Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 36 tháng...

Tài liệu Skkn một số biện pháp rèn nề nếp thói quen cho trẻ 24 36 tháng

.DOC
17
399
88

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KỈ THUẬT ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN NỀ NẾP THÓI QUEN CHO TRẺ 24-36 THÁNG” Lệ Thuỷ, tháng 9 năm 2018 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN CẢI TIẾN KỈ THUẬT ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN NỀ NẾP THÓI QUEN CHO TRẺ 24-36 THÁNG” Họ và tên: Nguyễn Thanh Thuỷ Chức vụ: Giáo viên Đơn vị: Trường mầm non Công ty cổ phần Lệ Ninh Lệ Thuỷ, tháng 9 năm 2018 I. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài: Để thực hiện tốt mục tiêu của xã hội và mục đích của Đảng ta là: “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh” thì trước hết nhiệm vụ của Giáo dục phải Đào tạo ra được những “con người mới xã hội chủ nghĩa” và con người đó phải được phát triển toàn diện. Chính vì lẽ đó mà sự nghiệp giáo dục của những năm gần đây đã được toàn xã hội quan tâm và chú trọng hơn. Đặc biệt là giáo dục Mầm non, là hệ thống đầu tiên của Giáo dục quốc dân. Nó là nền tảng đầu tiên trong suốt quá trình giáo dục đào tạo “Con người mới xã hội chủ nghĩa”. Để thực hiện tốt những mục tiêu cơ bản của mình thì ngành học Mầm non phải không ngừng đổi mới và phát triển về mọi mặt cả về số lượng lẫn chất lượng, cơ sở vật chất cũng như nội dung chăm sóc giáo dục trẻ. Như chúng ta đã biết, giáo dục là một trong những nhiệm vụ quan trọng và cần thiết. Muốn thực hiện được nhiệm vụ to lớn này thì trước hết phải kể đến vai trò của gia đình. Vì gia đình là sợi dây của tình yêu thương chăm sóc và kích thích đầu tiên của trẻ. Cha mẹ là người “Thầy” đầu tiên và quan trọng nhất. Mỗi nhà giáo dục, mỗi một cô giáo là người mẹ thứ hai của con trẻ thì phải làm thế nào để hình thành cho các cháu bước đầu có một đức tính tốt để sau này trẻ trở thành một Công dân tốt. Là một giáo viên mầm non được phân công phụ trách nhóm trẻ 24-36 tháng, ở độ tuổi này trẻ còn rất bé nhưng đặc điểm sinh lý của trẻ thì lại phát triển rất mạnh. Do vậy, trẻ dễ bị tổn thương về tâm lý, tôi nhận thấy rằng: “Việc đưa các cháu vào nề nếp, thói quen” để tham gia mọi hoạt động trong ngày của trẻ là một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong suốt quá trình phát triển của các cháu. Vì trẻ độ tuổi này chưa tách rời bố mẹ, gia đình, những người thân của bé nên khi mới đến trường, nhập lớp trẻ thường biểu hiện thái độ sợ hãi, mọi thứ quanh bé đều lạ lẫm, tránh né bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo, thậm chí còn la khóc, không ăn, không ngủ hoặc không tham gia vào mọi hoạt động trong nhóm, có thể trẻ dường như không hoà nhập vào tập thể. Vậy! Làm thế nào để nhanh chóng đưa trẻ vào nề nếp, thói quen ngay từ những ngày đầu? Những ngày mà trẻ không muốn rời xa vòng tay yêu thương của bố mẹ đến với cô giáo và các bạn. Theo tôi nghĩ, đây không phải là vấn đề trăn trở của riêng tôi mà là của tất cả các đồng nghiệp nói chung. Từ các cơ sở nêu trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 24-36 tháng” làm sáng kiến cải tiến kỹ thuật năm học 2018-2019. Điểm mới của đề tài sáng kiến cải tiến kỉ thuật: Có thể thấy đây là đề tài được nhiều người quan tâm nên đã có nhiều đồng nghiệp nghiên cứu về lĩnh vực này, song mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau của việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ để phù hợp với tình hình thực tế ở đơn vị. Đối với sáng kiến cải tiến kỉ thuật của tôi, bản thân tôi đã suy nghĩ tìm hiểu về thực trạng của từng trẻ. Từ đó nghiên cứu nhằm tìm ra những biện pháp giúp trẻ có được những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực và kiến thức. Đồng thời, hình thành và phát triển nhân cách tốt nhất cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng, tự tin hơn. Muốn thực hiện những mục tiêu trên thì vấn đề rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ nhà trẻ phải được chú trọng thường xuyên, liên tục và không ngừng được đổi mới. Trước hết phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp. Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng nắm bắt về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ. Động viên khuyến khích trẻ và nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi. Rèn luyện bằng tình cảm giữa cô và trẻ. Tăng cường làm thêm nhiều đồ dùng đồ chơi đẹp, tạo môi trường học tập cho trẻ. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với gia đình. Vì vậy, cô giáo phải thường xuyên bồi dưỡng, thường xuyên được tiếp thu đầy đủ các chuyên đề, tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để thực hiện việc chăm sóc- giáo dục trẻ 1.2. Phạm vi áp dụng sáng kiến cải tiến kỉ thuật: Đề tài có thể áp dụng rộng rải cho đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục mầm non. Nội dung đề tài viết trên tinh thần tập hợp những kinh nghiệm đúc kết được của bản thân, chủ yếu là những biện pháp trong công tác quản lý nhóm, lớp, quá trình giảng dạy trên lớp, để nâng cao chất lượng trong các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tại trường mầm non nơi tôi đang công tác. Đối tượng chủ yếu là các cháu độ tuổi từ 24-36 tháng tại các nhóm/lớp của đơn vị. II. PHẦN NỘI DUNG: 2.1. Thực trạng của đề tài cần nghiên cứu: * Đặc điểm tình hình: Năm học 2018-2019, tôi được nhà trường phân công giảng dạy nhóm trẻ 24-36 tháng, với số lượng trẻ: 12 cháu trong đó có 8 cháu nữ, 4 cháu nam Để biết được nề nếp, thói quen ban đầu của trẻ, vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát kết quả cụ thể như sau Bảng khảo sát kết quả đầu năm về nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ Tổn g số trẻ Thói quen nề nếp đi học đều Thói quen nề nếp chào hỏi Thói quen cất đồ dùng đồ chơi 12 6/12 4/12 5/12 Thói Thói quen nề quen nề nếp nếp - giờ giờ ngủ ăn 5/12 4/12 Thói quen nề nếp giờ vui chơi Thói quen nề nếp học tập 5/12 5/12 Với kết quả như trên tôi đã mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu và thực hiện một số biện pháp rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ 24-36 tháng. Trong quá trình thực hiện tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn như sau: 1. Thuận lợi: Bản thân luôn nhận được sự quan tâm của cán bộ Chuyên môn Phòng giáo dục và Ban giám hiệu nhà trường cùng với sự lãnh đạo của địa phương và bạn bè đồng nghiệp. Bản thân tham gia tập huấn đầy đủ các chuyên đề, cập nhật thông tin kịp thời về đổi mới của cấp học mầm non, trong đó có chuyên đề lễ giáo, chuyên đề xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, chuyên đề phát triển vận động cho trẻ và các chuyên đề khác… 2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi tôi đã nêu ở trên, trong quá trình thực hiện, bản thân tôi gặp không ít những khó khăn nhất định như sau: Với đặc điểm sinh lý của lứa tuổi này lời nói đang phát triển, vì vậy khả năng giao tiếp về ngôn ngữ của trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Trẻ sống trong môi trường gia đình được nuông chiều, muốn gì được nấy, tất cả các cháu đều mới nhập học. Do đó, khi đến trường tất cả đều hoàn toàn mới, xa lạ với trẻ, trẻ chưa quen với nề nếp thói quen của lớp, tính rụt rè, nhút nhát, cá tính...còn nhiều ở trẻ. Lớp học chỉ một mình tôi đảm nhiệm với số lượng 12 cháu nên khi thực hiện tổ chức hoạt động còn gặp khó khăn trong bao quát trẻ. Một số phụ huynh nhận thức chưa đồng đều, cho rằng lứa tuổi này việc rèn luyện nề nếp, thói quen chưa quan trọng đối với trẻ. 2.2. Một số biện pháp rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 24-36 tháng 2.2.1. Biện pháp thứ nhất: Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp. Bên cạnh việc thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ là vấn đề trọng tâm thì cô giáo cần tiến hành tổ chức để đưa các cháu đi vào nề nếp thói quen ở mọi lúc, mọi nơi. Vì thế, mọi hoạt động trong ngày của trẻ tôi đều phải nghiên cứu, lập ra chương trình kế hoạch bồi dưỡng đối tượng theo sự phân nhóm và sắp xếp chỗ ngồi cho từng cháu một cách hợp lý: - Trẻ hiếu động cá biệt ngồi cạnh cô giáo để dễ quan sát. - Trẻ nhút nhát, chậm chạp ngồi cạnh trẻ mạnh dạn và nhanh nhẹn. - Trẻ khá ngồi cạnh trẻ trung bình. - Trẻ hay nói chuyện ngồi cạnh trẻ ngoan. Cô động viên khích lệ kịp thời sự tiến bộ đối với những trẻ hiếu động, cá biệt khi thấy trẻ ngoan hơn. 2.2.2. Biện pháp thứ hai: Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng nắm bắt về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ Luôn học tập và nghiên cứu các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết và “Quy chế nuôi dạy trẻ” của cấp trên đề ra để có kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn. Tham gia các buổi tập huấn chuyên môn do Phòng, Cụm liên trường và nhà trường tổ chức. Thường xuyên tìm tòi sách báo, nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan trọng của việc đưa trẻ vào nề nếp, thói quen trong học tập, trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Tham gia tốt các đợt thao giảng, dự giờ bạn đồng nghiệp để học hỏi thêm kinh nghiệm về việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho bản thân. Thường xuyên rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ phù hợp, đúng quy trình của độ tuổi. 2.2.3. Biện pháp thứ ba: Động viên khuyến khích trẻ và nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. Động viên, khuyến khích giúp cho trẻ thêm tự tin, hy vọng và có lòng tin để nhìn thẳng vào hoàn cảnh. Động viên cũng là một cách giúp đỡ rất hiệu quả làm cho trẻ tăng thêm niềm tin, tính kiên trì và chủ động. Khi động viên trẻ, tôi chú trọng đến các phương pháp như biểu dương, tán thưởng những thành tích trẻ đã đạt được và khuyên bảo tôi dùng lời lẽ khéo léo và thái độ tình cảm để thương lượng thuyết phục trẻ. Ví dụ: Tôi nói: “Con chịu khó nhé! Khi nào quen rồi thì con sẽ cảm thấy rất dễ dàng”. Tỏ rỏ lòng tin: Tôi tin là trẻ làm được công việc gì thì tôi kiên quyết hướng dẫn trẻ làm và tỏ ra cho trẻ thấy được là cô tin tưởng ở trẻ. Ví dụ: Tôi nói: “Con làm được đấy! Cô biết mà!” Thiết tha yêu cầu: Khi tôi muốn trẻ làm một công việc nào đó trong hoạt động hàng ngày của trẻ tại lớp học thì tôi yêu cầu trẻ một cách dịu dàng và có tính mời mọc. Ví dụ như nói: “Các con ơi, giúp cô với nào!” Trẻ ở giai đoạn này hay tò mò, thích bắt chước do đó mà tôi thường xuyên nêu gương tốt thông qua các hoạt động của trẻ diễn ra trong ngày. Tôi luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng khi khen trẻ. Khen và chờ cô tác dụng mạnh đến hành vi vâng lời của trẻ, do vậy tôi thường khen những gương tốt để trẻ bắt chước. Ví dụ: Cô khen những trẻ đi học ngoan, đúng giờ, mặc áo quần sạch đẹp, đầu tóc gọn gàng. Biết chào cô khi đến lớp, không khóc nhè. Nếu có trẻ đi học còn khóc nhè...thì cô có thể nói: “Lần sau con đi học ngoan, không uốn mẹ nữa để được cô khen giống bạn... nhé! Khi con ngoan không khóc cô thấy con xinh hơn đấy! Các bạn có thấy bạn... ngoan không nào!” Cô không nên chê trẻ trước tập thể lớp mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ về một số nề nếp chưa tốt hay trong lớp còn một vài cháu hay nhõng nhẽo, không nghe lời cô giáo do sự nuông chiều của ông bà, bố mẹ ... tôi dựa vào lúc có điều kiện để giúp trẻ có thể học tập, bắt chước gương tốt. Tôi đã tranh thủ cơ hội đó để thay đổi trẻ bằng mọi hình thức. Từ sự giúp đỡ của cô giáo mà tính nhõng nhẽo của trẻ mất dần. Được cô tạo điều kiện giúp đỡ, được rèn luyện mà trẻ đã thực sự hoà nhập vào nề nếp, khuôn khổ của tập thể lớp một cách thoải mái, dễ dàng và tự tin. 2.2.4. Biện pháp thứ tư: Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi. Hàng ngày, các cháu đến lớp với các nội dung hoạt động: Giờ ăn, giờ ngủ, vệ sinh, học tập vui chơi, giờ đón - trả trẻ...mọi sinh hoạt đều là những hình thức để trẻ được rèn luyện. Đối với độ tuổi này, để đưa các cháu vào nề nếp thói quen đâu phải là chuyện dễ và đơn giản, không chỉ là ngày một ngày hai mà cả một thời gian dài và liên tục. Thực tế các cháu còn rất bé chưa có ý thức được như các anh chị lớn tuổi, điều này cũng là thử thách cho cô giáo. Muốn tạo cho trẻ có được thói quen thường xuyên, cô giáo phải thực sự là người mẹ hiền thứ hai của con trẻ, phải luôn nhẹ nhàng, gần gũi, yêu thương trẻ, coi trẻ như con của mình để uốn nắn trẻ. Ngoài ra, thông qua các bài hát, bài thơ, câu chuyện...trò chơi có nội dung nói về nề nếp thói quen, tôi cũng có thể lồng ghép đưa vào mọi lúc, mọi nơi phần nào giúp trẻ liên hệ tới bản thân mà ngoan hơn, biết vâng lời cô giáo hơn, từ đó có thói quen nề nếp tốt hơn.. Ví dụ: - Rèn cho trẻ thói quen biết chào hỏi thông qua các bài hát như: Bé ngoan, Lời chào buổi sáng, Mẹ yêu không nào, Nu na nu nống; Thông qua bài thơ: Miệng xinh, Chào; Hoặc thông qua câu chuyện: Cháu chào ông ạ! - Thông qua bài thơ, bài hát giúp trẻ hình thành thói quen thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong như: “ Bạn ơi hết giờ rồi. Nhanh tay cất đồ chơi. Nhẹ tay thôi bạn nhé! Cất đồ chơi đi nào!” Hoặc: “ Giờ chơi hết rồi. Nào các bạn ơi! Ta cùng cất dọn Đồ dùng đồ chơi Vào nơi quy định.” - Qua bài thơ, bài hát, câu chuyện rèn cho trẻ thói quen khi ăn, khi ngủ như: Bài hát: Giờ đi ngủ. Bài thơ: Giờ ăn. Bài thơ: Giờ ngủ - Rèn thói quen vệ sinh cho trẻ qua bài thơ: “Rửa tay sạch” 2.2.5. Biện pháp thứ năm: Rèn luyện bằng tình cảm giữa cô và trẻ. Trẻ 24-36 tháng tuổi là giai đoạn khởi điểm của việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, các mặt phát triển hoà quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rỏ nét. Giai đoạn này cơ thể trẻ hoàn toàn còn non nớt, rất nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt, trẻ rất dễ tổn thương về mặt tâm lý, nhu cầu về cảm giác an toàn rất lớn. Do đó, muốn rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ thì ngay từ những ngày đầu trẻ mới vào lớp, cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được yêu mến, cảm giác được an toàn và là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Bên cạnh đó, quan hệ của cô giáo đối với trẻ phải giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ - con, là người thay mẹ dạy trẻ. Vậy hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt có sự sáng tạo, nhạy bén, kịp thời để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ. Hoạt động sư phạm của cô giáo phải luôn luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ có cảm tình, có hứng thú. Vì thế, nghệ thuật của cô thể hiện ở chỗ biết hoà nhập vào thế giới trẻ, biết quên mình là người lớn để trở thành người bạn thực sự của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, tạo nên không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ như thế trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô giáo một cách tự nguyện, thoải mái và vui vẻ. Đa số trẻ ở độ tuổi này chưa rời khỏi bàn tay ấp ủ, yêu thương của bố mẹ, gia đình và những người thân yêu quanh bé nên khi mới nhập lớp các cháu còn mang một tâm trạng lưu luyến nhớ bố mẹ và những người thân. Khi đến lớp quanh bé đều lạ lẫm, lúc này bé rất cần tình cảm sự âu yếm, nhẹ nhàng. Ví dụ: Những ngày đầu trẻ mới đến lớp còn bỡ ngỡ có khi trẻ còn khóc, tôi bế trẻ âu yếm vỗ về trò chuyện, hát đọc thơ cho trẻ nghe và cho trẻ xem tranh, kể chuyện qua tranh cho trẻ nghe. Thông qua nội dung các bức tranh với lời kể nhẹ nhàng đầy tình cảm cuốn hút trẻ vào câu chuyện để trẻ quên đi nỗi nhớ nhà, gây cho trẻ lòng ham muốn đến lớp được múa hát, vui chơi và được nghe cô kể chuyện Hay những buổi đầu trẻ ăn cơm tại trường, ngủ tại trường trẻ còn bướng bĩnh, uốn vặn. Tôi phải ân cần, dỗ dành bón từng thìa cơm, thìa cháo, ẵm và ru trẻ vào giấc ngủ. Ngày qua ngày, trẻ đã quen với giờ ăn thì tôi hướng dẫn, khuyến khích trẻ ngồi vào bàn tự cầm thìa xúc cơm ăn và giờ ngủ thì nằm vào đúng gối của mình để ngủ, khi ngủ dậy biết tự mình xếp gối vào tủ gọn gàng. 2.2.6. Biện pháp thứ sáu: Tăng cường làm thêm nhiều đồ dùng đồ chơi đẹp, tạo môi trường học tập cho trẻ. Trẻ mầm non nói chung và trẻ 24 -36 tháng tuổi nói riêng đến lớp trẻ được hoạt động dưới nhiều hình thức: “Học mà chơi, chơi mà học”, học ở mọi lúc mọi nơi. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ thì bản thân tôi không ngừng sưu tầm những nguyên vật liệu sẵn có để làm Đồ dùng, Đồ chơi đảm bảo tính thẩm mĩ, sáng tạo hấp dẫn, đảm bảo tính an toàn cho trẻ sử dụng hợp lý, phù hợp với nội dung, với độ tuổi. Đồ dùng, đồ chơi sắp xếp gọn gàng, vừa tầm với trẻ dễ thu hút trẻ vào hoạt động một cách thoải mái và vui vẽ. Ví dụ: Cháu mới nhập lớp đang còn khóc vì nhớ Bố, Mẹ, nhớ người thân...tôi có thể bế cháu đến các góc chơi cho trẻ xem tranh vẽ cảnh: Cô và các bạn đang xếp nhà cho Búp Bê. Để trẻ tập trung vào xem tranh mà quên đi nỗi nhớ nhà thì tôi có thể đàm thoại với trẻ, chỉ vào hình ảnh và hỏi trẻ: “Tranh vẽ về ai đây? Còn đây là ai? Cô giáo và các bạn đang làm gì? Con thấy các bạn chơi có vui không? Bây giờ, cô và con cùng chơi xếp nhà cho em Búp bê nhé!” Hoặc tôi có thể bế cháu đến đưa cho cháu chơi đồ chơi do chính tay cô làm ra như cái quạt điện làm từ hộp bạc hà, xê sũi, phim Xquang...rất gần gũi với trẻ, tôi hướng dẫn cháu chơi và trò chuyện với trẻ: “Cô bật quạt quay cho mát nhé! Cô đố con cái gì đây? Ở nhà con có quạt không? Quạt để làm gì ? Bây giờ, cô cháu mình cùng bật quạt ru em búp bê ngủ nhé!...” Từ việc chú trọng đến đồ dùng, đồ chơi trang bị cho trẻ hoạt động trong ngày giúp trẻ hứng thú hơn tăng phần tích cực, tạo cho trẻ có giờ hoạt động sinh động hơn và hứng thú hơn. Đây cũng là yếu tố góp phần quyết định chất lượng và khả năng tham gia hoạt động của trẻ đạt kết quả cao hơn. 2.2.7. Biện pháp thứ bảy; Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với gia đình. Thông qua các buổi Hội nghị cha mẹ học sinh đầu năm và hàng quý hoặc vào giờ đón - trả trẻ hàng ngày, cập nhật các thông tin trên bảng “Những điều cha mẹ cần biết”; Phụ huynh cùng sưu tầm tranh ảnh, những bài thơ, câu chuyện có nội dung giáo dục phù hợp; Đóng góp nguyên vật liệu cùng làm đồ chơi phục vụ cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt. Thường xuyên chú trọng tuyên truyền rộng rãi với các bậc phụ huynh về sự cần thiết của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ ở độ tuổi này. Từ đó, phụ huynh cùng phối hợp với giáo viên để trao đổi nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ, tìm nguyên nhân từ đó thống nhất biện pháp thích hợp, kịp thời uốn nắn, rèn luyện trẻ lúc ở nhà cũng như ở trường. Giúp việc rèn luyện nề nếp thói quen theo khoa học và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. 2.3. Kết quả đạt được: 1. Những kết quả bước đầu: Qua quá trình cố gắng và đưa hết khả năng của mình vào thực hiện các biện pháp rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ 24-36 tháng tuổi, cộng với sự ủng hộ của các giáo viên trong trường, cùng với sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, sự phối hợp của các bậc phụ huynh, gia đình cũng như các Ban - Ngành. Tôi đã sử dụng các biện pháp nói trên một cách hợp lý nên đến nay trẻ đã thực sự thích được đến lớp, có nề nếp tham gia vào các hoạt động, mạnh dạn và tự tin, biết làm một số việc đơn giản phục vụ bản thân, có thói quen chào hỏi, vâng lời bố mẹ và cô giáo...cụ thể: TT Nội dung 1 Trẻ có thói quen nề nếp đi học chuyên cần 2 Trẻ có thói quen chào hỏi, lễ phép và vâng lời 3 Trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh sạch sẽ, đúng nơi quy Số lượng 12/12 12/12 12/12 Tỷ lệ 100 100 100 4 định Trẻ có thói quen nề nếp biết ăn uống, sạch sẽ, tự 11/12 91,7 5 phục vụ bản thân Trẻ có thói quen nề nếp giờ ngủ nằm im lặng, biết lấy 12/12 100 6 và cất gối đúng nơi quy định Trẻ có thói quen nề nếp thu dọn đồ chơi sau khi chơi 12/12 90 7 xong Trẻ có nề nếp giờ học không nói chuyện, tích cực 11/12 91,7 8 tham gia vào hoạt động Trẻ có thói quen nề nếp giờ chơi không tranh giành 11/12 91,7 đồ chơi, không đánh bạn, đoàn kết với các bạn khi chơi Những kết quả đạt được ở trên không phải làm tôi mãn nguyện mà tôi sẽ lấy đó làm động lực thôi thúc mình cố gắng hơn nữa để rèn luyện nề nếp, thói quen cho con trẻ trong những năm học tiếp theo. * Bài học kinh nghiệm: Từ việc thực hiện áp dụng các biện pháp rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ ở nhóm 24-36 tháng, tôi đã thu được nhiều kết quả đáng phấn khởi. Qua đây, bản thân tôi cũng đã rút ra một số kinh nghiệm giúp rèn luyện nề nếp, thói quen ban đầu cho trẻ đạt kết quả tốt như sau: 1. Phân nhóm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp thích hợp. Đặc biệt quan tâm đến trẻ cá biệt không kỳ thị giữa trẻ này với trẻ khác. 2. Muốn rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ được tốt thì trước hết cô giáo phải không ngừng tự học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, thao giảng, dự giờ để đúc rút kinh nghiệm cho bản thân. Tìm tòi sách báo nghiên cứu và tìm hiểu thêm về tầm quan trọng của việc rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ nhà trẻ. 3. Động viên khuyến khích trẻ và nêu gương tốt thông qua các hoạt động trong ngày. Bản thân giáo viên luôn là tấm gương tốt, lời ăn tiếng nói phải mẫu mực, hành vi văn hoá. Khen chê đúng mực và biết tôn trọng trẻ. 4. Rèn luyện nề nếp thói quen thường xuyên trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi. Cô tạo mọi cơ hội cho trẻ được tự làm một số việc phù hợp với khả năng của trẻ. 5. Rèn luyện bằng tình cảm giữa cô và trẻ. Cô giáo là người bạn của trẻ khi vui chơi, là tình mẹ - con khi ăn, khi ngủ. 6. Tăng cường làm và sưu tầm nhiều đồ chơi đẹp có tính sáng tạo, gần gũi với trẻ và phù hợp với độ tuổi của trẻ. Thực sự yêu nghề mến trẻ, tận tâm, hăng say với nghề. 7. Tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với gia đình để tìm ra nguyên nhân và thống nhất cách dạy trẻ tốt nhất. III. PHẦN KẾT LUẬN: 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Giáo dục hiện nay là một trong những vấn đề đang được Đảng và Nhà nước ta chú trọng và quan tâm hàng đầu. Bởi vì đây là nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xă hội của đất nước. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đă nêu rỏ “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xă hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Ngành học mầm non là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân, giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách toàn diện. Chúng ta là cô giáo mầm non được Đảng và nhà nước giao trọng trách cho việc ươm những mầm non cho đất nước, chúng ta phải làm gì để sau này những chồi non có ích cho xã hội, cho gia đình. Chăm sóc và giáo dục các cháu thành người công dân tý hon trong tương lai. Chính vì vậy giáo viên là những người làm công tác giáo dục, thấy được những trọng trách cao cả của mình, là những lớp người đi trước, là ngọn đuốc thắp sáng dẫn đường cho thế hệ tương lai mai sau. Do đó cần phải tự vươn mình lên để xứng đáng và tự hào với nghề nghiệp của mình. Được Đảng và nhà nước hết sức quan tâm, mỗi người giáo viên cần phải phát huy phấn đấu hơn nữa về các mặt trình độ, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức cao đẹp của người giáo viên nhân dân. 3.2. Kiến nghị, đề xuất: * Đối với nhà trường - Tham mưu với lãnh đạo các cấp có sự hỗ trợ kinh phí mua sắm trang thiết bị, đồ dùng dạy học, đồ chơi cho các cháu. - Tổ chức một số chuyên đề trọng tâm về bồi dưỡng đội ngũ, đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện *Đối với giáo viên: - Xây dựng kế hoạch học tập nghiên cứu tài liệu để bồi dưỡng nâng cao trình độ cho bản thân. - Luôn rèn luyện trau dồi đạo đức tác phong nhà giáo, tâm huyết trách nhiệm cao với nghề. - Có ý thức học tập vươn lên, đổi mới hình thức học để đưa lại hiệu quả trong quá trình đào tạo bồi dưỡng. - Tranh thủ mọi thời gian để tham khảo nghiên cứu tài liệu vận dụng vào thực tiễn trong công tác. Trên đây là một số biện pháp của bản thân tôi trong quá trình thực hiện công tác giáo dục rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ tại trường mầm non. Từ kết quả của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ trong năm học 2018-2019 bước đầu có những hiệu quả tích cực đối với giáo viên. Bản thân thấy vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục học hỏi, tìm kiếm biện pháp, đúc rút kinh nghiệm ở các bạn đồng nghiệp, để tổ chức giảng dạy cho trẻ có kết quả tốt hơn, rất mong sự giúp đỡ của đồng nghiệp, hội đồng khoa học các cấp bổ sung để bản sáng kiến hoàn thiện hơn nhằm thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình. Xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG MẦM NON CÔNG TY CỔ PHẦN LỆ NINH HIỆU TRƯỞNG Nguyễn Thị Thu Nga XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT LỆ THỦY
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan