sẽ biết nhà ở vị trí nào. Không những thế, Góc Cộng đồng còn giúp giáo dục các em ý thức về “cộng đồng”, khiến các thêm yêu mến quê hương mình hơn. Qua đó, nhịp cầu nối giữa gia đình và nhà trường càng xích lại gần nhau hơn. Một Phụ huynh lớp 3B chia sẻ: “Tôi tất vui khi được tham gia học cùng con. Có như vậy tôi mới biết con mình đang học cái gì, học như thế nào?” 18 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN * Góc địa phương - Đây là một bảng mô tả một cách đơn giản về mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng địa phương, trong đó bao gồm các thông tin về mùa vụ, nghề thủ công đặc trưng, phong tục tập quán, văn hóa lễ hội, trang phục đặc sắc, khí hậu thời tiết…, và một số sản vật đặc trưng của địa phương. Quan trọng nhất là cách thức đưa những nội dung thông tin đó vào các hoạt động dạy học trong lớp một cách hữu ích nhất. - Các thành viên trong cộng đồng bao gồm cha mẹ HS, HS và GV tham gia vào quá trình xây dựng “góc địa phương” này. Có thể vẽ trên giấy khổ to, hoặc trên tấm bìa lớn để mô tả thông tin về mùa vụ, nghề thủ công của địa phương, lễ hội, khí hậu thời tiết… với các màu sắc sinh động. Mọi người có thể đóng góp hoặc sưu tầm một số sản phẩm đặc trưng của địa phương để trưng bày tại góc cộng đồng. 19 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai Một số biện pháp hướng dẫn GV trang trí và sử dụng Công cụ hỗ trợ trong lớp học theo mô hình VNEN HS sưu tầm Sản vật của quê hương Với Góc địa phương, ta có thể vận dụng vào các môn học như Địa lí: Bài Các dân tộc ở Tây Nguyên hay HĐGD Âm nhạc giới thiệu các nhạc cụ của Tây Nguyên. Đặc biệt môn Tiếng Việt, ta vận dụng được nhiều nội dung để tăng cường Tiếng Việt cho các em. * Còn về Góc Học tập: Ngay từ đầu năm học, GV tổ chức tìm những tài liệu phù hợp để đưa vào góc học tập với sự giúp đỡ của HS và cộng đồng. Các tài liệu không phải là thứ duy nhất có trong góc học tập. Giáo viên phải lựa chọn những tác phẩm hay, liên quan đến nội dung bài học để trưng bày trong các góc học tập. Đây là nơi HS trưng bày những sản phẩm đẹp mà các em đã làm được. Ví dụ: sản phẩm môn Thủ công, Kỹ thuật, Mỹ thuật, các bài văn hay, chữ viết đẹp…… nhằm động viên khuyến khích sự tiến bộ của HS. Sau mỗi tiết học, giáo viên tổ chức cho các em trưng bày sản phẩm của mình. Nên có sự thi đua giữa các tổ, nhóm, cá nhân để có nhiều sản phẩm chất lượng cao. Trước đây, vì còn mang tính hình thức nên Góc này thường treo một loại sản phẩm từ đầu năm đến cuối năm, chủ yếu là để cho đẹp. Tôi đã hướng dẫn giáo viên thay đổi sản phẩm theo tháng hoặc theo chủ điểm để nhiều em có cơ hội thi đua, nhiều sản phẩm được trưng bày hơn. Đó chính là động lực khiến các em chăm học và luôn cố gắng hoàn thành tốt bài học. Trong Góc học tập có Góc Tiếng Việt: 20 Tác giả: Nguyễn Thị Thanh Tâm - PHT Trường TH Nguyễn Thị Minh Khai
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan