Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 5 vùng dân tộ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 5 vùng dân tộc thiểu số

.DOC
18
140
62

Mô tả:

A.ĐẶT VẤN ĐỀ. I.Lời mở đầu: Tiểu học là bậc học quan trọng trong hệ thống Giáo dục quốc dân. Điều 2 Luật phổ cập giáo dục đã khẳng định: “Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ Thanh Hoá lần thứ XV cũng nêu rõ: “Phát triển qui mô đi đôi với chú trọng nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, phục vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh”. Nhiều năm qua, để thực hiện được mục tiêu đó, Phòng Giáo & Đào tạo Quan Hoá có nhiều công văn hướng dẫn chỉ đạo các nhà trường thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị định, Nghị quyết các cấp về việc “Nâng cao chất lượng giáo dục” trong giai đoạn hiện nay. Đã mở nhiều lớp tập huấn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học, chú trọng quan tâm đến chất lượng mũi nhọn, chất lượng đại trà của học sinh trên toàn huyện. Mở lớp tập huấn cho giáo viên cốt cán về cách bồi dưỡng học sinh giỏi. Tập huấn đại trà cho giáo viên Tiểu học về: Đổi mới phương pháp dạy học tích cực ở Tiểu học; tập huấn luyện viết chữ đẹp.v.v. Tổ chức các Hội thảo Giáo dục Tiểu học như Hội thảo: “Khắc phục tình trạng học sinh yếu kém ở vùng 135”, gần đây có Hội thảo: “Nâng cao chất lượng đọc, viết, tính toán ở lớp 1 vùng dân tộc thiểu số”. Và tổ chức giao lưu Tiếng Việt từ lớp 1 đến lớp 5. Đặc biệt là Ban Thường vụ huyện uỷ Quan Hoá đã ra Nghị quyết số 01 về việc “Nâng cao chất lượng Giáo dục – Đào tạo trong giai đoạn hiện nay”. Như vậy việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh Tiểu học nói chung học sinh lớp 5 vùng dân tộc thiểu số, vùng giáo dục gặp khó khăn nói riêng là nhiệm vụ vô cùng cần thiết và cấp bách. Vì có nâng cao được chất lượng đại trà cho học sinh tiểu học, thì mới tạo được bước chuyển biến cơ bản để nâng cao chất lượng giáo dục ở những bậc học tiếp theo và mới thúc đẩy được sự nghiệp Giáo dục phát triển 1 toàn diện đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - Xã hội của đất nước nói chung, trên địa bàn miền núi nói riêng. Xuất phát từ mục đích ý nghĩa đó, với những nhu cầu cấp thiết của đơn vị, với sự trăn trở, day dứt và tâm huyết của một giáo viên đứng lớp, nên tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu, rút kinh nghiệm trong giảng dạy về việc: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 5 vùng dân tộc thiểu số”. II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. 2. 1. Thực trạng. - Nhiều năm nay tôi được Ban giám hiệu phân công giảng dạy lớp 5, nhìn chung chất lượng học tập của khối 5 rất thấp. Tỉ lệ học sinh khá giỏi chỉ đạt trên 15%, còn lại là số học sinh trung bình và yếu kém. Chất lượng mũi nhọn chưa được thực sự quan tâm chú trọng. Số lượng học sinh tham gia thi học sinh giỏi cấp huyện ít, kết quả về chất lượng chưa cao thậm chí có những năm không có giải. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng trên đó là: - Về phía học sinh: Bản thân các em không có ý thức tự học, tự rèn luyện ngại khó, ngại khổ. Học sinh không có khái niệm học bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Khi đến trường chỉ tiếp thu được một ít kiến thức từ thầy cô, về nhà xếp cặp vào xó để đi chơi hoặc đi làm kiếm sống. - Về phía phụ huynh học sinh: Trình độ dân trí không đồng đều, kinh tế khó khăn, đa số phụ huynh chỉ mải lo kiếm sống, ít quan tâm đến việc học của con cái. Tất cả đều phó mặc cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp. - Về phía nhà trường: Cơ sở vật chất, chưa đảm bảo theo yêu cầu: thiếu phòng học, thiếu trang thiết bị dạy học, phòng chức năng, phòng thư viện, các tài liệu để cho giáo viên, học sinh tham khảo hầu như không có. Sách giáo khoa cho học sinh mượn thiếu về số lượng kém về chất lượng. 2. 2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên: 2 Từ những thực trạng, nguyên nhân trên dẫn đến chất lượng đại trà của học sinh khối 5 vào đầu năm học rất thấp. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm qua ba năm học của lớp tôi phụ trách cụ thể như sau: Năm Tổng học 08-09 09-10 10-11 số HS 24 20 20 Tiếng Việt Ghi Giỏi Khá TB Yếu 02 04 15 03 01 02 15 02 01 03 10 06 chú Toán Giỏi 01 01 01 Khá 04 02 03 TB 13 12 11 Yếu 06 05 05 Để nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 5 vùng dân tộc thiểu số đạt hiệu quả. Trong nhiều năm qua bằng những kinh nghiệm của bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn nội dung, phương pháp, những biện pháp thực hiện sau: B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 3 I. Các giải pháp thực hiện. 1. Xây dựng động cơ học tập cho học sinh. 2. Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp. 3. Lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp. II. Các biện pháp để tổ chức thực hiện 2.1. Biện pháp 1: Xây dựng động cơ học tập cho học sinh. Mục đích của biện pháp: Giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học tập – Đồng thời giáo dục các em lòng say mê ham học, tìm tòi kiến thức, để từng bước nâng cao chất lượng học tập. Học sinh Tiểu học nói chung học sinh các vùng dân tộc thiểu số nói riêng, tinh thần, thái độ học tập chưa cao. Các em chưa có ý thức học tập, lại rất ham chơi, ít được sự quan tâm chăm sóc, chỉ bảo của gia đình. Bởi vậy giáo viên phải xây dựng cho học sinh thái độ, tinh thần, động cơ học tập đúng đắn, nâng cao nhận thức cho học sinh về tầm quan trọng của chuyện học, qua đó giáo dục cho các em lòng say mê học tập, tự bản thân mình muốn khám phá, tìm tòi kiến thức. Cách thực hiện: Qua các giờ lên lớp tôi thường lồng ghép phân tích cho học sinh hiểu về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học. Giảng giải cho học sinh biết: hiện nay loài người đã bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của khoa học công nghệ thông tin, nếu không học thì sẽ bị tụt hậu không thể theo kịp với thời đại. Phân tích cho học sinh hiểu từ những điều rất đơn giản như: sau này khi đã trưởng thành mà không biết đọc, không biết viết hay không biết làm tính thì khó kiếm được việc làm; không đọc được biển chỉ đường; không thể đọc sách, báo để biết thông tin; không thể nuôi con khoẻ mạnh, dạy cho con cái mình học được; không thể sử dụng được internet hoặc không thể gửi tin nhắn, không thể mua hoặc bán hàng vì không biết tính.v.v. Sống trong thời đại công nghiệp hoá – hiện đại hoá, công nghệ thông tin bùng nổ mà mù chữ thì con người ấy sẽ chìm trong bóng tối suốt đời. Vì xã hội ngày một tiến, nông thôn cũng dần phát triển, cuộc sống sẽ hiện đại hơn, đòi hỏi phải có 4 trình độ văn hoá. Bây giờ và tương lai sẽ không còn cảnh “Con trâu đi trước cái cày theo sau” nữa mà thay vào đó là chiếc máy cày, máy bừa. Người nông dân sẽ cày ruộng, bừa ruộng bằng máy. Hay đơn giản như vót đũa dùng để ăn hàng ngày, người ta không còn dùng tay vót đũa như trước nữa, mà dùng bằng máy. Liên hệ cho học sinh thấy các xưởng đũa mọc lên nhan nhản trên khắp bản làng, khắp xã. Vậy nếu không học thì làm sao biết lái máy cày, máy bừa hoặc làm sao biết đứng máy để sản xuất ra đũa bán, tăng thu nhập cho gia đình. Không có trình độ văn hoá thì sẽ khó phát triển được kinh tế làm giàu cho chính mình và cho xã hội. Tôi thường diễn giải cho học sinh rằng: chăn nuôi trồng trọt cũng cần đòi hỏi phải có trình độ văn hoá mới áp dụng được khoa học kĩ thuật vào sản xuất, để tăng năng xuất cây trồng v.v.. Chứng minh cho HS thấy được sự thiệt thòi khi không được đến trường đi học. Không được học hành thì sau này cuộc sống sẽ vô cùng vất vả vì không biết làm gì. Bởi vậy rất cần phải học, “Học - học nữa và học mãi” Học sinh cần phải xác định được: Học để làm gì? Và làm sao phải học. Được học sẽ mở mang được nhiều kiến thức: Biết giữ gìn, bảo vệ sức khoẻ bản thân. Tôi giải thích, tâm sự những điều này trước giờ vào lớp, trong các giờ ra chơi hoặc lồng ghép qua các tiết học. Hàng ngày tôi thường đến lớp sớm trước khi vào lớp khoảng 10-15 phút. Trong quãng thời gian này, tôi thường hay ngồi chơi đùa, tâm sự cùng các em tạo ra sự gần gũi, thân thiết giữa cô trò. Vì vậy các em rất quí mến tôi, nói chyện cùng tôi rất cởi mở, tôi dần dần khai thác được những tình cảm, những suy nghĩ, những băn khoăn thắc mắc trong quá trình học tập cũng như trong cuộc sống đời thường của các em. Nhiều học sinh đã chủ động hỏi bài , hỏi về cách giải toán, hỏi cách làm một bài văn. Học sinh hồ hởi, phấn khởi học tập, chỉ một thời gian ngắn gần hết tháng 9. Chất lượng học tập của lớp tôi được nâng lên rõ rệt.Số học sinh bỏ học vô lí do không còn, tỉ lệ đi học chuyên cần đạt 100%. Như vậy việc học sinh chưa có ý thức học tập tốt, học yếu có một phần không nhỏ là do các em chưa có động cơ học tập đúng. Chưa hiểu hết ý nghĩa và tầm quan 5 trọng của việc học tập. Chính vì vậy giáo viên phải là người dẫn dắt giúp các em hiểu, xây dựng cho các em động cơ học tập tốt.Tuy nhiên giáo viên không nên gây áp lực mà phải khéo léo gợi mở để học sinh tự giác học tập. Với sự ân cần chỉ bảo tận tình cho các em những điều các em chưa biết, không những giáo viên xây dựng được cho các em có ý thức học tập tốt mà còn gây được trí tò mò tạo niềm hứng thú trong học tập cho học sinh.Chính vì vậy, biện pháp: Xây dựng động cơ học tập cho học sinh là biện pháp khá quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh vùng dân tộc thiểu số. Biện pháp 2: Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp. Mục đích của biện pháp: Giáo dục học sinh có tinh thần học tập tốt, yêu trường, yêu lớp. Tăng cường mối liên hệ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình để duy trì sĩ số học sinh, tạo điều kiện cho học sinh có đủ đồ dùng học tập nâng cao chất lượng học tập. Học sinh vùng dân tộc thiểu số nói chung , học sinh trường Tiểu học Hiền Chung nói riêng ít có trường hợp học bài cũ ở nhà hoặc chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Học sinh đến lớp chỉ có một quyển vở, hoặc có những học sinh đến lớp tay không, Hỏi vì sao đi học mà không mang sách, vở, bút viết, các em trả lời là: bỏ quên ở nhà hoặc không có. Các em thích học thì đến trường , không thích học ở nhà đi chơi. Nếu giáo viên có nhắc nhở chạm vào lòng tự ái là sẵn sàng bỏ học ngay. Cha mẹ các em do trình độ dân trí thấp, kinh tế khó khăn , đa số phụ huynh chỉ lo mải kiếm sống, ít quan tâm đến việc học của con cái. Tất cả đều phó mặc cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp. Bởi vậy để nâng cao được chất lượng học tập, cần phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Cách thực hiện: Tôi tìm hiểu về đặc điểm tâm lí, hoàn cảnh gia đình, tính tình, sở thích từng học sinh, nắm được quá trình tiếp thu bài của từng em. Nắm rõ trong lớp có bao nhiêu học sinh chưa đọc thông, viết chưa thạo, hoặc đọc yếu; có bao nhiêu học sinh chưa biết đặt tính: cộng, trừ, nhân, chia; học yếu các môn học khác. Đồng thời phát hiện những em có năng khiếu để 6 phân loại đối tượng học sinh, lập kế hoạch bồi dưỡng ngay từ đầu năm học, đề ra mục tiêu cần đạt từng tháng, từng kì. Ví dụ: tháng 9;10 mục tiêu đề ra cần phụ đạo bao nhiêu học sinh học lực yếu lên trung bình, từ trung bình lên khá và bồi dưỡng bao nhiêu học sinh có học lực khá lên giỏi. Với những học sinh học lực yếu; chưa có ý thức học tập; gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Đối với những đối tượng này, giáo viên cần phải hiểu được đặc điểm của đối tượng này là: có tính rụt rè xa lánh bạn bè, thầy cô, thích quậy phá hoặc ủ rũ lủi thủi chơi một mình, thường hay nghỉ học, không có đủ đồ dùng học tập. Với những học sinh này phải dùng tình cảm để cảm hoá, chẳng hạn: rủ các em đến nhà chơi,cho em quyển vở hoặc cái bút, uốn nắn khuyên bảo em nhẹ nhàng. Quan tâm chú ý tới cách ăn mặc của các em, chẳng hạn cái áo của em bị rách đường chỉ hoặc bị mất khuy, tôi tìm cách khâu lại, đính cúc áo cho em, chải lại tóc… Ngoài ra phải tìm ra được nguyên nhân em học yếu để có cách bồi dưỡng. Ví dụ: em A học yếu môn Tiếng Việt. Trong phân môn Tiếng Việt có: Tập đọc, Chính tả, Luyện từ&câu, Tập làm văn, Kể chuyện. Học yếu môn Tiếng Việt có rất nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do không biết đọc.Vì nếu đọc chưa thông ắt sẽ không viết được và đồng thời cũng không hiểu được nội dung bài.Chính vì vậy để giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt, trước hết phải dạy cho các em đọc thông viết thạo.Trong giờ tập đọc, giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ tôi dành nhiều thời gian cho những học sinh này được đọc nhiều hơn. Tôi kiểm tra đọc bằng nhiều cách : đọc lại bài Tập đọc đã học, đọc báo Nhi đồng.Cho HS mượn tuyện tranh, truyện Thiếu nhi có nội dung hay, hấp dẫn cho về nhà để đọc. Sau đó kiểm tra xem em có biết nội dung câu chuyện ấy là gì? Nội dung bài báo ra sao? Cứ như vậy nhiều lần, tôi đã rèn được cho HS cách luyện đọc rất hiệu quả. Hết tháng 10 là số HS đọc yếu đã đọc được lưu loát. Đối với những em học yếu môn Toán thì phải tìm hiểu kĩ HS ấy hỏng kiến thức ở phần nào? Để có cách phụ đạo và ra bài tập phù hợp. Để nâng cao chất lượng môn Toán 7 trước hết phải yêu cầu học sinh học thuộc bảng cửu chương nhân, chia , sau đó hướng dẫn thực hiện thành thạo 4 phép tính, nâng dần từ dễ đến khó. Phối hợp chặt chẽ với gia đình, để theo dõi việc HS học bài cũ, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Hàng kì, tôi xin ý kiến với BGH triệu tập họp phụ huynh một lần, trong mỗi cuộc họp tôi nhẹ nhàng nhắc nhở những trường hợp học sinh học yếu, không tuyên bố trước cuộc họp mà gặp riêng phụ huynh để trao đổi. Cuộc họp phụ huynh là những buổi nói chuyện tâm tình trao đổi tình hình học tập, rèn luyện của các em ở trường đồng thời tôi khéo léo tìm hiểu thêm về việc học của học sinh ở nhà. Vì do đại bộ phận phụ huynh học sinh không biết đọc, không biết viết, nên không thể sử dụng được sổ liên lạc gia đình. Việc tổ chức họp phụ huynh hàng kì, là rất cần thiết vì không những thông báo kết quả học tập, rèn luyện của học sinh ở trường mà còn làm công tác tuyên truyền nhắc nhở phụ huynh quan tâm mua sắm đồ dùng học tập. Việc thiết lập được mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình xoá bỏ được tình trạng HS đi học quên sách vở, quên bút. Học sinh đi học đầy đủ, lại có đủ đồ dùng học tập. Đây là yếu tố quan trọng giúp giáo viên nâng cao được chất lượng học tập của học sinh. Tóm lại: Công tác chủ nhiệm lớp giữ vị trí vai trò đặc biệt quan trọng vì giáo viên không những tiến hành giảng dạy kiến thức mà còn làm nhiệm vụ giáo dục học sinh thông qua giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, là người dạy chủ yếu của lớp đồng thời tổ chức lãnh đạo, điều hành, kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử trong phạm vi lớp mình phụ trách, cũng là người thay mặt Hội đồng nhà trường, cha mẹ quản lí tập thể học sinh và là cầu nối giữa nhà trường với gia đình để nâng cao chất lượng toàn diện để làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Tình thương và sự ân cần của giáo viên chủ nhiệm là liều thuốc đặc trị giúp cho học sinh có niềm tin, có lòng say mê học tập. Khi học sinh đã có niềm tin với thầy cô, có lòng say mê học tập thì các em sẽ có tinh thần tự giác trong học tập và đạt được kết quả cao. 8 Biện pháp 3: Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Mục đích của biện pháp: Giúp cho học sinh nhanh hiểu , tiếp thu bài tốt, hứng thú học tập. Đặc trưng của học sinh miền núi là: rụt rè, e thẹn, không mạnh dạn trước đám đông, đặc biệt là tiếp thu bài chậm vì vốn ngôn ngữ tiếng Việt của các em hạn chế.Vì vậy Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học đa dạng, phong phú là biện pháp không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 5 vùng dân tộc thiểu số. Giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn phải truyền tải đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của chính mình. Cách thực hiện: Chuẩn bị bài chu đáo trước khi lên lớp. Tìm phương pháp dạy từng môn, từng bài học phù hợp với đối tượng học sinh. Hình thức tổ chức dạy học đa dạng phong phú nhằm thu hút được tất cả đối tượng học sinh tham gia học tập. Giáo viên phải nắm chắc cách dạy từng loại bài của từng phân môn, chẳng hạn dạy Môn Toán: *)Đối với bài lí thuyết: - Phần lí thuyết: tôi thường dành thời gian tối đa khoảng 20 phút ( Có thể nhiều thời gian hơn tuỳ từng bài học): mỗi đơn vị kiến thức cơ bản, tôi tổ chức thành một hoạt động (kể cả hoạt động củng cố kiến thức, kĩ năng chuẩn bị cho học nội dung mới), tạo điều kiện cho học sinh chủ động tham gia các hoạt động( có sự hỗ trợ của đồ dùng học tập) giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Để học sinh dễ tiếp thu bài, khi ghi bảng chỉ cần trình bày bảng đơn giản cụ thể như: Ghi đầu bài dạy, tóm tắt đề, hình vẽ, công thức, bài giải các bài tập. - Phần luyện tập: Học sinh chủ yếu làm việc cá nhân, giáo viên quan sát tổng thể cả lớp, giúp đỡ những học sinh còn lúng túng, tránh giao việc bình quân, hướng dẫn chi tiết, tránh sử dụng học sinh khá giỏi làm việc thay cả lớp.Yêu cầu tất cả học sinh đều phải hoàn thành ít nhất hai bài tập. 9 *) Đối với bài luyện tập thực hành: Cách dạy như dạy phần luyện tập trong tiết lí thuyết. *) Đối với bài: Dạy đại lượng và đơn vị đo đại lượng. Hình thành biểu tượng cho học sinh bằng cách sử dụng đồ dùng trực quan và kinh nghiệm thực tiễn, sau đó mới dẫn dắt học sinh đọc , viết đơn vị đo, khắc sâu mối quan hệ giữa đơn vị đo mới với các đơn vị đo đã học trong cùng một đại lượng, dành thời gian cho học sinh thực hành đo và ước lượng. *) Đối với bài: Dạy các yếu tố hình học: - Hình thành biểu tượng hình học trên cơ sở quan sát thực tiễn và các hình học đã biết, yêu cầu học sinh ban đầu nắm được dạng tổng thể, sau nâng dần mức độ, đi sâu vào đặc điểm và các yếu tố của hình. Chú ý rèn kĩ năng vẽ hình cho học sinh. *) Đối với bài: Dạy giải toán có lời văn: tôi thường cho học sinh tự tìm và nêu được yêu cầu của đề bài, sau đó tự tóm tắt đề, tự trình bày bài giải, chỉ gợi ý, trợ giúp khi thực sự cần thiết. Chữa bài tỉ mỉ và chính xác. *) Dạy phân môn Lịch sử & Địa lí, bài “ Quyết trí ra đi tìm đường cứu nước”. Mục tiêu của bài học: Giúp HS biết :Ngày 5/6/1911 tại bến Nhà Rồng ( Thành phố Hồ Chí Minh), với lòng yêu nước thương dân sâu sắc, Nguyễn Tất Thành ( tên của Bác Hồ lúc đó) ra đi tìm đường cứu nước. Giáo viên nắm được mục tiêu bài học, thiết kế bài dạy, xây dựng hình thức tổ chức dạy học phù hợp với lớp học. Với bài này, tôi không tiến hành như trong sách giáo viên mà tôi tổ chức cho học sinh thảo luận sắm vai các nhân vật trong câu truyện, hướng cho học sinh các nhóm, nên nhường nhân vật chính cho các bạn học yếu, để các bạn được tham gia hoạt động và thấy rõ nỗi khó khăn của Nguyễn Tất Thành. Cách làm này giúp học sinh nắm được nội dung bài, lượng kiến thức mà các em nắm được sẽ khắc sâu mãi trong trí nhớ. Còn với bài: Châu Âu. Mục tiêu của bài: Giúp HS mô tả được vị trí địa lí, giới hạn của châu Âu, đọc tên một số dãy núi, đồng bằng, sông lớn; đặc điểm địa hình châu Âu10 Nắm được đặc điểm thiên nhiên – đặc điểm dân cư và hoạt động kinh tế của châu Âu. Phần hướng dẫn HS tìm hiểu đặc điểm tự nhiên của châu Âu, tương đối phức tạp đối với các em học sinh miền núi, vì vừa làm việc trên lược đồ vừa phải tìm hiểu một lượng kiến thức lớn và khó. Để giúp học sinh nắm được nội dung bài .Tôi phân nhỏ các yêu cầu cần tìm, ghi vào các thẻ từ: “ Đồng bằng” “Dãy núi” “sông lớn”. Tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm với trò chơi: “Du lịch trên bản đồ”. Học sinh thảo luận nhóm, mỗi nhóm nhận một lược đồ tự nhiên châu Âu và bộ thẻ từ. Nếu nhóm nào nhận được thẻ có ghi: “ Đồng bằng” thì nhóm đó phải chỉ ra và nêu tên các đồng bằng trên lược đồ châu Âu, cả lớp quan sát và nhận xét, các thẻ từ khác cũng tiến hành tương tự. Với cách làm như trên học sinh rất ham học, thu hút được tất cả các trình độ học tập trong lớp, học sinh học yếu cũng hồ hởi tham gia. Tôi thường tạo điều kiện cho những học sinh yếu trả lời những câu hỏi mà các em có thể trả lời được, ưu tiên cho đối tượng này nhũng câu hỏi dễ, bài tập phù hợp để dần dần đưa các em vào guồng máy hoạt động của cả lớp. Dùng cách “ mưa dầm thấm lâu” không nóng vội kết quả. Ngoài ra cần phải động viên khen ngợi, tuyên dương trước lớp về sự tiến bộ của các em. Qua mỗi bài học, mỗi phân môn cần có những hình thức tổ chức dạy học khác nhau, biết dẫn dắt học sinh đi từ cái hay này đến tri thức mới lạ khác, gây trí tò mò tạo niềm hứng thú học tập. Ngoài phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp, giáo viên phải hướng dẫn các em cách học trên lớp cũng như ở nhà sao cho đạt hiệu quả. Đối với việc học ở nhà: Tôi thường hướng dẫn học sinh lập thời gian biểu, ghi rõ từng công việc gắn liền với thời gian cụ thể. Học bài theo thời khoá biểu,ví dụ: Thứ hai có các tiết học: Đạo đức; Tập đọc; Toán; Chính tả. Tôi gợi ý cho học sinh: biết tự bố trí thời gian cho từng tiết học. Yêu cầu học sinh đọc và trả lời các yêu cầu trong sách giáo khoa. Thể hiện việc học bài trước ở nhà của mình trên vở nháp như sau: 11 Tiết 1: Đạo đức: bài : Em là học sinh lớp 5 Trả lời câu hỏi 1:( …………………………………………..) Trả lời câu hỏi 2 (…………………………………………..) Trả lời câu hỏi 3 . v.v Tiết 2.Tập đọc: Thư gửi các học sinh Trả lời câu hỏi 1(…………………………………………) Trả lời câu hỏi 2(………………………………………...) Trả lời câu hỏi 3.v.v. (……………………………………….) Tiết 3. Toán: Ôn tập khái niệm về phân số Thực hiện BT 1 : Thực hiện BT 2: Thực hiện BT 3 . v.v.. Tiết 4. Chính tả: Nghe viết : Việt Nam thân yêu Bài tập 2(…………………………………………) Bài tập 3(…………………………………………) Bài tập 4(………………………………………..) .v.v. *)Thứ ba: Toán – Lịch sử - Luyện từ & câu – Kĩ thuật. Học sinh phải chuẩn bị vào vở nháp được như sau: Tiết 1:Toán: Ôn tập tính chất cơ bản của phân số Thực hiện BT 1 (……………………………….) Thực hiện BT 2: (………………………………) Thực hiện BT 3 . (……………………………….) Tiết 2. “Bình Tây đại nguyên soái” Trương Định Trả lời câu hỏi 1(……………………………………) Trả lời câu hỏi 2(……………………………………) Trả lời câu hỏi 3 . v.v Tiết 3.Luyện từ & câu: Từ đồng nghĩa Phần nhận xét Phần bài tập: 12 Bài tập 1 Bài tập 2 Bài tập3 .v.v. Tiết 4. Kĩ thuật: Đính khuy hai lỗ Chuẩn bị: Một mảnh vải, 2 - 3 chiếc khuy 2 lỗ, chỉ, kim khâu, thước, kéo. Trả lời câu hỏi 1 Trả lời câu hỏi 2 *) Thứ tư, thứ năm, thứ sáu cũng tiến hành tương tự như vậy. Vào đầu giờ học tôi kiểm tra nhanh sự chuẩn bị này của học sinh, chỉ cần vài tuần đầu là xây dựng được thói quen này. Việc xây dựng cho học sinh thói quen chuẩn bị bài ở nhà,các em tự khám phá kiến thức mang lại hiệu quả học tập rất cao vì khi các em đã nghiên cứu kĩ bài trước ở nhà , đến lớp tiếp thu bài rất nhanh. Việc học trên lớp: - Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên, kiểm tra đồ dùng học tập với nhiều hình thức: giáo viên kiểm tra hoặc cán sự lớp, bạn cùng bàn kiểm tra lẫn nhau. - Xây dựng đôi bạn khá giỏi để giúp đỡ lẫn nhau, tổ chức thi đua từng cặp đôi bạn, cuối tháng cho học sinh bình chọn cặp đôi bạn tiến bộ nhất ghi vào sổ theo dõi. Cuối kì bình chọn đôi bạn nào học tiến bộ, và ghi được nhiều thành tích nhất trao giải thưởng, để động viên. Giải thưởng bằng hiện vật đơn giản như: quyển vở, quyển sách truyện hoặc chiếc bút. Tuy đơn giản nhưng có sức thuyết phục hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tích cực học tập, các cặp đôi bạn thi đua và giúp đỡ lẫn nhau học tập tốt. Theo dõi sự tiến bộ của học sinh qua từng tuần, từng tháng, từng kì. Bồi dưỡng học sinh khá, giỏi vào chiều thứ hai, ba. Phụ đạo học sinh yếu vào các buổi chiều thứ bảy, chủ nhật. Thay đổi phương pháp dạy theo hướng tích cực phù hợp từng môn, từng bài. Tuần cuối cùng của tháng, tôi thường phối hợp với tổ khối tổ chức cho học sinh trong khối giao lưu tìm hiểu về các kiến thức đã học như: thi giải toán nhanh, 13 thi kể chuyện, thi đọc thơ, thi tìm hiểu về kiến thức Khoa, Sử, Địa. Với cách làm này không những học sinh lớp tôi chủ nhiệm mà học sinh của cả khối đều phấn khởi hồ hởi học tập. Ngoài ra phải đặc biệt chú trọng dạy học sinh cách học, Ví dụ: Đối với môn Toán: Hướng dẫn cách chuẩn bị bài ở nhà, tôi thường yêu cầu học sinh: Nghiên cứu kĩ bài và làm làm bài tập trước trong sách giáo khoa. Còn khi học trên lớp: Dành nhiều thời gian cho học sinh được thực hành. Tổ chức thi giải toán nhanh, đố vui, thi điền nhanh điền đúng kết quả. Đảm bảo tất cả học sinh được tham gia, tạo không khí lớp học vui vẻ, thoải mái . Đối với môn Tiếng Việt: Hướng dẫn học sinh học bài mới ở nhà, tôi thường yêu cầu học sinh: +) Với phân môn Tập đọc: Tôi yêu cầu học sinh đọc bài trước vài lần, tìm hiểu kĩ cách đọc, tập đọc diễn cảm và tập trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa. +) Phân môn Chính tả : Yêu cầu học sinh đọc trước bài cần viết vài lần, tập chép bài đó vào vở nháp. +) Phân môn Tập làm văn: Đọc phần nhận xét và trả lời câu hỏi tự rút ra bài học , áp dụng bài học đó để làm bài tập trong sách giáo khoa. +) Phân môn Luyện từ & câu : Đọc phần nhận xét và trả lời câu hỏi tự rút ra bài học , áp dụng bài học đó để làm bài tập phần luyện tập trong sách giáo khoa hoặc trong vở bài tập . Đối với môn khoa học, Lịch sử & Địa lí. Khi hướng dẫn học sinh học bài mới ở nhà: Tôi thường yêu cầu học sinh quan sát tranh, đọc trước bài, trả lời hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa. Khi giảng bài mới: Sử dụng tích cực hoạt động nhóm, thảo luận nhóm, GV chỉ là người tổ chức , học sinh là người thực hiện. Mỗi môn học, mỗi bài học phải có những hình thức tổ chức học tập khác nhau thì mới thu hút được học sinh học tập tốt. Khi giao nhiệm vụ học 14 tập cho học sinh phải vừa sức, không rập khuôn trong sách giáo khoa. Vì những học sinh học yếu thưòng ngại suy nghĩ, ngại học. Đối với những HS khá giỏi ngoài bài tập trong sách giáo khoa cần phải giao thêm bài tập nâng cao. Tóm lại: Giáo viên cần phải biết lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với lớp, quan tâm chú trọng tới 4 đối tượng học sinh, tạo điều kiện để học sinh tích cực chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức.Với biện pháp này , tôi đã giúp được học sinh hứng thú học tập, biết cách học từng phân môn sao dễ nhớ, dẽ thuộc. Rèn được thói quen học bài cũ ở nhà và sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Xây dựng cho học sinh ý thức học tập tốt biết tự rèn luyện phấn đấu vươn lên, học tập đạt hiệu quả cao. 15 C. KẾT LUẬN: 1. Kết quả nghiên cứu: Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu về tình hình thực tế của lớp, của địa phuơng và điều kiện thực tế của nhà trường tôi đã suy nghĩ tìm tòi vận dụng phối hợp nhiều phương pháp dạy học. Tổ chức đa dạng các hoạt động dạy và học, đồng thời đúc rút kinh nghiệm từ bản thân, từ bạn bè đồng nghiêp, áp dụng triệt để những biện pháp tôi trình bày ở trên nên kết quả chất lượng lớp tôi phụ trách nhiều năm nay luôn là lớp dẫn đầu toàn trường về mọi mặt (học lực, hạnh kiểm). Kết quả học tập khả quan: Những học sinh học yếu có sự tiến bộ rõ rệt, nhiều học sinh học lực trung bình đã đạt được khá, giỏi và số lượng học sinh tham gia thi cấp huyện năm sau tăng hơn năm trước 20%. Các em tham gia thi đều có giải và đạt giải cao. Dưới đây là bảng số liệu chất lượng học tập giữa kì I- Học kì II và cả năm qua ba năm học gần đây của lớp tôi phụ trách: *) Năm học : 2008-2009 Kết quả khảo sát học kì IGiỏi Môn Khá SL TL SL TL Toán 05 21 % 07 29 % T. V 06 25 % 06 25 % Khoa 10 42 % 14 58 % LS&ĐL 9 37 % 15 63 % Kết quả khảo sát học kì II-cả năm Môn Toán T. V Khoa LS&ĐL Giỏi SL 07 07 14 12 Khá TL 29 % 29 % 58 % 50 % SL 09 07 10 12 TL 37 % 29 % 42 % 50 % Trung bình SL TL 10 42 % 10 42 % Trung bình SL TL 08 34 % 10 42 % Yếu SL 02 02 TL 8% 8% Yếu SL TL *) Năm học : 2009-2010 Kết quả khảo sát học kì IMôn Giỏi SL Khá TL SL TL Trung bình SL TL Yếu SL TL 16 Toán 3 15% 5 25% T. V 5 25% 6 30 % Khoa 7 35 % 13 65 % LS&ĐL 8 40 % 12 60 % Kết quả khảo sát học kì II-Cả năm Môn SL Toán 6 T. V 7 Khoa 10 LS&ĐL 11 Giỏi TL 30 % 35 % 50 % 55 % SL 8 9 10 9 Khá TL 40 % 45 % 50 % 45 % 9 9 45 % 45 % Trung bình SL TL 6 30 % 4 20 % 3 SL 15 % Yếu TL *) Năm học : 2010-2011 Kết quả khảo sát học kì I Giỏi Môn Toán T. V Khoa LS&ĐL SL 01 01 06 05 TL 05% 05 % 30 % 25 % Khá SL 06 09 14 15 TL 30 % 45% 70 % 75 % Trung bình SL TL 07 35 % 06 30 % Yếu SL 06 04 TL 30 % 20 % *)Kết quả khảo sát học kì II-Cả năm Môn Giỏi Khá Trung bình SL TL 11 55 % 07 35 % Yếu SL TL SL TL SL TL Toán 03 15 % 6 30 % T. V 04 20% 9 45 % Khoa 12 60 % 8 40 % LS&ĐL 12 60 % 8 40 % Với những biện pháp tôi trình bày ở trên rất phù hợp với điều kiện học sinh miền núi. Đây là một trong những giải pháp rất hiệu quả góp một phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh khối lớp 5 vùng dân tộc thiểu số. 2. Khuyến nghị - Đề xuất: 2.1. Đối với Phòng Giáo dục & Đào tạo: Nên duy trì thường xuyên tổ chức hội thảo, chuyên đề về việc nâng cao chất lượng giáo dục. 17 2.2.Đối với nhà trường: BGH nhà trường cần tham mưu đắc lực với chính quyền địa phương và các Ban ngành, có kế hoạch xây dựng thêm phòng học, các nhà hiệu bộ, xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo cho học sinh được học 2 buổi/ ngày. Có phòng thư viện, phòng đọc sách để giúp học sinh mở mang thêm kiến thức. Có kế hoạch mua sắm thêm trang thiết bị dạy học, sách giáo khoa đảm bảo cho học sinh đầy đủ. Xây dựng và phát triển lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường theo phương châm xã hội hoá giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Hiền Chung, ngày 10 tháng 05 năm 2011 Người thực hiện: Phạm Thị Hanh 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng