Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số biện pháp luyện từ và câu lớp 4...

Tài liệu Skkn một số biện pháp luyện từ và câu lớp 4

.PDF
18
1746
58

Mô tả:

Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 I. TÊN ĐỀ TÀI Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 II. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Cơ sở lí luận: Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ. Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình. Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học. Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn...song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4. 1.2 Cơ sở thực tiễn. Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho các Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải không ít những khó khăn. Bởi đây là chương trình thay sách lớp 4. Cùng tồn tại với nó là từ ngữ và ngữ pháp của chương trình cải cách đều đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -1- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi. Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đơn, từ ghép, các kiểu từ ghép...bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy của mình. Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4”. 2. Mục đích nghiên cứu Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cách hiệu quả nhất. 3. Đối tượng nghiên cứu Hoạt động dạy - học phân môn Luyện từ và câu, cụ thể việc rèn kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 4 nói riêng. 4. Đối tượng khảo sát thực nghiệm Học sinh khối 4 Trường tiểu học Hướng Phùng 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được mục đích của đề tài đặt ra, tôi mạnh dạn nghiên cứu, học hỏi tìm tòi, áp dụng những phương pháp sau: 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu). 2. Phương pháp phân tích tổng hợp. 3. Phương pháp điều tra. 4. Phương pháp thực nghiệm. 5. Phương pháp đàm thoại. 6. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm. 6. Phạm vi nghiên cứu và kế hoạch nghiên cứu Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -2- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Tìm hiểu tình hình học tiếng việt phân môn Luyện từ và câu thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu. Đề xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4. 1. Dự giờ thăm lớp, tiếp xúc gần gũi với học sinh và hiểu tình trạng giải quyết làm các bài tập Luyện từ và câu của giáo viên và học sinh lớp 4. 2. Đề ra phương hướng để nâng cao chất lượng làm các bài tập có hiệu quả hơn. 3. Dạy thực nghiệm, áp dụng trên lớp đối chứng, phân tích các kết quả bằng số liệu thống kê. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Tiếng Việt rất phong phú và đa dạng. Chính vì thế để hiểu và sử dụng được nó quả là vấn đề khômg đơn giản. Đặc biệt đối tượng là học sinh tiểu học, các em bắt đầu làm quen với với cách hiểu nghĩa của từ mà vốn từ về sự hiểu biết về xã hội bên ngoài còn rất ít, nên mục tiêu của việc dạy mở rộng vốn từ là giúp học sinh hiểu được nghĩa của từ để lĩnh hội hệ thống tri thức bài học, làm phong phú vốn từ cho học sinh, không chỉ về số lượng mà còn cả về chất lượng, giúp các em tích lũy dần kho từ vựng của mình. Dạy mở rộng vốn từ cho học sinh còn giúp cho học sinh hiểu được nghĩa của từ, từ đó có thể hiểu được bài và nắm nội dung của bài chắc hơn, bên cạnh đó giúp học sinh dùng từ một cách chính xác hơn. Chính vì vậy mà chúng ta không chỉ cung cấp cho học sinh một hệ thống từ mới mà còn giúp học sinh hiểu được cả ý nghĩa của các từ mới.Từ chỗ hiểu được nghĩa của từ mà học sinh sẽ biết cách sử dụng từ ngữ một cách chính xác, linh hoạt, có thể trau dồi và phát triển ngôn ngữ, sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hàng ngày, rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, tăng khả năng tư duy và diễn đạt, từ đó góp phần nâng cao khả năng tư duy cho học sinh, giúp các em bày tỏ được những tư tưởng, tình cảm của bản thân một cách dễ dàng. Chương trình Tiểu học mới xác định mục tiêu của môn Tiếng Việt nói chung và của phân môn Luyện từ và câu lớp 4 nói riêng là: Phải hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc và viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Bên cạnh đó cần cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài,... Chúng ta cũng không quên việc bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -3- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 thành nhân cách con người Việt Nam XHCN: Có tri thức, thấm nhuần truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ưa chuộng lối sống lành mạnh, ham thích làm việc. Chính vì những mục tiêu nêu trên nên nhiệm vụ chủ yếu của dạy và học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 hiện nay, nhiệm vụ chủ yếu là giúp học sinh làm giàu vốn từ, cụ thể: giúp học sinh phát triển mở rộng vốn từ, hiểu nghĩa của từ và luyện tập sử dụng từ ngữ theo các chủ điểm học tập, gần gũi với đời sống, sinh hoạt của các em. Các nhiệm vụ trên được thực hiện thông qua hệ thống bài tập tương ứng mà học sinh được thực hành, luyện tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Cho nên có thể nói chương trình phân môn Luyện từ và câu cũng như các phân môn khác, thuộc môn Tiếng Việt là một chương trình thực hành. Ý thức làm giàu vốn từ cho bản thân, ý thức tìm hiểu nghĩa từ ngữ của học sinh, kỹ năng nắm nghĩa từ, kỹ năng của học sinh tất cả đều chỉ được thực hành, phát triển qua việc thực hành luyện tập của học sinh. Vì vậy việc dạy học luyện từ và câu ở tiểu học nói chung và lớp 4 nói riêng phải được tổ chức theo tinh thần thực hành, mang tính thực hành. Có như vậy việc dạy - học rèn luyện kỹ năng mở rộng vốn từ mới đạt được các mục tiêu đề ra và đạt được hiệu quả mong muốn. 2. Cơ sở thực tiễn Chương trình Tiếng Việt nói chung, phân môn Luyện từ và câu lớp 4 nói riêng, là môn học của tiếng mẹ đẻ, một môn học quan trọng chiếm một vị trí chủ yếu trong chương trình tiểu học ở nước ta. Hiện nay dạy Tiếng Việt ở trường tiểu học, theo hai loại yêu cầu: lý thuyết và thực hành. Lý thuyết ngôn ngữ là những tri thức về đặc điểm, quy luật của các hiện tượng ngôn ngữ. Thực hành ngôn ngữ là hoạt động thực tiễn. Trong hoạt động này học sinh sử dụng ngôn ngữ để đạt được mục đích cụ thể. Thực hành ngôn ngữ dưới dạng tự nhiên chính là sự giao tiếp ngôn từ đọc, nghe hay nói, viết đều làm việc với ngôn bản, văn bản vì như thế mà thực hành ngôn ngữ trong học về tiếng mẹ đẻ có thể và cần tách thành những hoạt động thực hành bộ phận như thực hành về câu, thực hành về từ ngữ thì phải có vốn từ phong phú, mà vốn từ là khối từ ngữ cụ thể, hoàn chỉnh mà mỗi học sinh phải tích lũy được trong kí ức của mình. Vốn từ của mỗi học sinh không phải em nào cũng giống em nào. Có những học sinh giỏi thì vốn từ phong phú hơn, ngược lại những học sinh yếu thì vốn từ hạn chế hơn. Từ những mục tiêu nói trên và căn cứ vào nhiệm vụ của việc dạy và rèn luyện kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 4, đặc biệt là căn cứ vào nội dung chương trình sách giáo khoa mới, có thể nhận thấy những yêu cầu cơ bản về kỹ năng mở rộng vốn từ là: Từ ngữ được mở rộng và hệ thống hóa trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4 bao gồm các từ thuần Việt, Hán Việt, thành ngữ và tục ngữ phù hợp với chủ điểm học tập của từng đơn vị học. Mở rộng, hệ thống hóa vốn từ và trang bị cho học sinh một số hiểu biết sơ giản về Từ và Câu. Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -4- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Cấu tạo tiếng: Ngoài những vốn từ mà các em đã tích lũy được từ lớp 1,2,3 thì giáo viên cần phải giúp học sinh thêm khoảng trên bảy trăm từ mới. Nắm được nghĩa của một số yếu tố Hán Việt, một số thành ngữ, tục ngữ thông dụng. Nắm được nghĩa bóng của một số từ trong tác phẩm văn học, nắm được cấu tạo tếng (âm đầu, vần, thanh). Ví dụ: Như tiếng Nhiễu âm đầu là: Nh; Vần: iêu; thanh: ngã. Cấu tạo từ đơn và từ phức; Từ ghép và từ láy. Từ loại dạy học về danh từ, động từ, tính từ Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. Các kiểu câu được giảng dạy ở lớp 4: Câu hỏi, câu kể, câu khiến, câu cảm. Các dấu câu: dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu ngoặc kép, dấu ngoặc đơn. Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và thói quen sử dụng tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp. Thông qua nội dung dạy học và cách tổ chức hoạt động trên lớp, phân môn Luyện từ và câu góp phần bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng trong nói, viết thành câu và ý thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp phù hợp với các chuẩn mực văn hóa. Kỹ năng tích cực hóa vốn từ có nghĩa là chuyển vốn từ tiêu cực của học sinh thành vốn từ tích cực( vốn từ tiêu cực của một cá nhân có thể hiểu gồm những từ người đó hiểu nhưng không hoặc ít sử dụng trong thực tiễn nói năng. Còn vốn từ tích cực gồm những từ thường xuyên được dùng trong nói năng, trong quá trình giao tiếp ngôn từ). Thực tế cho thấy những từ học sinh hiểu được nhưng chúng không đi vào vốn từ tích cực, không đi vào hoạt động giao tiếp của học sinh. Vì vậy, việc rèn kỹ năng mở rộng vốn từ trong nhà trường có nhiệm vụ quan trọng, là giúp học sinh chuyển hóa vốn từ tiêu cực thành vốn từ tích cực. Nói cách khác, hướng dẫn học sinh tập tích cực hóa vốn từ chính là hướng dẫn học sinh luyện tập sử dụng từ, hình thành và phát triển kỹ năng mở rộng vốn từ cho học sinh. Sử dụng từ chính là lựa chọn từ ngữ trong vốn từ của mình rồi kết hợp các từ ngữ với nhau để tạo thành câu, thành lời theo những nguyên tắc nhất định. Như vậy ở đây chủ thể nói năng tiến hành hai thao tác hết sức cơ bản là: Thao tác lựa chọn, thay thế và thao tác kết hợp, ghép nối. Cụ thể để dùng từ đúng và đạt hiệu quả giao tiếp cao chủ thể nói năng cần tiến hành cho lựa từ và thay thế từ khi chưa phù hợp, thích hợp. Việc lựa chọn, thay thế ở đay không phải là việc làm tùy tiện, dễ dãi mà phải dựa trên những nguyên tắc nhất định. Ví dụ: Từ dùng phải đúng về âm thanh, về nghĩa, đúng với các từ khác trong câu, phù hợp với phong cách ngôn ngữ của văn bản có giá trị biểu hiện, biểu cảm cao phù hợp với các nhân tố của hoạt động giao tiếp. Hoạt động mở rộng vốn từ được thực hiện một cách thường xuyên trong Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -5- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 phân môn Luyện từ và câu. Nó mang tính cơ sở, tạo tiền đề cho quá trình vận hành ngôn ngữ của học sinh. Qua mở rộng vốn từ, học sinh sẽ làm giàu kho từ vựng của bản thân, đồng thời biết sử dụng từ phù hợp ngữ cảnh để đạt hiệu quả trong giao tiếp. Để rèn luyện cho học sinh các kỹ năng mở rộng vố từ, chương trình Luyện từ và câu đã xây dựng các hệ thống bài tập để học sinh luyện tập. Vì vậy tổ chức thực hành cũng chính là tổ chức cho học sinh thực hiện các bài tập về từ và câu. Do chương trình Tiếng Việt ở tiểu học nói chung và phân môn Luyện từ và câu lớp 4 nói riêng được xây dựng trên định hướng giao tiếp và tích hợp nên việcchia theo các nội dung kỹ năng để thực hành luyện tập chỉ có tính chất tương đối. Trong thực tế ít có những bài tập thuần túy về từ hay câu. Có những bài tập vừa nhằm mục đích luyện từ vừa tạo câu, bài tập vừa mở rộng vốn từ, giải nghĩa từ vừa hệ thống hóa vốn từ. 3. Thực trạng 3.1 Thuận lợi Số tiết Luyện từ và câu của chính sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Phân môn “Luyện từ và câu” tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo viên là một trong 3 nhân tố cần được xem xét của quá trình dạy học “Luyện từ và câu”, là nhân tố quyết định sự thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4A, tôi thấy thực trạng của giáo viên như sau: - Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn. - Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này. - Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh. - Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt. - Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế. Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -6- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 3.2 Khó khăn Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này. Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa “khô” vừa “khó”. Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều. Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài. Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn. 4. Các biện pháp thực hiện Với đặc trưng của môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua các bài học trên lớp, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau. 1. Đọc thật kỹ đề bài. 2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm. 3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài. 4. Kiểm tra đánh giá. Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn luyện kỹ năng làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Muốn học sinh làm bài một cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh. Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng. Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh. Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung các chủ điểm mà phân môn “ Luyện từ và câu” cần cung cấp. Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được: Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố hán việt; rèn luyện khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành ngữ tục ngữ. Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -7- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từng học sinh được: Tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong thơ, tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm hiểu được: Có 2 cách để tạo từ phức: 1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau là từ ghép. 2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau đó là từ láy. Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về danh từ, động từ, tính từ gắn bó với các tình huống sử dụng. Cần lưu ý: Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho. Thêm vào các từ rất, quá, lắm...vào trước hoặc sau tính từ. Tạo ra phép so sánh. Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng các kiểu câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp. Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện: 1. Thái độ khen, chê. 2. Sự khẳng định, phủ định 3. Yêu cầu, mong muốn... - Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong giao tiếp. Cụ thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự. Câu hỏi: 1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được hỏi. 2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. Câu khiến: 1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự 2. Muốn cho lời yêu cầu, được đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù hợp và thêm vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp... 3. Có thể dùng câu hỏi, kiểu câu nếu yêu cầu đề nghị. a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ. Ví dụ: Tìm các từ ngữ: Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại. Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương. Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại. Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -8- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ. Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho học sinh làm việc ở lớp. Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ... Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại ý kiến đúng. Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập. b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ – dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy. Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây. - Ngay - Thẳng - Thật Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ, từ quá trình học sinh, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật). Từ Từ láy Từ ghép Ngay Ngay ngáy Ngay thẳng, ngay ngắn... Thẳng Thẳng thắn Ngay thẳng, thẳng tắp... Thật Thật thà Sự thật, thẳng thật... Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân. * Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép: Giáo viên chốt lại : Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu. Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy. Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ: Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa... Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ... c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ. Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh. Ví dụ1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao? Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -9- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng. Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung. Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép “suy” để học sinh áp dụng vào bài của mình. Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau: Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt Nhà vua: Để làm gì ? Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước. Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước lớp. Lưu ý có 2 từ “dùi” từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác. Người ta lấy cái đục là cái lỗ để nước đục chảy ra. Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch chân trong đoạn văn sau: Hoa cà phê thơm đậm và ngọt lên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa. Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn của cà phê đã phải thốt lên. Hoa cà phê thơm lắm em ơi Hoa cùng một điệu với hoa nhài Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng. Như miệng em cười đâu đây thôi... Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học sinh; các em đã hiểu.Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của cá từ gạng chân cụ thể: Hoà cà phê thơm như thế nào? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp động não): Thơm – lắm Trong – ngà Trắng – ngọc Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này. c. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu. Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -10- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu. 1. Câu kể. Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để: a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về. b) Tả chiếc bút em đang dùng. c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn. d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt. Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm... Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học sinh trong lớp nhận xét bổ sung. Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui... Giáo viên hướng dẫn mẫu: Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào? Nói lên niềm vui – vui sướng như thế nào khi được điểm tốt. Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào? a) Cho mượn cái bút! b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút! c) Lan ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được không? Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự lịch sự trong giao tiếp. Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành lời yêu cầu lịch sự. 2. Câu hỏi: Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể: Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi cụ già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao? Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu. - Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp lời bàn tán sôi nổi: Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -11- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 - Chắc là cụ bị ốm? - Hay là cụ đánh mất cái gì? - Chúng mình thử hỏi xem đi? Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi: - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không? Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải xác định câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học sinh so sánh. Các câu các em hỏi nhau: - Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ? - Chắc là cụ bị ốm - Hay cụ đánh mất cái gì? Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già: - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không? Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất phù hợp trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì... sẽ làm tổn thương đến ông cụ (chẳng may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc sâu cho học sinh về cần đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã dướng dẫn các em phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể. Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống như trong bài tập trên ở ngoài thực tế. 1. Câu khiến Dạng bài tập cho mảng kiến thức này gồm: Chuyển các câu kể thành câu khiến. Đặt câu khiến phù hợp với các tình huống. Đặt câu khiến theo yêu cầu có “hãy” trước động từ “đi” hoặc “nào” sau động từ “xin” hoặc “mong” trước chủ ngữ Nêu tình huống có thể dùng câu khiến nói trên. Ví dụ 1: Chuyển các câu kể thành câu khiến Nam đi học Thanh đi lao động Ngân chăm chỉ Giang phấn đấu học giỏi. Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -12- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Với bài tập này trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu: - Nam đi học! Nam phải đi học! - Nam hãy đi học! Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: Thêm cac từ “đi”,“phải”, “hãy” ứng với lời yêu cầu ở mức nặng –nhẹ tuỳ thuộc vào mỗi lời yêu cầu. Nam đi học đi! (yêu cầu nhẹ nhàng) Nam phải đi học! (yêu cầu bắt buộc) Nam hãy đi học đi! (yêu cầu mang tính ra lệnh) Sau đó tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét. Tôi chốt lại học sinh: Muốn đặt câu khiến có thể dùng một trong các cách sau: Thêm các từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước động từ... và cuối câu dùng dấu chấm than (!). Cùng phương pháp tổ chức này tôi cho học sinh làm ví dụ 2. Ví dụ 2: Đặt câu khiến cho những yêu cầu dưới đây: a. Câu khiến có hãy ở trước động từ. b. Câu khiến có đi hoặc nào ở trước động từ. c. Câu khiến có xin hoặc mong ở trước chủ ngữ. Phần này học sinh không còn bỡ ngỡ về cách đặt câu khiến. a. Bạn hãy làm bài tập đi! b. Mong các em làm bài tập thật tốt! 4. Câu cảm: (câu cảm thán) Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng, thán phục, đau xót, ngạc nhiên...) của người nói. Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm, thật...Khi viết câu cảm cuối câu thường có dấu chấm than (!). Ví dụ 1: Đặt câu cảm cho các tình huống sau: a. Cô giáo ra một bài toán khó, cả lớp chỉ một bạn làm được. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự thán phục. b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu bỗng nhiên tới chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng. Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò trong tình huống, một bạn nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung. a. Ôi, bạn giỏi quá! b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn! Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cá nhận để các bạn nhận xét. Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -13- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộ lộ cảm xúc gì? a. Ôi, bạn Nam đến kìa! b. Ồ, bạn Nam thông minh quá! c. Trời, thật là kinh khủng! Theo tôi phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân: B1: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm. B2: Tìm cảm xúc của mỗi câu. B3: Rút ra kết luận chung về câu cảm. d. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu. Dạng bài tập: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu. Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu. Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu. Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu. Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu. Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu: a................, em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình b................, em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu. c................., hoa đã nở. Theo tôi, vì phần này tôi chưa trực tiếp giảng dạy nhưng ở chương trình lớp 4 cũ nó không có những chi tiết cụ thể rõ ràng như vậy nên việc hình thành kiến thức khó khăn hơn. Còn đối với dạng bài tập này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh yếu): Em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình tại đâu? Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể. Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản. Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc. Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống: a).............., xã em vừa đào một con mương. b).............., chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện thật tốt. c)..............., em phải năng tập thể dục. Giáo viên cần hướng dẫn h/s đến việc hiểu: Mục đích của đào mương để làm gì? Quyết tâm..........tốt để dành được gì? Tập thể dục có lợi gì? Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -14- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập: Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài đầy đủ. Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã sáng tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng. Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ “bằng, với” và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì? Nên bài này tôi chi cho học sinh dùng bút chì gạch chân trạng ngữ cá nhân và nêu miệng trước lớp, theo tôi học sinh sẽ không khó khăn gì?. Như vậy mức độ khó của bài tập khong phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu của học sinh lớp 4A1. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường gài thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận. Ví dụ: Với dạng bài mở rộng vốn từ ý chí – nghị lực. Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí, nghị lực nên đax vượt qua nhiều thử thách, đạt được thành công. Với học sinh khá, giỏi tôi cho học sinh phân tích yêu cầu đề bài sau đó viết ngay vào nháp. Với học sinh trung bình và yếu tôi hướng dẫn học sinh sử dụng các từ ngữ thuộc chủ đề ý chí – nghị lực đã học để viết. Hỏi học sinh về người em định viết (học sinh yếu tôi còn hỏi về người em định viết có những phẩm chất gì). 5. Kết quả đạt được Thực hiện đề tài này, khi học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và rèn kĩ năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4A tôi thấy kết quả của việc làm đó như sau: Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả. Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên. Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài. Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài. Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình. Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -15- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 “Luyện từ và câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình. - Tuy kết quả tôi nêu trên hết sức sơ lược và ở phạm vi nhỏ, song nó cũng góp phần động viên tôi trong công tác giảng dạy học sinh nói chung, phát hiện bồi dưỡng những học sinh khá, giỏi, phụ đạo học sinh yếu nói riêng. Bé nhỏ như vậy nhưng vô cùng quan trọng đối với một giáo viên còn non nớt kinh nghiệm như tôi trong việc tháo gỡ khó khăn, trong việc tìm ra phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập “Luện từ và câu” cho học sinh của mình. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Dạy học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh giúp học sinh nắm được kiến thức trong phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh hiểu được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết nhận diện xác định các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt động học tập của mình. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần chú ý: Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh trong thời gian không phải ngày 1 ngày 2. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng dạy của mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh, gây được hứng thú học tập cho các em. Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa dạy. Lưu ý quá trình giảm tải đề điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh lớp mình, đề ra hướng giải quyết cho việc cân chỉnh thống nhất giảm tải. Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được áp đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh nắm chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc lập, nâng cao kết quả tự học của mình: Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có hứng thú đặc biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc cho học sinh. Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo nguyên tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu...Để học sinh nắm vững việc giải quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý điểm sau: Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập. Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Học sinh cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh theo các hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt hiệu quả giờ dạy. Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -16- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Lưu ý cho học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn chữ viết đẹp đúng chính tả cho học sinh. Việc dạy các bài tập “Luyện từ và câu”cho học sinh là vấn đề hết sức nan giải vì thời gian có hạn và năng lực trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên tôi mới chỉ nghiên cứu được tìm ra phương pháp tổ chức một giờ dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Phần nghiên cứu có thể chưa sâu, chưa sát, tôi thiết nghĩ nếu chỉ nghiên cứu trong phạm vi của đề tài này thì chưa đủ vì thế trong tương lai nếu có điều kiện tiếp tục nghiên cứu, tôi hứa sẽ nghiên cứu hoàn thiện hơn. Đề tài này chỉ có thể áp dụng, vận dụng trong phạm vi ở tiết “Luyện từ và câu” của học sinh lớp 4. Nếu không được giáo viên gợi mở, đề ra phương pháp tổ chức cụ thể cho từng dạng bài thì học sinh sẽ rất ngại học môn này và không hiểu bản chất của các bài tập cần khai thác cái gì?. Các học sinh tầm nhận thức còn hạn chế, thời gian dành cho tiết bài tập còn ít nên việc rèn cho học sinh có kĩ năng kĩ xảo còn chưa đầy đủ và hệ thống. 2. Đề xuất Dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu” là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn đạt bồi dưỡng tư duy văn học cho học sinh. Muốn vậy: * Đối với học sinh: Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của môn này. Các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của mọi người để kích thích các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập, đó chính là gia đình – nhà trường xã hội. * Đối với giáo viên: Không ngừng học hỏi tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ thông tin, sách vở và từ chính học sinh. Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài. Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới giỏi. Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có trách nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi giúp đỡ học sinh. * Đối với nhà trường và các cấp quản lý: Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức. Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn. Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành tích cao trong giảng dạy và học tập. Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -17- Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh củng cố ngữ pháp môn Luyện từ và câu lớp 4 Rất mong sự góp ý của các đồng nghiệp để chúng ta có hương giải quyết tiếp theo cho việc nâng cao chất lượng dạy và học phân môn “Luyện từ và câu” nói riêng và phân môn Tiếng Việt nói chung, góp phần giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện. Xin chân thành cảm ơn ! Quảng Trị , ngày 29 tháng 3 năm 2017 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN (hoặc đề tài NCKH) của mình viết, không sao chép ĐƠN VỊ nội dung của người khác. Người viết Nguyễn Mai Trọng Nguyễn Thị Hóa – Giáo viên Nguyễn Thị Hóa Trường tiểu học Hướng Phùng - Trang: -18-
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan