Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi
ở trường mầm non
A: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế
hệ trẻ đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, nền
giáo dục đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI
mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là: “học để biết, học để làm, học để tự
khẳng định mình và học để cùng chung sống”. Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trương
dạy kĩ năng sống là một trong những tiêu chí đánh giá “Trường học thân thiện học sinh tích cực.” Trên tinh thần đó, tôi nhận thấy rằng: chính ở dưới mái trường
các em học được nhiều điều hay, lẽ phải và nhà trường trở nên là ngôi nhà thân thiện,
học sinh tích cực học tập để thành người tài xây dựng đất nước, có khả năng hội
nhập cao, từng bước trở thành công dân toàn cầu. Với học sinh mầm non, đây là giai
đoạn đầu tiên hình thành nhân cách cho các em, giúp các em có một kĩ năng sống
tốt cho tương lai cuộc sống sau này.
Kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi lành mạnh cho phép bạn đối
mặt với những thách thức của cuộc sống hằng ngày, kỹ năng sống bắt nguồn từ cuộc
sống, nhưng không phải chỉ là những kỹ năng để sống mà là công cụ để một người
đạt đến thành công trong cuộc sống cá nhân, công việc và cuộc sống xã hội và cách
mỗi người sử dụng công cụ ấy sẽ tạo ra sự khác biệt.
Ngày nay cuộc số tấp nập hơn cha mẹ mải lo kiếm thật nhiều tiên mà họ đã quên
mất đến việc chăm sóc và dạy con cái. Họ thuê giúp việc chăm sóc con họ và yêu
cầu giúp việc bón cơm, tăm rửa mặc quần áo, mặc dù những công việc đó con họ có
thể tự làm được. Chính vì vậy mà khi gặp khó khăn con họ sẽ không tự giải quyết
được vấn đề. Thực trạng hiện nay, việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường mầm
non còn nhiều hạn chế. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chưa có nét chuyển biến,
nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy
kiến thức, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh còn hạn chế, giáo viên chưa nhận thức
được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình đang dạy.
Đối với trẻ Mầm non, chúng ta muốn con trẻ lớn lên trở thành những con người
tốt, sống có sức khỏe, có đủ phẩm chất và năng lực làm việc, trước hết chúng ta phải
nhìn nhận lại bản thân mình trước khi dạy trẻ: bản thân chúng ta cần gì? thiếu gì?
Làm thế nào để nâng cao kĩ năng sống cho trẻ? Làm thế nào để học sinh biết cách
vận dụng kĩ năng sống vào trong cuộc sống hằng ngày? nắm bắt được những nhu
cầu của bản thân qua đó chúng ta áp dụng dạy trẻ những điều trẻ mong muốn.
Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi suy nghĩ
rằng việc dạy kỹ năng sống cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là một việc làm rất cần
thiết và cực kỳ quan trọng nên tôi lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp nâng cao
chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi ở trường mầm non”
.
II . Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở thực trạng kỹ năng sống của trẻ trong độ tuổi Mầm non hiện nay ảnh
hưởng lớn đến việc phát triển toàn diện của trẻ sau này, chăm sóc cho đứa trẻ trở
thành con người có ích cho xã hội, bản thân tôi đã tìm tòi và đề ra các giải pháp dạy
kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm tạo được sự chuyển biến tích cực về các mặt
phát triển của trẻ ở lớp mẫu giáo nhỡ B4 nói riêng và góp phần phát triển thế hệ trẻ
lứa tuổi mầm non nói chung trở thành con người vừa có đạo đức vừa có trí tuệ, sức
khỏe để trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Sáng kiến đưa ra những
giải pháp nhằm tăng cường nâng cao nhận thức và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ cho giáo viên về chăm sóc giáo dục các kĩ năng sống cho trẻ trong trường mầm
non,đồng thời tìm ra một số biện pháp nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ, giúp
trẻ có những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống và áp dụng trong thực tế hàng ngày ở
trường mầm non.
III . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Toàn thể học sinh trong đang học tại lớp mẫu giáo nhỡ B4
Công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường Mầm non hiện nay và một
số giải pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong
lớp mẫu giáo nhỡ B4
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, nghiên cứu.
- Phương pháp luyện tập, thực hành.
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá.
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp.
- Phương pháp tổng kết và rút kinh nghiệm
B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
Đất nước đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi nguồn nhân lực trí tuệ cao,
quá trình hội nhập khu vực và quốc tế với xu thế toàn cầu hóa đang là một thách
thức với nước ta, đòi hỏi nhà nước và ngành giáo dục phải có một chiến lược phát
triển nhân tài. Trong hệ thống giáo dục, giáo dục mầm non có một vị trí đặc biệt
quan trọng trong việc đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất
lượng giáo dục ở bậc học tiếp theo.
Giáo dục mầm non có mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng nhằm giáo dục toàn diện
cho trẻ về thể chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ là cơ sở để hình thành nên
nhân cách con người mới XHCN Việt Nam và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho
trẻ bước vào trường tiểu học được tốt.
Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền
giáo dục tốt”. Trường mầm non có nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các
cháu, bồi dưỡng cho các cháu trở thành người công dân có ích.
Giáo dục kỹ năng sống có tác dụng nâng cao nhận thức, trang bị thái độ sống và
hành vi tích cực, lành mạnh cho trẻ. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là một hình thức
can thiệp sớm, có tác dụng tích cực trong việc ngăn ngừa những hành vi lệch lạc của
trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 6 tuổi.
Đối với trẻ mầm non, mà đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo nhỡ “điểm khởi đầu” của
quá trình hình thành nhân cách con người thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là
quan trọng và rất cần thiết. Nếu các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân
cách phát triển toàn diện và bền vững. Có nhiều công trình khoa học đã chứng minh
rằng: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá thành công cho
tương lai của mỗi đứa trẻ .
Một cá nhân nếu có đầy đủ kiến thức trong cuộc sống nhưng lại chưa có kĩ năng
cuộc sống và biết sử dụng linh hoạt những kĩ năng này thì không đảm bảo cá nhân
đó có thể đưa ra các quyết định hợp lý, giao tiếp có hiệu quả và có mối quan hệ tốt
với mọi người. Kĩ năng sống chính là năng lực tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó
những yêu cầu, thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
Một nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả năng giao
tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các giác quan của mình, biết cách ứng xử
phù hợp và biết cách tự giải quyết vấn đề cơ bản một cách tự lập rất quan trọng đối
với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu lồng ghép dạy kĩ năng sống cho trẻ phù hợp với
từng độ tuổi từ lứa tuổi mầm non rất cần thiết đối với sự phát triển của trẻ.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong
cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm.
Giáo dục “Kỹ năng sống” cho trẻ là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện
đại. Giáo dục cho trẻ những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có
thể chuyển kiến thức, thái độ, cảm nhận thành những khả năng thực thụ, giúp trẻ biết
xử lý hành vi của mình trong các tình huống khác nhau trong cuộc sống
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo nhỡ nói riêng,
đó là những hoạt động tích cực, hướng vào những hoạt động cá nhân hoặc một nhóm
trẻ với mục đích giúp trẻ có thể ứng phó hiệu quả với các tình huống, thách thức
trong cuộc sống hàng ngày. Định hướng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp
trẻ làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với cộng đồng và xã hội, thích nghi, học tập
hiệu quả, nâng cao sức khỏe tinh thần và thể chất, ứng phó tích cực trong các tình
huống của cuộc sống. theo một số nghiên cứu cho thấy, các kỹ năng sống khác nhau
theo địa lý, thời gian…ví dụ như trẻ em vùng biển thì có một số kỹ năng sống khác
với trẻ em vùng núi, kỹ năng sống của trẻ em thành phố khác với kỹ năng sống trẻ
em nông thôn, kỹ năng sống của trẻ em ngày xưa khác với kỹ năng sống trẻ em bây
giờ…Tuy nhiên có thể thấy rất rõ ràng là kỹ năng sống luôn gắn bó với các giá trị.
Các giá trị sống đúng đắn là kết tinh được truyền lại như sự tôn trọng, sống trách
nhiệm, yêu thương, sự tự tin, sự sáng tạo, lòng ham hiểu biết…các giá trị này được
truyền lại nhằm giáo dục giúp cho con người sống có chuẩn mực và góp phần vào
sự tiến bộ của xã hội.
Kỹ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn
luyện của con người. Kĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải
biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc
sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân, cộng đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống và
giúp cho con người xây dựng một xã hội có văn hóa. Các kỹ năng sống có được
thông qua rèn luyện. kỹ năng sống chỉ được hình thành thông qua giáo dục, đào tạo
và rèn luyện. Các kỹ năng sống có liên quan và hỗ trợ cho nhau. Ví dụ: kỹ năng tư
duy sáng tạo giúp cho con người tăng khả năng giải quyết vấn đề và đưa ra các quyết
định.
Giáo dục kỹ năng sống là rất quan trọng và cần thiết cho trẻ nhỏ. Giáo dục kỹ năng
sống giúp cho trẻ phát triển nhân cách, thể chất, tình cảm, giao tiếp, ngôn ngữ, tư
duy một cách toàn diện, là nền tảng để trẻ tự tin bước vào giai đoạn tiểu học. Rèn
luyện kỹ năng sống cho học sinh là giúp các em rèn luyện kĩ năng ứng xử thân thiện
trong mọi tình huống; có thói quen và kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng hoạt
động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khoẻ, ý thức bảo vệ bản
thân
Về thể chất: giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ tăng cường thể chất, sự kiên trì,
bền bỉ, tháo vát… thông qua các bài học và các hoạt động vận động trong quá trình
dạy kỹ năng sống. Trẻ sẽ được rèn luyện sự dẻo dai, khéo léo, kiên trì, giúp cho trẻ
nhanh thích ứng với các điều kiện sống thay đổi.
Về nhận thức: giáo dục kỹ năng sống giúp cho trẻ có một nền tảng kiến thức, ham
mê hiểu biết, khám phá, xây dựng cho trẻ niềm ham mêm học tập suốt đời.
Về tình cảm: giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ biết lắng nghe, chia sẻ, sống có trách
nhiệm, biết yêu thương, biết ơn công lao của cha mẹ.
Về giao tiếp-ngôn ngữ: giáo dục kỹ năng sống cho trẻ giúp trẻ tự tin, giao tiếp hiệu
quả, đặc biệt rèn luyện cho trẻ biết lắng nghe, nói chuyện lễ phép, hòa nhã.
Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ có bước đệm chuẩn bị sẵn sàng cho giai đoạn
tiểu học: việc giáo dục kỹ năng sống từ sớm giúp trẻ có khả năng thích nghi với sự
thay đổi môi trường sống, khả năng hòa nhập nhanh, giúp trẻ tự tin bước vào lớp 1.
Kỹ năng sống của trẻ bao gồm rất nhiều kỹ năng : Kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ
năng vệ sinh, kỹ năng thích nghi với môi trường sống, kỹ năng hợp tác chia sẻ,kỹ
năng giải quyết tình huống có vấn đề, kỹ năng thích nghi,kỹ năng khám phá thế giới
xung quanh,kỹ năng tự chăm sóc bản thân,kỹ năng tạo niềm vui,kỹ năng tự bảo vệ,kỹ
năng làm việc theo nhóm,kỹ năng nhận thức…Mục tiêu của việc rèn kỹ năng sống
nhằm phát triển, nuôi dưỡng những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ
năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên các lĩnh vực nền tảng:
thể trạng, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm sống của người
lớn. Nhằm giúp trẻ có những kỹ năng đương đầu với những khó khăn trong cuộc
sống. Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để giải quyết những khó
khăn trong cuộc sống cho phù hợp.
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1. Mô tả thực trạng:
Căn cứ nhiệm vụ năm học 2018 - 2019 của ngành giáo dục: rèn luyện kĩ năng
sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, các em không chỉ biết
học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kĩ năng sống qua đó tạo cho
các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ. Việc giáo dục kỹ năng
sống từ sớm giúp trẻ có khả năng thích nghi với sự thay đổi môi trường sống, khả
năng hòa nhập nhanh, giúp trẻ tự tin bước vào lớp 1.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non là nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc
sống, biết được những điều nên làm và không nên làm. Nội dung giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ phải hết sức đơn giản và gần gũi với trẻ. Chúng ta dạy kỹ năng sống
cho trẻ chính là chúng ta dạy trẻ biết sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tò
mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Và điều quan trọng mà chúng ta mong muốn sẽ
là giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới qua việc phát triển
các kĩ năng cho trẻ. Nếu chỉ suy ngẫm và trò chuyện thôi thì chưa đủ, cần có các kĩ
năng ứng dụng vào thực tế. Trẻ cần được trải nghiệm, hiểu kết quả của hành vi ứng
xử và muốn chủ động đưa ra những quyết định có sức ảnh hưởng lớn.
Trong thực tế ở trường mầm non trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi còn nhỏ, trẻ thích làm
theo ý muốn nhưng kinh nghiệm và kỹ năng sống của trẻ còn quá ít để trẻ thực hiện
những mong muốn đó. Hơn thế nữa trong độ tuổi 4 tuổi trẻ được cha mẹ thường bao
bọc, nuông chiều trẻ một cách thái quá, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỉ, không quan
tâm đến người khác và các kĩ năng trong cuộc sống rất hạn chế, gây khó khăn cho
trẻ trong việc có tình huống bất ngờ xảy ra. Vì vậy, một số trẻ vẫn rất hạn chế trong
các kỹ năng sống cơ bản hàng ngày. Một số trẻ rất thụ động khi có những tình huống
sảy ra. Chính vì vậy, việc rèn kỹ năng sống cho trẻ là một việc làm hết sức cần thiết
giúp trẻ có những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống. Hơn ai hết, người giáo viên có
tầm quan trọng rất lớn trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ, cùng với gia đình giúp
trẻ có những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống.
Một nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả năng giao
tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử
phù hợp và biết cách tự giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập rất quan trọng
đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu lồng ghép dạy kỹ năng sống cho trẻ phù hợp
với từng độ tuổi từ lứa tuổi mầm non vô cùng cần thiết và quan trọng hàng đầu.
Muốn vậy, người lớn phải tạo cho trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực
hành. Nhưng trên thực tế, trong xã hội hiện nay các gia đình thường chú trọng đến
việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến phát triển các kỹ năng cho trẻ. Luôn
bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người
khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế. Khó khăn cho trẻ trong việc có
tình huống bất ngờ xảy ra.
Sự hợp tác, tự kiểm tra, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp.
Học cách có được những mối liên kết mật thiết với các bạn khác trong lớp, biết chia
sẽ, chăm sóc, lắng nghe, trình bày và diễn đạt được ý của mình trong nhóm bạn.
Giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Biết giới thiệu về bản
thân và gia đình mình trước đám đông, biết mình đang học lớp nào, thích cái gì và
điạ chỉ nhà mình ở đâu. Nhận biết các ưu khuyết điểm của bản thân. Biết cách ứng
xử với mọi người xung quanh. Học cánh lắng nghe mọi người và đối đáp. Nhận biết
những hoàn cảnh không an toàn, cách giữ an toàn cho mình nơi công cộng (trong
sân trường, công viên, siêu thị, ngoài phố, khi gặp người lạ,…)
Những năm gần đây, nhiều trẻ em rất thiếu kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp
với ông bà, cha mẹ. Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con
em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rất rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp
họăc tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử. Đây
là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự
tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém.
Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng.
Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên đứng lớp những suy nghĩ, trăn
trở.
2.2. Thuận lợi:
Trường có điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị tương đối đầy đủ theo quy
định cho các độ tuổi.
Trẻ được phân chia học theo độ tuổi 100% và được thực hiện chương trình
Giáo dục mầm non.
Giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ đào tạo, luôn năng nổ, nhiệt tình,
yêu nghề, mến trẻ, có nhiều kỹ năng tốt để hướng dẫn trẻ trong quá trình học tập.
Phụ huynh có hiểu biết về Giáo dục mầm non và rất quan tâm đến công tác
chăm sóc và giáo dục trẻ của nhà trường.
2.3. Khó khăn:
Số học sinh tương đối đông, vượt chỉ tiêu biên chế số trẻ/lớp đối với các độ tuổi.
Học sinh đa số được phụ huynh nuông chiều quá mức nên ảnh hưởng rất lớn đến
công tác giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ.
Một số phụ huynh chỉ quan tâm đến việc học văn hoá của con mà không quan tâm
đến việc dạy các kỹ năng sống cho trẻ nên một số trẻ rất ương bướng và khó bảo.
* Khảo sát thực trạng chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo nhỡ 45 tuổi ở trường tr ước khi thực hiện đề tài :
Hiện nay, trong các nhà trường đã chú trọng việc đưa nội dung giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ vào các hoạt động hàng ngày dưới nhiều hình thức, đưa lồng ghép
vào các hoạt động là cơ sở giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ. Tuy nhiên, ở một số
giáo viên chưa thực sự quan tâm tới việc giáo dục rèn kĩ năng sống cho trẻ, chưa
hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản
nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng
sống cho trẻ mầm non.
Đối với trẻ, vào đầu năm học nề nếp, kĩ năng sống còn hạn chế. Vì vậy giáo
viên thường tập trung lo lắng cho những trẻ có vấn đề về hành vi và khả năng tập
trung. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không
biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung
lĩnh hội những điều cô giáo dạy! Vì vậy, giáo viên phải mất rất nhiều thời gian vào
đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non.
Để việc nghiên cứu đạt hiệu quả, đầu năm học tôi có làm một cuộc khảo sát đánh
giá vốn kỹ năng sống hiện tại của trẻ lớp tôi trước khi thực hiện đề tài
Bảng 1. Kết quả khảo sát học sinh về vốn kỹ năng sống (Số học sinh được khảo
sát 49 trẻ)
BẢNG THỐNG KÊ KHẢO SÁT TRÊN TRẺ.
Mức độ % trên trẻ
Tổng
Lĩnh vực khảo sát
số trẻ
trong
lớp
Đạt
Chưa đạt
Số
Tỉ lệ
Số
lượng
%
lượng
Tỉ
lệ
%
1. Trẻ có ý thức hợp tác, chia sẻ
49
17
35
32
65
2. Trẻ mạnh dạn, tự tin
49
17
35
32
65
3. Kỹ năng giao tiếp, lễ phép
49
19
30
61
4. Kỹ năng vệ sinh cá nhân và tự lập
49
31
63
18
39
37
5. Kỹ năng thích khám phá học hỏi
49
20
41
29
59
Nhìn vào bảng khảo sát ta thấy số trẻ đến trường mầm non chưa thật sự tự tin, trẻ
còn nhút nhát, chưa mạnh dạn, các kỹ năng về giao tiếp, kỹ năng hợp tác chia sẻ, kỹ
năng tự lập ( Kỹ năng tự phục vụ còn hạn chế rất nhiều)
Đứng trước tình hình thực trạng của khối mẫu giáo nhỡ trường tôi . Tôi luôn suy
nghĩ làm thế nào để nâng cao được chất lượng giáo dục kỹ năng sống
(Đặc biệt là kỹ năng tự phục vụ cho trẻ) Chính vì vậy,tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một
số biện pháp giúp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo nhỡ
4-5 tuổi ở trường mẫu giáo”
3. Giải pháp thực hiện:
3.1. Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ
năng thực hiện việc dạy kỹ năng cho trẻ:
Là một giáo viên được phân công giảng dạy lớp 4-5 tuổi nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao, tôi không ngừng tự học tự bồi dưỡng bản thân để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện nhiệm vụ của mình. Đặc biệt tôi đi sâu
vào nghiên cứu những kỹ năng sống cơ bản dạy trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non,
nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 4-5 tuổi bằng nhiều hình thức như tự học
qua sách báo, chuyên san, tạp chí, học hỏi bạn bè đồng nghiệp, khai thác qua mạng.
Thực tế cho thấy, việc xác định các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo
viên lựa chọn đúng nội dung trọng tâm để dạy trẻ.
Xác định được việc muốn nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh thì trước tiên giáo viên chúng tôi phải có nhận thức hơn ai hết về những nội
dung dạy trẻ,để dạy được những kỹ năng sống cho trẻ thì việc xây dựng kế hoạch
bồi dưỡng là một việc làm không thể thiếu. Chính vì vậy mà chúng tôi tự xây dựng
kế hoach cho mình như sau:
+ Tìm hiểu tài liệu: tham khảo về những hoạt động dạy trẻ kỹ năng sống trong trường
mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi nói riêng.
+ Bồi dưỡng về lý thuyết: Qua khảo sát học sinh về các kỹ năng sông. Tôi nhận thấy
trẻ của lớp mình một số kỹ năng còn hạn chế . Vì vậy tôi đã trao đổi với giáo viên
cùng lớp,cùng khối những nội dung mà trẻ còn yếu để giáo viên cùng kết hợp dạy
trẻ.
Tôi tự đặt câu hỏi thế nào là dạy kỹ năng sống? Kỹ năng sống là dạy cho trẻ những
kỹ năng gì? Dạy kỹ năng sống là dạy trẻ vào thời điểm nào là hiệu quả nhất.Đặc biệt
tôi quan tâm đến những kỹ năng quan trọng với trẻ gồm có các kỹ năng:
+ Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm
là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Ngày từ khi đến lớp giáo viên nên khuyến
khích động viên trẻ giới thiệu tên của mình với các bạn trong lớp . Nghĩa là giúp trẻ
cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những
người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở
mọi nơi, mọi lúc. Nếu trẻ không mạnh dạn tự tin thì sẽ rất khó khăn trong việc giao
tiếp sau này.
+ Kỹ năng vệ sinh cá nhân: Giúp cho giáo viên dạy trẻ có thể tự súc miệng, đánh
răng và rửa mặt. Dạy trẻ cách rửa tay trước mỗi bữa ăn và nhận biết khi nào thì quần
áo của mình bị bẩn cần phải giặt. Đối với các bé gái, việc chải chuốt làm điệu cũng
rất quan trọng. Giáo viên phải biết để dạy trẻ thói quen tóc tai luôn gọn gàng và chọn
trang phục phù hợp với từng hoàn cảnh, hoặc biệt giúp người lớn dọn dẹp, không
làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
+ Kỹ năng lao đông tự phục vụ: Đối với trẻ Mầm non trước khi trẻ học cách tự phục
vụ thì trẻ đang còn rất vụng về, khi cho trẻ ăn có thể bố, mẹ hoặc cô giáo thấy trẻ
lúng túng thì lại đút cho trẻ ăn để tránh rơi vãi,hoặc là khi đến lớp bố mẹ không để
cho con cất giầy dép, cởi bớt áo khoác, cất ba lô mà lại làm giúp cho con. Vì thế giáo
viên phải xác định rằng phải dạy cho trẻ có kỹ năng. Đó là cách trẻ học làm người
lớn, để cho trẻ tự cầm thìa xúc cơm ăn,tự mặc quần áo...lúc đầu có thể chưa quen
nhưng sau đó dần dần trẻ sẽ thành thục trong việc tự phục vụ cho mình trong ăn
uống. Biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn,
ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi
nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, ngồi ngay ngắn, ăn hết xuất, biết cảm ơn sau khi
ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa..
+ Kỹ năng sống hợp tác: Giúp cho giáo viên hiểu kỹ năng hợp tác chia sẻ là một kỹ
năng không kém phần quan trọng. Khi dạy trẻ kỹ năng hợp tác giúp trẻ hiểu có những
công việc một mình sẽ không thể làm được.VD Cùng bê một chiếc bàn hay một khố
gỗ to hoặc một bao tải....Chính vì vậy phải có sự hợp tác của các thành viên trong
nhóm.
Thông qua các trò chơi, câu chuyện, bài thơ, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng
làm việc với bạn, hợp tác với mọi người trong quá trình chơi, đây là một công việc
không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và
cùng làm việc với các bạn. Giúp trẻ hiểu dược tầm quan trong khi làm việc có sự
chia sẻ và ủng hộ của người khác. Đối với trẻ mầm non có thể hợp tác để có thể làm
được những công việc đơn giản như tự xếp gọn đồ chơi của mình thật ngăn nắp. Mục
đích của việc này chính là dạy trẻ cách trân trọng những gì mình đang có cũng như
ý thức trách nhiệm với những thứ là của mình và của bạn.
+ Kỹ năng giao tiếp: Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Kỷ
năng này có vị trí chính yếu so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán
và nghiên cứu khoa học. Giáo viên cần phải dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn
đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức
của mình trong thế giới xung quanh. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý
tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận
những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ.
+ Dạy trẻ biết nói lời cảm ơn, xin lỗi: Ngay từ khi còn bé, nếu trẻ hiểu được nên
dùng những lời cảm ơn và xin lỗi trong hoàn cảnh phù hợp thì sẽ rất có lợi cho việc
hình thành nhân cách của trẻ sau này. Cho nên là giáo viên cần phải biết dạy cho trẻ
sử dụng các lời nói đó vào những hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ khi có người lớn cho quà
trẻ phải biết nhận bằng hai tay và nói lời “cảm ơn”, hoặc khi không may lỡ làm bạn
ngã thì phải biết dùng lời “xin lỗi” đối với bạn
3.2. Xây dựng môi trường giáo dục k ỹ năng sống cho trẻ:
Việc xây dựng môi trường giáo dục rất quan trọng, góp phần thực hiện đạt các chỉ
tiêu kế hoạch đề ra. Tôi đã chú trọng đến công tác xây dựng môi trường nhằm giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
Ở cửa lớp tôi có bẳng tuyên truyền các bậc cha mẹ với tiêu đề “Những điều phụ
huynh cần biết” trong đó gồm có các nội dung như: Kết quả theo dõi cân đo hàng
tháng, định kỳ, kết quả khám sức khỏe, các nội dung tuyên truyền về dịch bệnh, về
giáo dục kỹ năng sống theo chủ đề... Các nội dung được trang trí đẹp mắt và nổi bật
gây được sự chú ý của các bậc phụ huynh khi đưa đón trẻ.
Trong lớp, tôi trang trí các góc mở cho trẻ được trải nghiệm và tham gia hoạt động.
Góc mừng sinh nhật bé, tôi trang trí các hoạ tiết biểu tượng của từng tháng và cho
học sinh ghép hình ảnh của mình vào.
Tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ vào cuối chủ đề của lớp, tổ chức giao lưu các
lớp với nhau, tổ chức mừng sinh nhật một nhóm trẻ. Qua đó trẻ rất hứng thú và thông
qua các hoạt động đó nhằm giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách rất nhẹ nhàng
và có hiệu quả.
Tôi sưu tầm, chuẩn bị học cụ dưới dạng mở để cho trẻ cùng khám phá, trải nghiệm.
Tôi sưu tầm,chuẩn bị học cụ để trẻ vừa chơi, trải nghiệm thực hành rót nước từ ấm
có vòi mời khách.
3. 3 . G i á o viên lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt
động trong ngày cụ thể như :
Thông qua giờ đón và trả trẻ : Tôi nhận thấy rằng việc dạy kỹ năng chủ yếu ở
hoạt động này là kỹ năng tự phục vụ và kỹ năng giáo dục lễ giáo : Cất giầy dép, ba
lô, chào cô, chào bố mẹ.Ngoài ra giáo viên trò chuyện hoặc kể cho trẻ nghe các câu
chuyện thông qua đó giáo dục và khắc sâu các kĩ năng sống cho trẻ .
Ví dụ : kỹ năng tự phục vụ - cô cho trẻ tự cất ba lô,giày dép đúng nơi quy
định.
Ví dụ : Cô hỏi trẻ (kĩ năng ứng xử ) Lúc bố mẹ đón con như thế nào? chào những ai
? Chào như thế nào?Khi đi trong trường gặp các cô bác trong trường con như thế
nào? Khi đi thăm ông bà con phải như thế nào?
Thông qua họat động học: Tôi đã lựa chon những bài thơ câu chuyện có mang
tính giáo dục kỹ năng sống như: Tích Chu, Ai đáng khen nhiều hơn,Bông hoa cúc
trắng, Ba chú lợn con,VD: Giáo dục trẻ kỹ năng hợp tác,chia sẻ,biết quan tâm giúp
đỡ người khác,thông qua câu chuyện “Ba chú lợn con” .
Thông qua hoạt động ngoài trời và tham quan dã ngoại: Thông qua hoạt động
này tôi tận dụng các cơ hội để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ.
Ví dụ : Khi cho trẻ thăm quan khu di tích lịch sử Lăng Bác Hồ,tôi cung cấp cho
trẻ biết công ơn to lớn của Bác Hồ với đất nước,giáo dục trẻ biết ơn và kính trọng
Bác Hồ,tri ân các anh hùng liệt sĩ,yêu thiên nhiên, không vứt rác thải các nơi công
cộng, không ngắt lá bẻ cành cây các khu vui chơi, khu di tích.
Thông qua hoạt động ăn chủ yếu sử dụng : Kỹ năng tự phục vụ bằng cách tập cho
trẻ những việc vừa sức như: Sắp bàn ăn, xếp ghế, lau bàn, tự thay quần áo, gấp
quần áo,Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử
dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng,
không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, biết tự dọn, cất đúng chỗ, biết giúp
người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh,
biết giúp cô những công việc vừa sức.Đây là một trong những kỹ năng quan trọng
nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này. Giáo viên cần hiểu rõ tâm lý của trẻ cũng như
sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để hình thành nơi trẻ kỹ năng sống.Tôi đã rèn
cho trẻ khả năng tự phục, nhất là tự phục vụ trong ăn uống bằng cách: Tập cho trẻ
cùng cô sắp bàn ăn, sắp thìa, sắp khăn lau tay, khăn lau miệng. Đồng thời tập cho
trẻ cách sử dụng khăn lau miệng khi ăn như thế nào cho đẹp, đúng. Ăn xong cất Bát
thìa ở vị trí nào, để như thế nào cho đúng, gọn gàng và tiện lợi nhất. Song song với
việc tập cho trẻ khả năng tự phục vụ trong bữa ăn là tập cho trẻ tự vệ sinh cá nhân
như rửa tay đúng quy trình, lau mặt đúng kỹ năng, biết thay quần áo, gấp quần áo (
Ảnh minh họa 8, 9, 10phần phụ lục).
Thông qua hoạt động vui chơi : Trẻ mầm non chơi mà học – học bằng chơi . Hoạt
động vui chơi mang tính tích hợp cao trong giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trẻ. Hoạt
động chơi được tổ chức đáp ứng nhu cầu của trẻ, đồng thời tích hợp nội dung giáo
dục, trong đó có nội dung giáo dục kĩ năng sống nên tôi lồng ghép giáo dục các kĩ
năng sống thông qua nội dung từng trò chơi đặc biệt là các trò chơiphân vai.
Vi dụ : Trò chơi bác sĩ, qua trò chơi này tôi dạy trẻ biết cảm thông chia sẻ với người
ốm, với bệnh nhân phải ân cần chăm sóc và động viên chia sẻ.
Ví dụ: Góc xây dựng trẻ phải có sự phối hợp của nhóm chơi xây dựng với nhóm chơi
lắp ráp để hoàn thành công trình xây dựng của mình từ đó hình thành ở trẻ kỹ năng
làm việc nhóm,biết sáng tạo tưởng tượng ra các công trình.
Ví dụ : Tôi tổ chức cho trẻ chơi ở góc thực hành cuộc sống,tôi chuẩn bị nhiều học
liệu cho trẻ được trải nghiệm các kỹ năng sống thông qua việc chơi các học liệu cô
chuẩn bị,cô hường dẫn trẻ cách chơi.Thông qua các trò chơi trẻ được trải nghiệm
giúp trẻ hình thành các vận động tinh,giúp tay trẻ khéo léo,khả năng nhanh nhạy
phán đoán tình huống,dần các kinh nghiệm sau khi chơi được tích lũy tự nhiên rất
có lợi cho cuộc sống của trẻ sau này.Trẻ rất hứng thú khi được tham gia chơi.
Ví dụ: trẻ chơi góc làm quen với toán giúp trẻ phát triển kỹ năng phán đoán,hợp
tác cùng giải quyết công việc
Thông qua hoạt động chiều gồm có: kỹ năng lao động - vệ sinh : Giáo dục trẻ đi
đại tiện, tiểu tiện đúng chỗ và khi đi xong biết dội nước, các đồ dùng vệ sinh được
dùng để ngăn nắp. Điều này giúp trẻ tự khẳng định mình, nhận thức được khả năng
của mình, góp phần tham gia vào lao động thực sự của người lớn và các bạn cùng
tuổi nhằm bảo vệ môi trường và trường mầm non sạch, đẹp.
Kỹ năng lao động chăm sóc vât nuôi, cây trồng: đây chính là những việc làm tốt
cho môi trường, ngoài ra còn hình thành lòng tự hào ở trẻ khi được góp công sức
của mình vào việc làm cho môi trường xanh - Sạch - đẹp thông qua các hoạt động
này Giáo viên giáo dục trẻ các kĩ năng tự phục vụ bản thân, kĩ năng biết bảo vệ bản
thân khi có nguy hiểm. Ví dụ : Khi trẻ trong phòng vệ sinh sàn nhà thường rất trơn
thì phải làm như thế nào?
3.4. Tuyên truyền cho các bậc cha mẹ và cộng đồng về kỹ năng sống:
Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường là một nhiệm vụ thiết thực, tạo sự liên
kết và thống nhất giữa trường và cha mẹ trẻ về nội dung, phương pháp, cách thức
tổ chức giáo dục trẻ ở lớp cũng như ở gia đình. Đây là điều kiện thuận lợi để nhà
trường thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức giáo dục trẻ cho các bậc
cha mẹ và cộng đồng nhằm giúp trẻ có sự phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh
thần, nhận thức, tình cảm, thẩm mĩ, ngôn ngữ, giao tiếp ứng xử... góp phần thực hiện
tốt mục tiêu giáo dục mà nhiệm vụ năm học đã đề ra.
Tuyên truyền đến các bậc phụ huynh những văn bản chỉ đạo, những chính sách, chế
độ liên quan đến công tác giáo dục mầm non. Trong đó đặc biệt quan tâm đến nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Giáo viên trao đổi với phụ huynh chương trình dạy kỹ năng sống tại lớp
Trước hết, giáo viên, phụ huynh phải là tấm gương cho trẻ noi theo, luôn gương
mẫu, yêu thương, tôn trọng và đối xử công bằng với trẻ, tạo điều kiện tốt nhất để trẻ
được vui chơi, học tập với môi trường an toàn, thân thiện
Cô giáo và cha mẹ cần thống nhất phương pháp để giáo dục trẻ như vậy trẻ mới học
và áp dụng được các kỹ năng trong cuộc sống hàng ngày.
Việc dạy trẻ những kỹ năng đó phải là một quá trình. Nhiều phụ huynh cho rằng con
mình còn quá bé để hiểu được những điều đó cũng như nghĩ rằng trẻ mẫu giáo vẫn
được sống trong sự bao bọc, bảo vệ tuyệt đối của bố mẹ. Những trên thực tế, không
phải lúc nào cha mẹ cũng ở bên con khi có tình huống xấu. Cô giáo phối hợp cùng
phụ huynh khéo léo dạy trẻ cách giữ gìn và bảo vệ các cơ quan, bộ phận trên cơ thể,
giúp trẻ chủ động, cảnh giác với tình huống khi có người quan tâm thái quá đến cơ
thể của trẻ. Dạy trẻ một số cách phản kháng và bảo vệ bản thân.
Song song với việc thực hiện biện pháp giáo dục trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp,
tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà
trường. Việc dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải là chuyện một sớm một chiều mà
là cả một quá trình. Các kỹ năng sống phải được giáo dục, rèn luyện đồng nhất thì
mới bền vững và thành kỹ xảo. Nếu chỉ dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi thì
chưa đủ. Bên cạnh đó, môi trường gia đình rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ. Trẻ được tiếp thu các kỹ năng thông qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ
nhàng mà lại hiệu quả cao. Mặt khác, nuôi dạy con luôn là mối quan tâm hàng đầu
của các bậc phụ huynh nhất là trong thời buổi hiện nay, ai cũng muốn con mình đạt
thành tích cao trong học tập cũng như trưởng thành hơn về mặt nhân cách. Tuy
nhiên việc làm thế nào để có thể giúp trẻ phát huy được khả năng tiềm ẩn? Làm thế
nào để trẻ có những kỹ năng sống tốt nhất thì nhiều phụ huynh còn lúng túng trong
vấn đề này. Trên thực tế nhiều phụ huynh chưa có kiến thức về kỹ năng sống, không
biết kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng nào? Cần giáo dục phụ huynh để họ hiểu
tầm quan trọng của kỹ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương pháp dạy
trẻ như thế nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Việc tuyên truyền đến
các bậc phụ huynh được tiến hành trong giờ đón, trả trẻ, thông qua bảng tuyên
truyền, thông qua việc mời phụ huynh tham quan hoặc tham ra trực tiếp vào các
hoạt động của lớp hay thông qua buổi họp phụ huynh. Cụ thể:
Thông qua giờ đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ, vệ sinh
cá nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng của trẻ để cùng
phụ huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh: Bảng được thiết kế đẹp, kích thước to
rõ, các phụ huynh có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng. Đây là nơi trao đổi thông
tin với phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi có đánh máy nội dung giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp.
Thông qua các buổi hợp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội dung giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh.
- Xem thêm -