Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1...

Tài liệu Skkn một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1

.DOC
17
338
118

Mô tả:

1. PHẦN MỞ ĐẦU 1. 1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm: Hoạt động đọc giúp con người thu nhận được lượng thông tin nhiều nhất, nhanh nhất, dễ dàng, thông dụng và tiện lợi nhất để không ngừng bổ sung và nâng cao vốn hiểu biết, vốn sống của mình. Trong nhà trường, thông qua hoạt động đọc giúp học sinh được mở rộng hiểu biết về thiên nhiên, về đất nước, về cuộc sống con người, về văn hóa, văn minh, phong tục, tập quán của dân tộc trên đất nước mình và trên thế giới. Đọc các tác phẩm văn học, học sinh được bồi dưỡng về năng lực thẩm mĩ, trau dồi kĩ năng sử dụng ngôn từ, mở rộng tầm hiểu biết về cuộc sống. Vì vậy việc đọc có ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và phát triển rất lớn. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người mà nhất là học sinh lớp 1. Đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kĩ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kĩ năng đọc có một vị trí quan trọng không thể thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học. Kĩ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao đó là trao cho các em cái chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo.…. Từ đó, các em có điều kiện học tốt các môn học học khác có trong chương trình. Ở lớp 1, các em bắt đầu làm quen với các kĩ năng : nghe, nói, đọc, viết,…. Kĩ năng đọc rất quan trọng, nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác, ở lớp 1 các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn, các em sẽ ham học, tích cực trong các hoạt động học tập. Chính vì vậy, việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh là một việc làm rất cần thiết. Với ý nghĩa đó, tôi chọn và viết sáng kiến “Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1” . Với mong muốn tìm ra những biện pháp phù hợp để nâng cao hơn nữa hiệu quả rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1. 1. 2. Điểm mới của sáng kiến: Mặc dù sáng kiến này đã có rất nhiều người nghiên cứu, áp dụng nhưng điểm mới của sáng kiến mà tôi đưa ra là: Nêu lên những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh từ kĩ năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài; nâng cao dần kĩ năng đọc hiểu từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Qua đó nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt 1- CGD. Thông qua kĩ năng đọc giúp các em có điều kiện tiếp cận và nắm bắt các môn học khác, từ đó tạo được động cơ và thái độ tự học, tự chiếm lĩnh tri thức,… góp phần hình thành nhân cách con người phát triển toàn diện. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng: a. Về phía giáo viên: * Thuận lợi: Bản thân đã được tập huấn chuyên sâu chương trình Tiếng Việt 1- CGD theo kế hoạch của Phòng Giáo dục của nhà trường nên đã tổ chức dạy đúng phương pháp, tuân thủ việc dạy học theo sách thiết kế TV1 - CGD. Bản thân nắm chắc tiến trình từng mẫu bài, dạng bài, dạy đúng mục tiêu của từng bài học, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và luôn trăn trở về việc tìm biện pháp dạy học Tiếng Việt 1 - CGD để đạt hiệu quả cao. Có ý thức trách nhiệm với học sinh, giảng dạy nhiệt tình, chữa bài nghiêm túc, khách quan, tỉ mĩ. Có ý thức vận dụng đổi mới phương pháp trong dạy học một cách linh hoạt, sáng tạo. * Khó khăn: Năm thứ ba thực hiện dạy chương trình Tiếng Việt 1 - CGD nhưng bản thân tôi đôi lúc vẫn còn lúng túng trong việc xác định phương pháp giảng dạy, kĩ thuật hướng dẫn học sinh đọc những vần, từ khó... sao cho hiệu quả nhất. Ba quyển sách thiết kế Tiếng Việt - CGD là ba quy trình khác nhau nên giáo viên mất khá nhiều thời gian trong việc nghiên cứu, đọc tài liệu cũng như tiếp cận phương pháp dạy học. Biên chế lớp học đông (34 em) nên giáo viên thực sự vất vả trong việc quán xuyến, hướng dẫn cho học sinh trong một tiết học. b. Học sinh: *Thuận lợi: Một số em đã biết tất cả các chữ cái khi vào đầu lớp Một. Học sinh có đầy đủ SGK và đồ dùng học tập. Đa số các em đều ngoan, lễ phép và biết nghe lời. Một số em tiếp thu nhanh (Đạt, Phước, Thanh Tâm, Quang, Mỹ Hoài, Mỹ Tâm,…). Phần lớn phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em. *Khó khăn: Bước vào lớp Một các em còn bỡ ngỡ, chưa làm quen được với việc học ở Tiểu học. Một số em còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn trong giao tiếp (Thành B, Vũ, Huy, Thành A,…). Một số em còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và chưa thực sự chú ý đến lời nói trong giao tiếp hàng ngày như: Bảo, Hải Dương, Đại Dương, Thành B, Vũ, Huy,…). Vốn từ của các em còn quá ít ỏi, việc hiểu nghĩa của từ còn hạn chế. Kĩ năng đọc, nói, viết, nghe chưa thực sự tốt. Hệ thống phát âm của một số em chưa hoàn chỉnh. + Cách phát âm của một số em theo thói quen (nghe người lớn phát âm và thực hiện lại). + Một số em có người thân hướng dẫn đọc trước theo chương trình hiện hành nên giáo viên gặp khó khăn trong việc sửa lại lỗi phát âm sai. + Lỗi về phát âm: sai phụ âm đầu tr/ch; s/x; p/b (Hải Dương, Huy, Vũ, Ngọc Hoài, Bảo,…), sai do phương ngữ “âm trờ đọc thành chờ”, “âm sờ đọc thành xờ”, “âm pờ đọc là bờ” (em Đại Dương, Bảo, Hải Dương, Thành A,…). * Ví dụ: “trà mi” đọc thành “chà mi”; “cá trê” đọc thành “cá chê”; “số ghế” đọc thành “ xố ghế”; “sẻ” đọc thành “xẻ”; “pô – li – me” đọc thành “bô – li – me”; “pa – nô” đọc thành “ ba – nô” + Lỗi về dấu thanh “thanh hỏi và thanh ngã” (Thảo Vy, Hà Vi, Oanh, Thành B, Lâm,…). * Ví dụ: “khe khẽ” đọc thành “khe khẻ”; “ngã ba” đọc thành “ngả ba”; “ngẫm nghĩ” đọc thành “ngẩm nghỉ”,… + Lỗi về “thanh sắc và thanh huyền” (Vũ, Thành B, Huy,…). *Ví dụ: “kha khá” đọc thành “kha khà”; “số ghế” đọc thành “số ghề”; “cá thu” đọc thành “cà thu”. + Lỗi về “thanh huyền và thanh sắc” (Thành A, Vũ,…). *Ví dụ: “trà mi” đọc thành “trá mi ”; “cà phê” đọc thành “cá phê”; “nhà ga” đọc thành “nhá ga”. + Sai phần vần: vần anh đọc thành ân; vần ân đọc thành âng; vần at đọc thành ac ; vần an đọc thành ang ( Hà Vi, Thành B, Vũ, Lâm,…). *Ví dụ: “nhà tranh” đọc thành “nhà trân”; “quả chanh” đọc thành “quả chân”; “nhà bạt” đọc thành “nhà bạc”; “lan man” đọc thành “lang mang”; “hoa ban” đọc thành “hoa bang”;… c. Về chương trình Tiếng Việt 1 - CGD * Ưu điểm: Học sinh học Tiếng Việt lớp 1- CGD phát huy được khả năng tối ưu (khả năng phân tích, tổng hợp, mô hình hóa) thông qua các hoạt động tự chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh được học kiến thức từ âm đến chữ và khắc sâu hoạt động ngữ âm, nắm chắc vị trí các âm trong một tiếng. Phương pháp dạy học mới khơi gợi tính sáng tạo, tự giác tiếp thu bài, tạo sự hứng thú giúp học sinh làm chủ kiến thức. Từ đó học sinh tự tin, mạnh dạn, biết hợp tác khi tham gia các hoạt động học tập và bước đầu có ý thức tự học. Học sinh đọc thông viết thạo, nắm chắc cấu tạo ngữ âm của tiếng, không tái mù, nắm chắc luật chính tả, có kĩ năng nghe để viết chính tả tốt. * Hạn chế: Lượng kiến thức nặng so với học sinh lớp 1 (VD: Ngay bài đầu tiên, nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết như dạng chính tả. Trong quá trình học, các em còn phải phân biệt được vần có âm chính; vần có âm đệm, âm chính; vần có âm chính, âm cuối; vần có đủ âm đệm, âm chính, âm cuối. Trước đây, học hết 8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép âm thành vần, thành tiếng. Nay hết 6 tuần đầu học sinh đã phải đọc những bài dài tới 30 tiếng, hay có bài học bốn, sáu vần đối với học sinh lớp một là quá nhiều. Một số từ ngữ khó phát âm và khó nhớ. *Ví dụ: “quềnh quàng” TV1 - T2 - Tr136 “khuýp khuỳm khuỵp” TV1 - T2 Tr132; “quằm quặm” TV1 - T2 - Tr 132; “đàn - ác - coóc - đê - ông” TV1 - T2 -Tr113; “quàu quạu” TV1 - T2 - Tr140;… Nhiều từ ngữ không gần gũi nên học sinh khó nhớ, có một số từ ngữ không có nghĩa hoặc nghĩa không mang tính giáo dục. *Ví dụ: từ “quái quỷ” TV1- T2 – Tr65 ; “gớm ghiếc” TV1- T2 - Tr117; “ăn quỵt” TV1 - T2 - Tr97; “kèn cựa” TV1- T2- Tr91; “ghen ghét” TV1 -T2 - Tr90; “kênh kiệu” TV1 - T2 - Tr131;… d. Khảo sát kết quả đọc của học sinh đầu năm: Tổng số học sinh Nhận biết được tất cả các chữ cái Nhận biết được một số chữ cái Không nhận biết được chữ cái nào 24 em 6 14 4 2.2. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 Từ những thực trạng trên và qua giảng dạy hằng ngày tôi đã nghiên cứu đưa ra một biện pháp khả thi nhất để rèn đọc cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả cao, cụ thể: 2.2.1. Hình thành các kĩ năng và động lực học tập Đối với những tiết học đầu tiên (đặc biệt là tuần 0) tất cả đều mới mẻ, lạ lẫm với các em. Giáo viên cần xác định được mọi thao tác, mọi tư thế, cách đọc, nói, giao tiếp,… được hình thành trong giai đoạn này là hết sức quan trọng. Vì nó rất bền vững và theo suốt các em trong cuộc đời học tập, công tác. Những thao tác, những thói quen, tư thế tác phong đúng, đẹp sẽ rất có lợi lâu dài và ngược lại. Bởi thế rèn luyện các thao tác, động hình, tư thế ở tuần 0 phải hết sức chuẩn mực, rõ ràng, dứt khoát (không sai, không thừa, nhẹ nhàng nhưng không khoan nhượng). Để cho tuần học đầu tiên được diễn ra nhẹ nhàng, hấp dẫn, thực sự làm cho các em cảm thấy “ Đi học là hạnh phúc”; “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” đòi hỏi giáo viên phải đa dạng hóa việc tổ chức dạy học. Đặc biệt cần coi trọng việc tổ chức các trò chơi để củng cố kĩ năng và kiến thức. Giáo viên không chỉ đọc kĩ các trò chơi trong sách thiết kế mà còn phải tìm hiểu nhiều trò chơi khác, cải tiến luật chơi, cách chơi để học sinh thấy mới lạ, hứng thú tham gia chơi tích cực. Điều quan trọng không thể thiếu là giáo viên phải hướng dẫn học sinh làm quen và thực hiện theo các kí hiệu học tập. Bản thân đã sử dụng các kí hiệu để hướng dẫn học sinh như sau: “B” học sinh lấy bảng; “S” học sinh lấy sách giáo khoa, kí hiệu theo 4 mức độ “ to - nhỏ - nhẩm - thầm (vẽ 4 hình vuông theo bốn mức độ); N2 hoạt động đọc hoặc thảo luận nhóm đôi,…”. GV chỉ dùng nam châm gắn vào các kí hiệu đã viết sẵn trên bảng lớp, học sinh quan sát và thực hiện theo. * Ví dụ: Ở bài học “Tách lời ra từng tiếng” giáo viên đưa ra câu thơ”: Tháp Mười đẹp nhất bông sen Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ. Để giúp học sinh đọc được và học thuộc câu thơ trên, mặc dù các em chưa biết chữ cái. Giáo viên dùng các vật liệu như: mô hình hình tròn, hình vuông, nam châm, nắp bia, viên sỏi, …mỗi một hình vuông, hình tròn, nam châm, nắp bia, viên sỏi thay thế cho một tiếng trong câu thơ, sau đó cho học sinh luyện đọc theo cá nhân, nhóm, lớp. Khi học sinh đã nắm được các kí hiệu giáo viên chỉ giao việc 1 lần, câu lệnh hoặc kí hiệu phải rõ ràng đảm bảo 100% học sinh nghe và hiểu. Khi giao việc giáo viên đứng vị trí thích hợp để quan sát tất cả học sinh trong quá trình thực hiện. Việc rèn đọc cho học sinh không thể thiếu hướng dẫn tư thế cầm sách: khi đứng đọc (tay trái cầm giữa thân quyển sách theo chiều dọc, tay phải giữ ở góc phải dưới của quyển sách, mắt cách quyển sách 25cm đến 30 cm; khi ngồi đọc sách để trên mặt bàn, tay trái giữ mép bên trái của sách, ngón trỏ tay phải chỉ dưới chân chữ theo từng tiếng cô giáo hoặc bạn đọc). Khi đọc phải to, rõ ràng, đủ cho cả lớp nghe. 2.2.2. Hướng dẫn cách phát âm, đánh vần, phân tích vần Đối với học sinh lớp 1 kĩ năng đọc đúng là quan trọng nhất. Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, giáo viên cần phải so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (môi - răng - lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi…) vì thế những học sinh thường gặp khó khăn khi phát âm một số âm như: tr/ch; s /x; n/ng; d /gi; b/p; (em Vũ, Thành B, Thành A, Hải Dương, Huy,..) đã nắm và phát âm chính xác. Khi dạy kĩ năng đọc chúng ta phải chú ý quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp và phải dạy theo nhóm trình độ của học sinh. Hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm chuẩn. Nếu học sinh đọc đúng, đọc tốt thì giáo viên dành cho luyện đọc nâng cao (đối với HS năng khiếu). Động viên và giao nhiệm vụ cho các bạn cùng giúp bằng cách không trêu ghẹo, không đùa nghịch mà tạo cơ hội cho bạn sửa chữa. Giáo viên phải kiên trì liên tục và có hệ thống. Thông thường các em đọc sai rất ngại đọc vì sợ các bạn chê cười, chế nhạo,... Giáo viên phải giải toả tâm lí cho học sinh bằng những lời khen, lời động viên dù nhỏ. Đồng thời phải giải thích cho các em cùng hiểu, để cùng thông cảm, chia sẻ, giúp đỡ bạn đọc tốt hơn. *Về phần âm: Giáo viên phải phát âm chuẩn để học sinh phát âm theo. Chỉ phát âm một lần, nhưng phải rõ ràng, chính xác. Đối với các em còn chậm, cần quan tâm chú trọng đến các em nhiều hơn. Nếu các em phát âm sai, giáo viên phải phát âm lại 2 3 lần, để giúp các em sửa chữa và nắm được, nắm chắc các âm đó. Dạy cho học sinh phát âm đúng, tôi không quên rèn kĩ năng nghe. Ở đây giọng đọc của giáo viên rất quan trọng, giữa nghe và phát âm có mối quan hệ rất chặt chẽ cho nên rèn luyện kĩ năng nghe cũng hỗ trợ rất nhiều cho kĩ năng đọc. Lỗi học sinh còn phát âm sai do 2 nguyên nhân: + Nguyên nhân chủ quan: như nói lắp, nói ngắn lưỡi, khó đọc do tật bẩm sinh. Ví dụ: s/x sẻ/xẻ; sả/xả; sò/xò; sơ sơ/xơ xơ;... + Nguyên nhân khách quan: do cách phát âm của phương ngữ địa phương tạo cho các em thói quen nghe và nói từ khi nhớ. +Ví dụ: vần /ân / đọc thành vần /anh/; “cân bàn” đọc thành “canh bàn”; có em đọc vần /anh/ thành vần /ân/ ; “đi nhanh” đọc thành “đi nhân”; “để dành” đọc thành “ để dần”;... Để sửa lỗi phát âm sai tôi dùng biện pháp giảng giải trên cơ sở lí thuyết ngữ âm và ý nghĩa từ. Hướng dẫn học sinh luyện đọc lại từ ngữ phát âm sai ngay lúc đó nhiều lần. + Khi học sinh phát âm sai giáo viên phát âm lại và yêu cầu những em sai thực hiện theo yêu cầu. + Có thể gọi học sinh đọc tốt hướng dẫn bạn. Hướng dẫn học sinh phát âm âm “d” và “gi”: + Khi phát âm âm d: đầu lưỡi hơi thụt vào trong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt khoát. + Khi phát âm âm gi: đầu lưỡi gần chạm chân răng, lưỡi hơi ép sát lợi trên, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở miệng cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể kéo dài. Hướng dẫn cách phát âm âm “tr và ch”; “s và x”. + Khi phát âm âm tr, s: phần đầu lưỡi chạm vào hàm trên, lưỡi uốn lên. + Khi phát âm âm ch, x: phần lưỡi không uốn lên, phần đầu lưỡi chạm vào chân răng. + Giáo viên làm mẫu chậm (hoặc gọi những học sinh có năng khiếu phát âm), yêu cầu học sinh phải quan sát kĩ để phát âm theo. *Ví dụ: trả /chả (trả giá/giò chả); sấu/xấu (cá sấu/xấu xí);... - Hướng dẫn học sinh nắm được đó là nguyên âm hay phụ âm (thông qua việc phát âm), để đưa tiếng vào mô hình, phân tích tiếng đúng. Tránh nhầm lẫn khi đưa tiếng vào mô hình (phần đầu là phụ âm, phần vần bao giờ cũng là nguyên âm). *Ví dụ: tiếng /da/ d a Phụ âm Nguyên âm * Về phần vần: Để học tốt phần vần của Tiếng Việt lớp 1 - CGD, trước hết các em phải nắm chắc năm kiểu vần và cơ chế đánh vần, phân tích vần. Nắm chắc mẫu vần để khi đưa tiếng vào mô hình, phân tích tiếng không bị nhầm, sai. Mẫu 1: Vần chỉ có âm chính. a Mẫu 2: Vần có âm đệm và âm chính (không có âm cuối). o a Mẫu 3: Vần có âm chính và âm cuối. a n Mẫu 4: Vần có đủ âm đệm, âm chính và âm cuối. o a n Mẫu 5: Vần có nguyên âm đôi iê (ia, yê, ya), uô (ua), ươ (ưa). Nắm chắc cơ chế đánh vần, phân tích các thành phần trong vần, tiếng, giáo viên hướng dẫn học sinh đánh vần gồm các bước sau: Ví dụ 1: Học vần /en/ biết vần /en /gồm có 2 âm, âm e đứng trước, âm n đứng sau. + en /e /- /nờ/ /en/; âm chính e và âm cuối n. e n âm chính âm cuối + Đối với tiếng có thanh ngang thì đánh vần kết hợp đọc và làm động tác tay học sinh sẽ dễ dàng nhận biết các thành phần của tiếng. Ví dụ 2: Đọc tiếng “ban” thì hai tay vỗ vào nhau; tách âm đầu “b” đưa tay trái ra ; tách vần “an” đưa tay phải ra; nhập tiếng lại “ban” hai tay vỗ vào nhau. Khi đó học sinh sẽ phân tích được tiếng ban (gồm âm đầu b, vần an, thanh ngang). Ví dụ 3: ban /bờ /- /an/ /lan/ b a n + Đối với các tiếng có thanh sắc, huyền, ngã, nặng, hỏi phải thực hiện các bước: (hướng dẫn học sinh đọc kết hợp vỗ tay giống như tiếng thanh ngang). Bước 1: Tạm thời tách thanh ra để lại tiếng thanh ngang Bước 2: Đọc tiếng thanh ngang Bước 3: Trả lại thanh Ví dụ 4: Khi đọc, phân tích tiếng /bàn / đánh vần là “ /bàn/ /ban/ /huyền/ - /bàn/”; âm đầu /b/, vần /an/, thanh huyền. Đọc kết hợp làm động tác tay “bàn” hai tay vỗ vào nhau, đọc “ban” đưa tay trái ra, đọc phần thanh huyền đưa tay phải ra, đọc “bàn” hai tay vỗ vào nhau). + Đối với những học sinh chậm tiến nếu các em không đọc được, thì chúng ta cần chia nhỏ ra nữa. Ví dụ 5: Tiếng /bàn/ các em không đọc được, thì cho các em đánh vần ra: /bàn/ /ban/ - /huyền/ - /bàn/, nếu không đọc được nữa, cho học sinh phân tích tiếng /ban/ /bờ/ - /an/ - /ban/, không đọc được nữa thì gợi mở cho các em đọc vần /an/ /a/ - /nờ/ /an/ hoặc nhớ lại các nét cơ bản cấu tạo nên /b/ và /an/. Nắm được cơ chế đó các em sẽ đọc được dù bất kể tiếng nào. Riêng vần có đủ các thành phần (mẫu 4) có hai cách đánh vần như sau: Ví dụ : Vần /oang/ + Cách 1: /oang / /oa /- /ngờ/ /oang/. + Cách 2: /oan/ /o/ - /ang/ /oang/. Cách đánh vần có chứa nguyên âm đôi (iê, ươ, uô) + iê : /yên/ /yê /- /nờ/ /yên/. + ươ ; /ương/ /ươ/ -/ngờ/ /ương/. + uô ; /uông/ /uô/ - /ngờ/ /uông/. 2.2.3. Giáo viên làm mẫu, đọc mẫu phải chuẩn xác Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn coi thầy, cô giáo của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo. Các em thích mình giống như thầy cô và người lớn. Các em thường “bắt chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ, chữ viết, …Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe giọng nói của giáo viên. Vì vậy giáo viên cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai từng bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải phát âm chuẩn xác. Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không khéo léo, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nên nhàm chán và không phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương pháp này khi thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh dù qua hướng dẫn, không thể tự mình phát âm đúng. Khi vận dụng phương pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn luyện cho các em biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn (nghe tiếng phát âm và quan sát môi, miệng, lưỡi của cô). Như thế học sinh sẽ phát âm đúng và dễ dàng hơn. Khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình môi” nhằm hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác hơn. Nếu học sinh chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc phát âm sẽ không đạt hiệu quả cao, vì trong môn Tiếng Việt 1- CGD việc quan sát môi khi giáo viên phát âm là rất quan trọng. Hướng dẫn học sinh xác định nguyên âm và phụ âm: + Khi phát âm các nguyên âm: phải há miệng, luồng hơi đi ra tự do, có thể kéo dài. + Khi phát âm các phụ âm: phải ngậm miệng lại, bật môi cho luồng hơi thoát ra, luồng hơi đi ra bị cản, không thể kéo dài được. Bằng cách phát âm đó học sinh dễ nhận biết nguyên âm, phụ âm. Nhìn miệng bạn phát âm để nhận biết và nhận xét. Hướng dẫn học sinh xác định nguyên âm tròn môi và nguyên âm không tròn môi. + Khi phát âm các nguyên âm tròn môi (môi tròn). + Khi phát âm các nguyên âm không tròn môi (môi không tròn). Học sinh sai vần “at” đọc thành “ac” hoặc “ac” đọc thành “at”: “bờ cát” đọc thành “bờ các”; “tê giác” đọc thành “tê giát” giáo viên cần hướng dẫn như sau: + Vần /ac/: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi. + Vần /at/: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. Học sinh sai lẫn dấu thanh (thanh nặng, thanh sắc, thanh huyền, thanh hỏi, thanh ngã). + Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu. + Những tiếng có thanh sắc: đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngắn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) học sinh có thể dễ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao. + Những tiếng có thanh ngã đọc hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng. + Tiếng có thanh hỏi đọc dứt khoát, rõ ràng, không kéo dài, có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên. + Đưa tiếng vào từ cụ thể để học sinh phân biệt: Ví dụ: đổ/đỗ hướng dẫn học sinh phân biệt “đổ rác” với “hạt đỗ”; ngả/ngã hướng dẫn học sinh đọc để phân biệt “ngả ba / ba ngã”. Hướng dẫn phân biệt vần “an và ang”. + Vần /an/: khi phát âm đầu lưỡi chạm vào chân răng. + Vần /ang/: khi phát âm đầu lưỡi hơi thụt vào trong. Ví dụ: bàn /bàng; phân biệt “cái bàn” với “quả bàng”; làn/làng – phân biệt “cái làn” với “làng quê”. Không những dùng lời nói để hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng đọc, giáo viên còn sử dụng những kí hiệu (động tác tay, vẽ kí hiệu ở phía trên góc trái của bảng lớp, …). Khi giáo viên đưa ra kí hiệu học sinh thực hiện, như vậy tạo cho học sinh kĩ năng quan sát, tập trung trong giờ học thành thói quen thường xuyên. Ví dụ: + Yêu cầu học sinh đọc theo bốn mức độ (to, nhỏ, nhẩm, thầm) giáo viên không dùng lời nói chỉ gắn nam châm vào kí hiệu để tất cả học sinh thực hiện. (Giáo viên vẽ kí hiệu các ô vuông thể hiện các mức độ): To nhỏ nhẩm thầm + Yêu cầu đọc đồng thanh (Giáo viên thực hiện động tác đưa hai tay từ trong ngực ra phía trước). + Yêu cầu đọc nhóm đôi (giáo viên chỉ dùng nam châm gắn vào kí hiệu N ở bảng lớp). 2.2.4. Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh Rèn tính kiên trì cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng. Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lòng kiên trì, học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen. Ví dụ: “Em đã đọc được rồi đấy, em cố gắng lên nhé”; “Em đã đọc tốt hơn rồi, em cần cố gắng thêm tí nữa”; …Được động viên như vậy, học sinh sẽ không nản lòng vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm được…Từ đó học sinh sẽ quyết tâm hơn. Trong số những học sinh phát âm sai, có một phần nhỏ học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình nên chỉ phát âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen nên phát âm không chuẩn xác. Với những học sinh này, giáo viên phải thật nghiêm khắc. 2.2.5. Khuyến khích học sinh phát hiện và điều chỉnh lẫn nhau Hoạt động dạy - học luôn luôn được thực hiện trong mối quan hệ tương tác: giáo viên với học sinh, học sinh với giáo viên, học sinh với học sinh. Một tiết học diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở nên đơn điệu, không phát huy được tích cực, chủ động của học sinh, đồng thời bầu không khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên, người giáo viên cũng không thể hiện rõ được vai trò là người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm tòi, lĩnh hội kiến thức. Trong quá trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, giáo viên luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Giáo viên cần chú trọng việc rèn đọc cho các em có kĩ năng nghe - nhận xét - sửa sai giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết học trở thành một thói quen, tạo nền nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Ví dụ: Khi dạy bài 2: Âm (TV1 - CGD - T1; Tr19) yêu cầu học sinh thực hiện nhóm đôi phát âm âm a và b, từ đó hai em cùng quan sát nhau cách phát âm nhận biết hình môi, luồng hơi để phân biệt phụ âm và nguyên âm. Nói cho nhau nghe cách phát âm hoặc học sinh có thể sửa sai cho bạn. Trong quá trình dạy học tôi còn tổ chức thi đọc thông qua một số trò chơi “Thả thơ, chèo thuyền, bắn tên,…) nhằm rèn tính mạnh dạn, tự lập, sáng tạo cho các em. Học sinh biết chia sẻ và sửa sai cho bạn khi nghe bạn đọc. Qua các trò chơi nhằm gây hứng thú, kích thích, khơi dậy niềm say mê học tập của các em. Các em chậm tiến học tập cách đọc của các bạn, xem bạn là tấm gương để mình phấn đấu vươn lên. 2.2.6. Luyện đọc đúng, đọc hay Đối với chương trình Tiếng Việt 1 - CGD quyển tập 1 không yêu cầu giải nghĩa từ và tìm hiểu nội dung bài đọc. Sang quyển tập 2 - 3 học sinh đọc, giải nghĩa một số từ và kết hợp tìm hiểu nội dung bài đọc. Nên yêu cầu quan trọng nhất đối với TV1 - CGD là học sinh đọc được âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài. Học sinh nắm âm để tìm và ghép vần, ghép âm với vần tạo thành tiếng. Chương trình TV 1 - CGD khác với chương trình hiện hành yêu cầu học sinh vẽ mô hình tiếng, đưa tiếng vào mô hình, đọc trơn, đọc phân tích. Cũng chính từ việc đọc phân tích nên học sinh nắm chắc cấu tạo của âm, vần, tiếng. Đọc đúng giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Đọc đúng giúp các em nói, viết, sử dụng ngôn từ một cách trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú. Từ chỗ đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn tiến tới cho học sinh đọc được mức độ cao hơn (ngắt, nghỉ đúng nhịp, vần thơ, câu văn, đọc cao giọng, nhấn giọng để biểu đạt cảm xúc,...). Hướng dẫn học sinh đọc theo từng từ, cụm từ để luyện đọc từng câu chứ không đọc từng con chữ, từng chữ rời rạc. * Đọc thể thơ: Ví dụ 1: + Đọc bài “Con cò mà đi ăn đêm''; TV1 - T3/Tr58 + Hướng dẫn để học sinh phát hiện được cách ngắt, nghỉ như sau: đối với dòng thơ 6 chữ ngắt theo nhịp 2/4; dòng thơ 8 chữ ngắt theo nhịp 4/4. Con cò /mà đi ăn đêm / Đậu phải cành mềm / lộn cổ xuống ao.// Ví dụ 2: + Bài ''Con gà cục tác lá chanh”; TV1 - T3/Tr37 + Học sinh đọc và phát hiện được cách ngắt như sau: đối với dòng thơ 6 chữ ngắt theo nhịp 2 /2/ 2; dòng thơ 8 chữ ngắt theo nhịp 4/4. Con gà / cục tác / lá chanh / Con lợn ủn ỉn / mua hành cho tôi.// Ví dụ 3: + Bài “Ò…ó…o”; TV1 - T3; Tr26. + Giáo viên hướng dẫn đọc nối tiếp vắt dòng với nhau. Ò...ó…o/ Ò…ó…o// Tiếng gà/ Tiếng gà// Giục quả na/ Mở mắt/ Tròn xoe// * Đọc văn xuôi: Ngoài việc hướng dẫn đọc đúng từ, cụm từ, ngắt hơi sau các dấu phẩy, nghỉ hơi sau dấu chấm. Cuối câu hỏi học sinh phải biết lên giọng, nhấn giọng những từ để hỏi. Ví dụ 1: + Bài “Đêm qua con nằm mơ” TV1 - CGD - T2/Tr105, giáo viên hướng dẫn để học sinh phát hiện cách đọc câu hỏi cần nhấn giọng ở từ để hỏi, lên cao giọng ở cuối câu. + Ô hay, làm sao mẹ lại biết con đánh mất cái gì, ở đâu mà tìm? Nếu câu có dấu chấm cảm ta phải đọc thay đổi giọng theo đúng ngữ cảnh và tình cảm của câu. Ví dụ 2: + Bài “Cái mũ” TV1- CGD - T2/Tr93 + Kia kìa! Mũ ở trên đầu bố kìa! Giáo viên dẫn dắt để học sinh biết ngắt, nghỉ hơi đúng ở một số câu dài giúp các em dễ hiểu nội dung câu, đoạn văn; biết đọc cao giọng ở cuối câu có dấu chấm cảm để biểu đạt được cảm xúc khi đọc. Ví dụ 3: + Bài ''Cáo và Mèo''; sách TV1- CGD; tập 3/Tr56; hướng dẫn để học sinh phát hiện cách ngắt, nghỉ như sau: Cáo cứ loay hoay, / mãi vẫn chưa tìm ra cách thoát thân /thì đã bị chó săn tóm gọn.// Thà có một cách chắc chắn, /hơn là có hàng trăm cách /mà khi cần thì lại chẳng dùng được cách nào.// * Đọc văn vần: Học sinh đọc văn xuôi đã khó, đọc văn vần lại càng khó hơn. Khi đọc văn vần cần chú ý tiết tấu của đoạn văn. Tiết tấu là nhịp điệu của âm, ở sách Tiếng Việt lớp 1 có nhiều thể văn vần chúng ta thường gặp như: thơ lục bát, thơ đường, thơ 5 chữ, thơ 4 chữ, thơ tự do. Ở đây không phải thể thơ nào cũng giống nhau nên phải thay đổi theo tiết tấu của câu để ngắt, nghỉ hợp lí. Đọc đúng, đọc hay, đọc rành mạch nắm được ý cơ bản của bài văn, bài thơ, bài đồng dao, đọc lưu loát và bước đầu có thể đọc diễn đọc diễn cảm bằng đọc thành tiếng và đọc thầm, đọc chữ in và đọc chữ viết. Tôi chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn cho từng học sinh, kết hợp hình thức đọc theo nhóm để nhiều học sinh được tham gia và tham gia nhiều lượt đọc trong một tiết học. Xen kẽ đọc đồng thanh để tạo không khí lôi cuốn học sinh chậm tiến, học sinh hay rụt rè vào hoạt động học. Đảm bảo toàn bộ học sinh được tham gia luyện đọc và càng được đọc nhiều lần càng tốt (tùy theo bài để chọn cách đọc). 2.2.7. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng Việt mà tôi luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học khác, trong hoạt động tập thể… Bởi vì những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất, những lúc này các em thường nói tiếng địa phương, nói lóng,... Vì thế bản thân tôi thường xuyên quan sát, để ý đến các em, phát hiện những lỗi phát âm, cách dùng từ chưa đúng, để kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn, sử dụng tiếng phổ thông khi nói dù ở bất cứ nơi đâu. 2.2.8. Tuyên dương, khuyến khích học sinh Thường xuyên kiểm tra đánh giá kết hợp với biện pháp tuyên dương, khuyến khích các em, từ đó các em rất hứng thú, vui vẻ, tạo được không khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất tôi cũng dùng những lời động viện để khuyến khích các em (VD: “Em đã phát âm đúng, cố lên em nhé”, “Em đã có tiến bộ hơn rồi, cô khen em”...),…. Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tôi còn khen cả những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn, hứng thú với công việc đó hơn. 2.2.9. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo môi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các em chưa hiểu cách phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương (rượu - riệu; nếu - niếu; hươu - hiêu; hưu – hiu; hữu – hĩu; nêu – niêu,...). Đối với những trường hợp trên, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương. Với một số em cá biệt về phát âm, bản thân tôi đã gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên để phụ huynh hướng dẫn thêm con em lúc ở nhà. Ngoài ra tôi còn trao đổi phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi trường giáo dục cho các em khi ở nhà. 2. 3. Kết quả đạt được qua các đợt khảo sát như sau: Các đợt khảo sát TSHS Giữa HKI 24 Cuối HKI 24 Giữa HKII 24 MỨC ĐỘ ĐỌC ĐẠT ĐƯỢC Điểm 9 -10 Điểm 7- 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % 5 9 11 20.8 37.5 45.8 6 6 7 25.0 25.0 29.2 8 6 5 33.4 25.0 20.8 5 3 1 20.8 12.5 4.2 Cuối HKII 24 13 54.2 7 29.2 4 16.6 0 0 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng: Dạy đọc có ý nghĩa rất quan trọng trong dạy Tiếng Việt 1 - CGD. Đầu tiên học sinh phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ để học các môn học khác. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập tốt. Tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Chính vì vậy, để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả. Giáo viên cần đưa ra những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh từ kĩ năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài; nâng cao dần kĩ năng đọc hiểu từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Qua đó nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt 1- CGD. Để đảm bảo mục tiêu bài học trong quá trình dạy học người giáo viên cần phải dạy cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, quan sát, phân tích, đặt vấn đề và lập kế hoạch giải quyết vấn đề, rèn cho học sinh tính kiên nhẫn, lòng say mê học tập, tạo hứng thú cho học sinh. Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu sâu thiết kế, ... Phải hết sức linh hoạt, sáng tạo trong dạy học. Thực sự có lòng yêu nghề mến trẻ, không ngại khó, ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo, tìm tòi cái mới, cái hay để dạy. Có được như vậy bài dạy sẽ thành công. Trên đây là một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh bản thân tôi đã vận dụng trong quá trình dạy học. Tôi tin rằng với kinh nghiệm nhỏ bé của mình không những góp phần vào việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1của trường đang giảng dạy mà có thể vận dụng được với các trường dạy chương trình TV1 – CGD. Tuy nhiên trong thực tế việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 chắc hẳn còn có nhiều biện pháp và việc làm cụ thể đem đến cho học sinh những giờ học hay hơn, thú vị hơn. Rất mong sự đóng góp và bổ sung của đồng chí, đồng nghiệp và cấp trên để sáng kiến của tôi được hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả tốt nhất.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan