Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1...

Tài liệu Skkn một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

.PDF
24
3279
66

Mô tả:

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 MỤC LỤC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM- ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1.......................................................................................0 A Mở đầu...............................................................................................................1 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................................1 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.....................................................1 III.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU..........................................................................1 IV.ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM................................................1 V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................................................1 VI.PHẠM VI NGHIÊN CỨU...............................................................................2 VII. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU.........................................................................2 B.Nội dung............................................................................................................3 Chương I - CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG.................................................................3 I. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC......................................3 1. Vị trí của dạy đọc ở Tiểu học............................................................................3 2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học.....................................................................4 II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC.................................5 1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc..............................................................5 2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc...................................................6 3. Cơ sở thực tiễn của việc rèn đọc cho học sinh lớp 1.........................................7 a. Đặc điểm chung của địa phương.......................................................................7 b. Đặc điểm chung của lớp 1B..............................................................................7 Chương II - THỰC TRẠNG DẠY HỌC..............................................................8 I. Tình hình – Kết quả khảo sát điều tra................................................................8 II. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc...........................9 Chương III- ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC...........................................10 I. Biện pháp tác động giáo dục............................................................................10 II. Phần học các nét cơ bản..................................................................................10 III. Phần học âm..................................................................................................12 IV. Phần học vần.................................................................................................14 V. Phần Tập đọc..................................................................................................15 VI. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học..................................................16 VII. Những phương tiện dạy học.........................................................................18 C. Kết luận và kiến nghị......................................................................................19 I. Kết luận……………………………………………………………………....19 II. Kiến nghị………………………………………………………...…………..19 Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài: Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng, hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Kĩ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kĩ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kĩ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học . Cùng với kĩ năng viết, kĩ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo…Từ đó có điều kiện học tốt các môn học học khác. Ở lớp 1 các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kĩ năng đọc rất quan trọng, nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác, ở lớp 1, các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập tốt. Bắt đầu học đọc, học viết nên các em lớp 1 còn nhiều bỡ ngỡ và tiếp thu kiến thức thật khó khăn, nhiều em chưa nắm vững các chữ cái. Nếu không được quan tâm, rèn luyện thì chất lượng học tập của các em không cao. Theo tôi, để nâng cao chất lượng học sinh phải giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ lớp 1. Mà đa số các em đọc chưa tốt đều do chưa thuộc kĩ âm, vần, chưa đọc thông viết thạo cho nên việc giúp học sinh có kĩ năng đọc tốt hơn rất quan trọng. Đó là lí do tôi chọn” Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1” để nghiên cứu và áp dụng vào thực tế lớp tôi chủ nhiệm, mong muốn các em đều đọc tốt có nền móng cơ bản để học các lớp trên. II. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu đề tài ‘’Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1’’nhằm góp phần nâng cao hơn nữa kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 – Trường Tiểu học Hướng Phùng. III. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1. IV. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: Học sinh lớp 1B trường Tiểu học Hướng Phùng. V. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau : Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng -1- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 1. Phương pháp quan sát 2. Phương pháp điều tra 3. Phương pháp luyện tập thực hành. 4. Phương pháp đàm thoại. 5. Phương pháp hoạt động theo nhóm nhỏ. 5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm VI. Phạm vi nghiên cứu Những biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 để nâng cao chất lượng dạy học. VII. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 2 năm 2015. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng -2- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 B. PHẦN NỘI DUNG Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG I. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC 1. Vị trí của dạy đọc ở Tiểu học a. Khái niệm đọc: Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm). Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phát âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như các ký hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái niệm “đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức. b. Ý nghĩa của việc đọc Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây anh ta biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn không biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bủng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng -3- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một khả năng không thể thiếu được của con người văn minh. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. 2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học Những điều vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Tập đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu này – hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh. Phân môn học vần cũng thực hiện nhiệm vụ dạy đọc nhằm giúp học sinh sử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông hiểu văn bản chỉ đặt ra ở mức độ thấp và chưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa (đọc thầm). Như vậy, tập đọc với tư cách là một phân môn Tiếng Việt tiếp tục những thành tựu dạy học mà học cần đạt được, nâng lên một mức đầy đủ hoàn chỉnh hơn. Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong 2 hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào. Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác thông qua việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khác đó là làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hoá cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng -4- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC 1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc, nắm bản chất của kĩ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh khi đọc hay cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học. Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác. Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này. - Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành nhưng dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung những gì được đọc. - Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn. Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết người mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu. - Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ "đọc" được sử dụng trong nhiều nghĩa : Theo nghĩa hẹp, việc hình thành kĩ năng đọc trùng với nắm kĩ thuật đọc (tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh), theo nghĩa rộng, đọc được hiểu là kĩ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài). Ý nghĩa hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai - đọc được xem như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố: 1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ 2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào trình độ nắm kĩ thuật đọc. 3. Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kĩ năng đọc là một kĩ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài. Chia việc hình thành kĩ năng này ra làm 3 giai đoạn : phân tích tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành động) và giai đoạn tự động hoá. Giai đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ý Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng -5- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 nghĩa của "từ" trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc tổng hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hoá, nghĩa là người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc chiếm lĩnh văn hoá (bài khoá), nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, các phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ra đã chú trọng hơn đến những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kĩ năng đọc và hình thành kĩ năng làm việc với văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên tổ chức giờ học đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng thời hướng dẫn đọc có ý thức bài đọc. Việc đọc như thế nhằm vào sự nhận thức. Chỉ xem là đứa trẻ biết đọc khi nó đọc mà hiểu trương điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu trẻ không hiểu được những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú học tập và không có khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc. Để có giờ học vần kết quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của học sinh mình nắm được đặc điểm yêu cầu, bản chất kĩ năng cơ chế mục đích cần đạt được của tiết dạy học vần. Trên cơ sở đó sử dụng phương pháp cho phù hợp. 2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc Phương pháp dạy học vần phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học. Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa của từ, của câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu câu, các kiểu câu… Phương pháp dạy học học vần phải dựa trên những kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập nội dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời những cơ sở ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc dạy học sẽ mang tính tuỳ tiện và không đảm bảo hiệu quả dạy học. a. Vấn đề chính âm trong tiếng Việt Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự, có nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn hoá ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng chính âm. b. Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên cao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần của ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo thành lời nói. Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu tiếng Việt, như các ngôn ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng -6- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 (cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường độ) và sự chuyển giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ). Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố cơ bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng âm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ những yếu tố này. 3. Cơ sở thực tiễn của việc rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1 a. Đặc điểm chung của địa phương Hướng Phùng là một trong những xã khó khăn của vùng Bắc Hướng Hóa, đa số học sinh là con em đồng bào Vân Kiều, điều kiện kinh tế và đi lại còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, phụ huynh chưa có đủ điều kiện và chưa có sự quan tâm đến việc học của con em. Nhưng nhờ sự quan tâm của chính quyền địa phương, sự chỉ đạo sát sao và kịp thời của Chuyên môn nhà trường, tổ khối, đã vận động, huy động để các em đến lớp đều đặn hơn, đặc biệt là những em học sinh còn đọc chưa tốt, giúp các em có cơ hội rèn luyện việc đọc của mình nhiều hơn. b. Đặc điểm chung của lớp 1B - Tổng số lớp là 30 em, trong đó có 12 nữ. - Tất cả các em là người Vân Kiều, môi trường tiếp xúc và sử dụng tiếng Việt còn nhiều hạn chế. - Số học sinh đã qua mầm non ít. - Lớp học đông, đã biết chữ cái còn rất ít. - Học sinh chưa quen với môi trường học tập ở trường Tiểu học, còn rụt rè. - Cơ sở vật chất còn thiếu. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng -7- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 Chương II THỰC TRẠNG DẠY HỌC I. Tình hình – Kết quả khảo sát điều tra Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp 1B Trường Tiểu học Hướng Phùng với nội dung sau: - Kiểm tra sự phát triển về thể chất của các em. - Nhận xét về sự quan tâm của gia đình đối với việc học của con em. - Tìm hiểu số học sinh đi học mầm non và số học sinh không đi học mầm non hoặc đi học không đều, tìm hiểu lý do học sinh không đi học mầm non. - Kiểm tra sự sự nắm bắt, nhận diện chữ cái đã học trong trường mầm non. - Kiểm tra học sinh đã biết hoặc chưa biết cầm bút. Kết quả thu được như sau : - Một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến. - Phụ huynh trong lớp là người dân tộc thiểu số, hầu hết không biết chữ chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà. - Tổng số học sinh trong lớp là 30 em: Học sinh không đi học mầm non: 10 Học sinh đi học không đều : 13 em Học sinh đi học đều : 7 em . - Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái : + Tổng số : 30 em + Không biết chữ cái : 18 em + Biết từ 3 - 5 chữ : 07 em + Nhận biết các chữ : 5 em Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện chưa chắc chắn, chính xác bảng chữ cái quá thấp nên dẫn đến kết quả học tập của học sinh sẽ không cao. Một trong những lí do dễ thấy là vì các em chưa được sự quan tâm của gia đình, các em chưa chăm chỉ học. Vì vậy, chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh. Biết lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức tiết học sao cho các em luôn cảm giác thoải mái thích thú, thích được tham gia học một cách tự nguyện không gò ép. Giáo viên phải gần gũi, yêu thương, động viên kịp thời để học sinh thích học. Nhận thức được Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng -8- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 điều này và thấy rõ được những khó khăn cơ bản tôi đã thực hiện một số biện pháp. Rèn kĩ năng đọc cho các em học sinh lớp 1 để các em có điều kiện học tốt cùng các bạn trong lớp. II. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc: Hiện nay ở Tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng phương pháp dạy học cụ thể là: Phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện đọc theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp. Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số kết luận sau: * Thời lượng rèn đọc có vị trí quan trọng ở Tiểu học. * Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc rèn đọc và nhiệm vụ chính của dạy đọc. * Trong giờ học môn Tiếng Việt giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em tự phát hiện ra cách đọc. * Trong giờ học nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến học sinh đọc chưa tốt vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm tiến độ của tiết dạy. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng -9- Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 Chương III ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận và thực trạng của việc dạy- học đọc hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy đọc ở Tiểu học. Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp rèn đọc để nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1. I. Biện pháp tác động giáo dục - Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đề nghị nhắc nhở con em đi học đầy đủ, yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học. - Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làm bài ở nhà của học sinh. - Đồng thời mượn đồ dùng học tập, sách cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. - Xây dựng đôi bạn cùng tiến. - Xây dựng nề nếp kiểm tra bài 15 phút đầu giờ của từng bàn sau đó tặng cờ thi đua cho các nhóm. - Cùng với tổ chuyên môn thảo luận về ý tưởng các biện pháp rèn đọc cho học sinh của mình. - Chuẩn bị bài dạy thật kĩ, có kiến thức phù hợp cho các đối tượng học sinh, lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp tạo hứng thú cho học sinh. - Trong quá trình rèn đọc giáo viên cần rèn luyện một cách linh hoạt các phương pháp khác nhau để phù hợp với đặc trưng của phân môn và phù hợp với nội dung của bài dạy. Quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc trước hết giáo viên phải sử dụng phương pháp làm mẫu. Nghĩa là giáo viên làm mẫu cho học sinh nghe, yêu cầu giọng đọc của giáo viên phải chuẩn, diễn cảm thể hiện đúng nội dung, ý nghĩa của bài học để học sinh bắt trước đọc theo. Sau đó giáo viên phải kết hợp phương pháp luyện đọc theo mẫu, luyện đọc đúng, đọc chính xác các phụ âm đầu, âm chính, âm cuối, dấu thanh. - Ngoài ra để phần rèn đọc đạt kết quả tốt thì cần phải có các yếu tố khác như cơ sở vật chất đầy đủ, đồ dùng học tập. Bên cạnh đó giáo viên phải luôn tích cực tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ năng lực. Nếu phối hợp các yếu tố trên sẽ giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Từ đó thể hiện được nội dung của bài học, thấy được cái hay, cái đẹp của cuộc sống qua từng bài học. II. Phần học các nét chữ cơ bản: Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học các nét chữ cơ bản. Tôi đã dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để cho Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 10 - Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái, kể cả các chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau. Ví dụ: Các nét chữ cơ bản và tên gọi. Nhóm 1 Nét sổ thẳng Nét ngang Nét xiên phải (giống dấu thanh huyền) Nét xiên trái (giống dấu thanh sắc) Nhóm 2 Nét móc xuôi (chữ l) Nét móc ngược (chữ n, m) Nét móc hai đầu (chữ h, p, ph) Nhóm 3 Nét cong hở phải (chữ c) Nét cong hở trái (chữ x) Nét cong kín (chữ o, ô, ơ) Nhóm 4 Nét khuyết trên (chữ h, l, b) Nét khuyết dưới (chữ g, y) Nét thắt (chữ b, v, r) Nét khuyết, có nét thắt ở giữa (chữ k) Tôi chuẩn bị những đoạn dây dù đủ màu sắc làm hình nét chữ để giới thiệu và khuyến khích học sinh cùng làm theo, giúp các em dễ thuộc các nét hơn vì đã được trải nghiệm. Cho học sinh đọc tên gọi các nét nối tiếp nhau, đọc xuôi đọc ngược nhiều lần để các em nhớ. Để khai thác vốn hiểu biết sẵn có và khắc sâu kiến thức của các em bằng cách tổ chức trò chơi:” Đoán nét chữ” trong hoạt động củng cố. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái và thu hút các em tập trung hơn. Ví dụ: Đố con, chữ a gồm có nét gì? Chữ a: nét cong kín và nét móc. Đố con, chữ gì có nét cong kín? Chữ o (ô,ơ). Tôi đã tuyên dương các em trả lời tốt bằng những bông hoa hay tràng pháo tay thật to. Vì các em rất thích được cô, thầy khen dưới mọi hình thức khi trả lời đúng, nhất là các em đọc chưa tốt hoặc đọc chậm đó là sự khích lệ rất lớn với các em. Đây là bài học đầu tiên trong phần Học vần nên cần tạo cho các em tâm thế học tập thoải mái, gần gũi, gây sự hứng thú. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 11 - Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 III. Phần học âm: Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm (chữ cái). Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Các em có nắm chắc từng chữ cái thì mới ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng đơn ghép lại với nhau tạo thành từ và thành câu. Giai đoạn này tôi dạy cho các em phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều kiểu viết khác nhau hay gặp trong sách báo như: chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó là: chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo các em dễ hiểu và không bị lúng túng. Ví dụ: Âm: a - a , g - g. + Âm a gồm hai nét: nét cong khép kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải; chữ a cũng gồm nét cong khép kín và nét móc ngược. + Âm g gồm : nét cong khép kín và nét móc dưới. Từ việc học kỹ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp học sinh phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm sau: d; b; p; q. Ví dụ: + Âm d gồm hai nét: nét cong khép kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải. Đọc là: “dờ”. + Âm b gồm hai nét: nét cong khép kín nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ở bên trái. Đọc là: “ bờ”. Sang phần âm ghép nghĩa là âm gồm hai âm đơn ghép lại với nhau. Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để nói lên được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó. Ví dụ : + Các âm ghép: c + h = ch , n + h = nh , t + h = th , k + h = kh , g + h = gh , ng + h = ngh. + Còn lại các âm: gi, tr, q, ng, tôi cho học thật kỹ cấu tạo và cách ghép chữ. + Phân từng cặp: ch – tr , ng – ngh , c – k , g – gh , nh – d để phát âm chính xác và viết chính tả phân biệt. Trong khi luyện phát âm tôi chú ý luyện phát âm đúng cho các em ở Hướng Phùng thường phát âm sai s với x, các dấu thanh. Ví dụ : Âm s thì kỉ thuật phát âm là uốn đầu lưỡi về phía vòm, hơi thoát ra xát mạnh, không có tiếng thanh – tôi làm mẫu nhiều lần cho các em, âm x thì khi phát âm đầu lưỡi tạo ra với môi răng một khe hẹp, hơi thoát ra xát nhẹ, không có tiếng thanh. Với phương pháp như vậy với các âm mà các em hay nhầm lẫn. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 12 - Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 Trong các tiết học, các bài học tôi luôn thay đổi hình thức kiểm tra các âm, chữ cái của học sinh thông qua trò chơi, các em tự đố nhau khi trò chuyện và lúc đó tôi cũng là một thành viên tích cực trong hoạt động này (Đặc biệt là các tiết ôn tập). Từ đó, củng cố thêm kiến thức về từ ngữ, câu văn cho trẻ tránh sự đơn điệu của các bài ôn tập trong sách. Một hình thức mà tôi cảm thấy rất tâm đắc đó là viết phiếu, có thể phiếu chỉ là một từ gồm 2 hoặc 3 tiếng cũng có thể là một câu văn. Song những từ và câu văn này phải có nghĩa và mang tính giáo dục và rất gần gũi với các em. Ví dụ: Trường, lớp, bạn, chăm học, ngoan ngoãn, học giỏi, bút chì, thước kẻ, bàn ghế, vở ô li, sạch sẽ, vệ sinh, bố mẹ, ông bà, anh chị, em bé, cô giáo, thầy giáo …… Lớp học của Lê rất vui. Ngày ngày, các bạn rất chăm học. Cô giáo Lê hài lòng lắm. Cả trong những khi kiểm tra bài có thể là bảng con cũng có khi là phiếu cho học sinh lên bốc thăm rồi đọc lên. Bảng và phiếu là những từ chỉ có âm, vần mới học xong, từ đó không lấy trong sách ra. Ví dụ : Muốn kiểm tra vần eo, ao thì tôi viết bảng con có các từ không có trong sách như: cái kẹo, theo dõi, chèo bẻo, kéo co, chào hỏi, cao to, bà lão,….tương tự như thế với các bài khác. Nếu học sinh đã thuộc mặt chữ rồi thì bất kỳ một từ mới nào các em cũng đọc được. Đến khi học sinh viết chính tả vào bảng con, tôi cũng không đọc cho học sinh viết những tiếng và từ đã có sẵn trong bài. Thông qua phần xây dựng tiếng, từ mới trẻ được hiểu biết thêm nhiều từ và ý nghĩa của các từ mà các em tìm được của hôm trước nay viết vào bảng. Do đó phong trào tìm tiếng, từ mới học sinh rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi nhiệt tình. Những đọan văn hay bài văn mang tính chất: - Cung cấp kiến thức về âm, vần, tiếng. Ví dụ: o a c d đ / \ ? ~ . giỏ đỏ có cà. - Cung cấp vốn từ, câu phong phú. Ví dụ: Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 13 - Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 U ư y n m l b Dì Ly là y tá ở tổ y tế. Bà Tư bế bé Lệ đi từ từ. Bố Tú đi mô tô đỏ. Mẹ Na mổ cá mè. * ng, ngh, nh, th. Má Nga là ca sĩ . Ba Tú đi xe mô tô về nhà cô Thu. Bé Nhã khệ nệ bê ghế gỗ gụ ra ngõ để bà nghỉ. Để rèn kĩ năng sống cho học sinh, thông qua hoạt động luyện nói tôi vận dụng các vần, tiếng, từ đã học để tạo thành những câu văn, đoạn văn có nội dung mang tính giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh theo chủ điểm các đợt thi đua như kỷ niệm các ngày lễ: 8/3, 26/3, 15/5, 19/5,20/ 11, 22/12... để xây dựng bài cho học sinh đọc và nói. IV. Phần học vần: Sang đến phần học vần, học sinh đã được học chữ hoa nên trong các đoạn văn hay bài văn tôi đã luyện cho học sinh biết nhận biết và đọc chữ hoa sau dấu chấm, các danh từ riêng tên gọi. - Bài: Ôn các vần có âm m cuối. am ăm âm om ôm ơm em êm im um. +Bà Tâm đã già quá nên đi lom khom. Khi bà bị ốm mẹ cho Thêm đến thăm bà và đem cam đến. Bà nhận quà và cảm ơn bố mẹ Thêm. Bà còn khen em lớn quá. +Hôm qua nghỉ học, mẹ cho Thêm đi xem thú.Thêm nhìn rõ chú nhím nằm thu lu bên mẹ nó . +Hôm nay trời rất rét, mẹ nhắc Nga đi học phải mặc thêm áo ấm. - Vì thường xuyên phân loại chất lượng học tập của học sinh nên tôi đã chia chất lượng của lớp ra làm 4 nhóm: + Nhóm đọc tốt + Nhóm đọc tương đối nhưng tốc độ còn chậm + Nhóm đọc được một số chữ, vần + Nhóm chưa đọc được . - Và phân công: + Nhóm đọc tốt kèm nhóm chưa đọc được. + Nhóm đọc tương đối nhưng tốc độ còn chậm – kèm nhóm đọc được một số chữ, vần. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 14 - Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 - Trong kế hoạch bài dạy tôi chuẩn bị các kiến thức phù hợp cho cả 4 đối tượng. Hàng ngày tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho nhóm học sinh đọc tốt. Những ngày đầu, tôi trực tiếp kiểm tra học sinh đọc tốt, biết được các em đã đọc trôi chảy, lưu loát rồi thì khi nhận được nhiệm vụ là các em sẽ kiểm tra bạn một cách chính xác. Từ những điều học sinh đọc tốt tiếp thu được các em sẽ in sâu và truyền thụ lại cho bạn. Lúc đó, nhóm học sinh đọc được một số chữ, vần và nhóm chưa đọc được dễ tiếp thu hơn. Bởi vì ông cha ta đã dạy: " Học thầy không tày học bạn ". Đúng thế trẻ dạy trẻ ngôn ngữ của trẻ dễ hòa đồng với nhau. Tuy nhỏ song trẻ cũng có lòng tự trọng thấy bạn hơn và lại dạy mình thì cũng phải cũng cố gắng học để đỡ thua kém bạn. Từ đó, chất lượng học sinh trong tương đối đồng đều. Song không phải giao phó hoàn toàn cho học sinh đọc tốt mà tôi vẫn thường xuyên kiểm tra và kèm cặp học sinh đọc được một số chữ, vần và chưa đọc được. nhằm củng cố cho các em về kiến thức một cách vững vàng hơn. V. Phần tập đọc: Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh đọc chưa tốt. Học sinh đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học sinh đọc chưa tốt các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ. VD: Dạy bài tập đọc Trường Em (sách giáo khoa Ttiếng Việt 1) * Học sinh chưa đọc được tiếng’’ trường’’, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng ‘’trường’’ bằng cách phân tích như sau: GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì? HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền. GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào? HS: trờ - ương – trương – huyền – trường. GV: Đọc trơn tiếng này thế nào? Hs: Trường. Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: Trường em. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 15 - Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 * Học sinh không đọc được tiếng trường GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường. GV: Vần ương gồm có mấy âm? HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng. GV: Vị trí các âm trong vần thế nào? HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau. GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương. HS: ươ- ng- ương, ương GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương. Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào? HS: Trờ - ương – trương- huyền – trường, trường Và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh. VI. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhằm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là vạn năng, giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh có kĩ năng đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học: * Phương pháp trực quan Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật, tranh ảnh tự nhiên hay việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu, đánh vần mẫu, đọc mẫu. Ví dụ : Khi dạy học sinh học âm l, giáo viên phải phát âm mẫu và cho học sinh quan sát khuôn miêng để các em ‘’bắt chước ‘’ phát âm mới đúng được. * Phương pháp đàm thoại, vấn đáp Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc. VD: - Chữ này là chữ gì? ( chữ a, o,b,c, d….) - Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?( chờ- anhchanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi ngày. * Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 16 - Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc chưa tốt để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh có kĩ năng đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối với học sinh kĩ năng đọc chưa tốt tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhều ở lớp cũng như ở nhà.” Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi đến tận chỗ ngồi của học sinh đọc chưa tốt để hướng dẫn đọc từng tiếng, từ học sinh chưa đọc được. Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi. Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp vv… để các em thích thú và cố gắng hơn. * Phương pháp học nhóm Ngay từ đầu năm học qua khảo sát, phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chưa tốt, em đọc tốt ngồi gần em đọc chưa tốt để giúp bạn học tập, ưu tiên những học sinh đọc chưa tốt được ngồi ở dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp. Trong từng giờ học lúc nào tôi cũng gọi các em đọc bài nhiều hơn những bàn học sinh khác, gọi đọc theo nhóm đôi ( trong cùng bàn ) để học sinh đọc chưa tốt đọc theo học sinh đọc tốt và học sinh đọc chưa tốt cũng được luyện tập nhiều hơn. * Phương pháp tổ chức các trò chơi Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia. VD Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúng Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường hay chọn các học sinh đọc chưa tốt để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng. Hay trò chơi Chỉ nhanh – Chỉ đúng Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh đọc tốt) đọc cho hai học sinh đọc chưa tốt chỉ vào âm, vần, tiếng, từ do bạn đọc. Trò chơi này học sinh rất thích và lớp học cũng sôi nổi. * Phương pháp nhận xét nêu gương. Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh đọc chưa tốt để giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn đọc tốt trong lớp. VD: Bạn Điểm, bạn Thu, bạn Hằng,bạn Nguyệt,… đọc tốt, học tốt vì các bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 17 - Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc tốt như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn : Đọc chưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi. VII. Những phương tiện dạy học: Trong từng tiết dạy môn Tiếng Việt, để giúp học sinh tích cực và ham học giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau: Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu. Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát tìm hiểu. Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo viên. Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy. Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học. Kết quả cụ thể lớp 1B: Kết quả - Giai đoạn Số học sinh đọc chưa tốt, đọc còn chậm (%) Số học sinh đọc đúng, đọc tốt (%) Đầu năm 83,3 % 16,7% Cuối học kì I 6,7 % 93,3% Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên tôi nhận thấy việc áp dụng một số biện pháp ở chương III vào việc rèn đọc cho học sinh lớp 1 đã nâng cao hiệu quả của giờ dạy, phát huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được sự hứng thú say mê của học sinh. Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 18 - Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1. Tôi thấy rằng đây là phương pháp và hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh vì khi thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hoàn toàn chủ động tự giác sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của quá trình dạy học hiện nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát triển sinh lý của học sinh lớp 1. Để học sinh đọc ngày càng tiến bộ hay có kĩ năng đọc tốt giáo viên cần áp dụng linh hoạt các biện pháp trong phần rèn đọc. Tuỳ từng bài giáo viên chọn các biện pháp phù hợp để làm sao đạt kết quả cao nhất. Muốn vậy người giáo viên phải làm được những công việc sau: Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt hạn chế của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập. Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham thích học, đọc bài. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giới thiệu tranh ảnh, trò chơi để học sinh hào hứng học tập. Lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi. Với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: Đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv… để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau. Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Tuy nhiên, đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em hàng ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau một năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. II. Kiến nghị Trên thực tế dạy học ở trường Tiểu học Hướng Phùng, tôi có một số đề xuất sau: Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng - 19 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan