Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn một số biện pháp vệ sinh cá nhân cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi trường mầm non...

Tài liệu Skkn một số biện pháp vệ sinh cá nhân cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi trường mầm non

.DOCX
25
22
148

Mô tả:

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế phát triển mạnh. Tất cả vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc, của cộng đồng. Trẻ em hôm nay - thế giới ngày mai. Vậy việc bảo vệ chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của toàn xã hội và của mỗi gia đình. Sức khỏe là tài sản quý giá nhất của mỗi con người cũng như mỗi quốc gia, có rất nhiều các yếu tố liên quan mật thiết với nhau, tác động ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Hơn thế nữa chăm sóc sức khỏe cho trẻ thơ là việc làm hết sức cần thiết. Mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng đều có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc giáo dục hình thành ở trẻ một số nề nếp thói quen vệ sinh, hành vi văn minh và kĩ năng sống đơn giản ban đầu, góp phần tạo cơ hội cho trẻ sống, phát triển một cách khoẻ mạnh. Chăm sóc sức khỏe trẻ thơ là công việc của toàn xã hội. Trẻ em nếu được chăm sóc nuôi dưỡng đầy đủ sẽ ít ốm đau bệnh tật và phát triển tốt. Công tác chăm sóc giáo dục vệ sinh cá nhân trẻ trong độ tuổi mầm non là việc làm thiết thực nhằm giúp trẻ có nề nếp thói quen vệ sinh, phòng tránh bệnh tật, tăng cường sức khỏe, hình thành những kĩ năng sống cơ bản đầu tiên, góp phần tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai. Đối với trẻ mầm non việc giáo dục ý thức vệ sinh cá nhân nhằm giúp trẻ khỏe mạnh, có thói quen vệ sinh có hành vi văn minh và phòng chống bệnh tật là việc làm quan trọng và rất cần thiết. Việc làm này cần có sự kiên trì, tỉ mỉ của cô giáo, sự phối hợp rèn luyện thói quen cho trẻ của gia đình - nhà trường, sự đầu tư trang thiết bị chăm sóc vệ sinh và các điều kiện thuận tiện cho hoạt động vệ sinh của trẻ. 1 Không phải trẻ nhỏ nào cũng có thói quen biết rửa tay lúc bẩn, trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, biết đánh răng, rửa mặt đúng quy trình… Muốn tạo được thói quen cho trẻ thì nhiệm vụ của cô giáo là hết sức quan trọng. Cô giáo phải thường xuyên rèn luyện và tạo thói quen cho trẻ với nhiều hình thức. Quá trình thực hiện nội dung giáo dục và rèn luyện thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ ở trường mầm non đã được giáo viên năng động, sáng tạo, tìm tòi nhiều hình thức và phương pháp phù hợp để chuyển tải những nội dung và kĩ năng rửa tay bằng xà phòng, rửa mặt đến trẻ. Hiện nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường một mặt làm cho đời sống của con người được nâng cao, nhưng đó cũng có mặt trái của nó, đó là: khiến cho một số gia đình cuốn vào guồng quay kiếm tiền mà quên đi việc giáo dục, chăm sóc các con. Là giáo viên mầm non dạy lớp bán trú ngay từ những năm học đầu tiên thực hiện việc tổ chức bán trú ở trường mầm non, có một thực tế làm tôi luôn trăn trở đó là: Việc rèn thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ là một việc làm hết sức khó khăn. Xác định nhiệm vụ cũng như trách nhiệm nặng nề của mình, bản thân tôi lúc nào cũng canh cánh trong lòng phải làm thế nào để rèn được thói quen rửa tay, rửa mặt một cách tự giác và đúng quy trình.Với tinh thần trách nhiệm cao, lòng say mê nhiệt tình ham học hỏi. Nên tôi tự hỏi mình rằng: Phải làm gì? Làm như thế nào? Để đưa ra những biện pháp tối ưu nhất khi thực hiện chuyên đề. Từ những lý luận và thực tiễn trên với vai trò là một giáo viên mầm non tôi luôn băn khoăn làm thế nào để thực hiện tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Nhất là công tác giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ mẫu giáo, đặc biệt là trẻ mẫu giáo bé. Xuất phát từ những lý do đó tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi trường mầm non Kim Long ” để nghiên cứu. 2 Do khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên chắc chắn đề tài sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong các bạn đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo và hội đồng khoa học đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn. 2. Tên sáng kiến “Một số biện pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi trường mầm non Kim Long ” 3. Tác giả sáng kiến - Họ và tên: Nguyễn Thị Minh - Địa chỉ: Trường mầm non Kim Long, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. - Số điện thoại: 0976024419. 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Minh 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 12 tháng 9 năm 2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến 7.1.1. Nội dung lý luận của sáng kiến giáo dục vệ sinh cá nhân Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, chịu trách nhiệm chăm sóc, giáo dục trẻ từ 0-6 tuổi. Đây là giai đoạn đặt nền móng đầu tiên quan trọng của nhân cách con người. Nếu không làm tốt việc chăm sóc, giáo dục trẻ trong những năm này thì việc giáo dục lại hết sức khó khăn, phức tạp. Quán triệt nghị quyết TW Đảng, những năm gần đây giáo dục không ngừng đổi mới về nội dung, hình thức, phương pháp dạy học. Xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, ngành học mầm non cũng có những đổi mới cơ bản, tăng cường đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của trẻ, hình thành ở trẻ phẩm chất mạnh dạn, chú trong giáo dục hình thành các thói quen phù hợp với độ tuổi của trẻ, với yêu cầu của xã hội hiện đại và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. 3 Trẻ em từ 0-6 tuổi lớn và phát triển nhanh hơn bất kỳ thời điểm nào khác trong cuộc đời của một con người. Sự phát triển ở giai đoạn này tốt hay không phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố, trong đó vấn đề về giữ gìn vệ sinh cho trẻ là một trong những vấn đề thiết yếu của bậc học mầm non khi trẻ lần đầu tiên đặt chân đến môi trường gia đình thứ hai của mình. Ngoài ra, việc giữ gìn vệ sinh tốt sẽ giúp cho trẻ có thể lực tốt, hạn chế sự phát sinh của các dịch bệnh, hạn chế tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng do mất vệ sinh. Vì vậy cô giáo chủ nhiệm, người mẹ thứ hai của trẻ có vai trò rất quan trọng trong việc nuôi dưỡng và uốn nắn những đứa con của mình phát triển một cách khoẻ mạnh nhất và phù hợp với chuẩn mực vệ sinh chung của mọi người. 7.1.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 7.1.2.1. Thuận lợi Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của ban giám hiệu nhà trường. Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối khang trang. Khu vực vệ sinh cho trẻ luôn được khô ráo, sạch sẽ, thoáng mát. Trong lớp có góc tuyên truyền cho các bậc cha mẹ biết. Nhà trường đã trang bị đầy đủ đồ dùng vệ sinh cá nhân cho trẻ như xà phòng, khăn lau mặt, chậu đựng nước, bàn chải đánh răng, mô hình bàn chải... đủ cho từng trẻ. Trường đã có y tế học đường và có phòng y tế Bản thân là giáo viên có trình độ chuyên môn trên chuẩn, với nhiều năm công tác, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, luôn coi học sinh như chính con đẻ của mình. Bản thân cũng có không ít kinh nghiệm trong công tác chăm sóc, giáo giục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Các đồng chí giáo viên trong tổ luôn có tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đa số phụ huynh quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ. Phụ huynh có nhận thức về mục đích, yêu cầu của công tác giáo dục vệ sinh cá nhân 4 cho trẻ, tin tưởng và phối hợp tốt với giáo viên và nhà trường rèn luyện thói quen cho trẻ. 7.1.2.2. Khó khăn Trẻ còn quá nhỏ chưa nhận thức được tầm quan trọng của giữ gì vệ sinh cá nhân, trẻ hay quên, hay đòi nghịch với xà phòng và nước khi ra nhà vệ sinh. Mặt khác do nhận thức của phụ huynh còn hạn chế trong việc “vệ sinh cá nhân cho trẻ” phụ huynh không hiểu rõ các bệnh có thể lây nhiễm do vệ sinh kém. Khả năng tiếp thu kiến thức của trẻ còn hạn chế, thao tác của trẻ không đồng đều. Một số cháu chưa hề được đến trường, lớp và một số cháu còn quá nhỏ do sinh vào những tháng cuối năm. Khả năng nhận thức tư duy còn hạn chế. Về nhà các cháu vẫn được bố mẹ vệ sinh tay mặt cho và nếu có cho trẻ làm thì cũng làm chưa đúng các thao tác mà trẻ được học ở lớp. - 100 % phụ huynh sống bằng nghề làm nông là chính, do vậy điều kiện kinh tế còn khó khăn, ít có điều kiện quan tâm chăm sóc chu đáo đến con cái. Công tác phối kết hợp với với gia đình cùng thực hiện để tạo nề nếp, thói quen cho trẻ còn nhiều hạn chế. Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc rèn luyện thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ. Cơ sở vật chất trong khu vực vệ sinh của lớp đã có một số hư hỏng như vòi nước rửa tay, bệ nhà cầu hay bị tắc... Từ những kiểm tra nhận định, đánh giá trên, bản thân tôi đã suy nghĩ nếu có ý thức khắc phục để tìm ra những biện pháp cho phù hợp thì chắc chắn chất lượng của việc rèn luyện thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ được nâng lên rõ rệt. 7.1.2.3. Thực trạng * Đối với giáo viên 5 Một số giáo viên trong tổ chưa nắm được các nội dung cơ bản về giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Chưa thực hiện thường xuyên các hoạt động giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Chưa biết tích hợp các nội dung giáo dục vệ sinh cá nhân thông qua các hoạt động trong ngày. Tổ chức các hoạt động giáo dục vệ sinh còn cứng nhắc, máy móc, chưa thu hút trẻ tham gia. Chưa linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Đa số giáo viên chưa có kĩ năng tổ chức các hoạt động giáo dục vệ sinh cá nhân. Trình độ chuyên môn, kĩ năng tuyên truyền của giáo viên không đồng đều làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác truyền thông. Nội dung công tác phối hợp còn sơ sài, đôi khi thiếu tính thực tế và không phù hợp và chưa được cập nhật thông tin kịp thời dẫn đến hiệu quả chưa cao, chưa thu hút được sự quan tâm của các bậc phụ huynh. * Đối với phụ huynh Một số phụ huynh chưa phối hợp tốt với giáo viên trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân cho trẻ. Trình độ dân trí chưa đồng đều, một số phụ huynh mải làm kinh tế nên không quan tâm tới việc chăm sóc, nuôi dưỡng, hình thành thói quen vệ sinh cũng như giữ gìn vệ sinh cá nhân cho con cái. * Đối với trẻ Trẻ 3 tuổi đa số chưa từng thực hiện thao tác tự vệ sinh cá nhân cho bản thân mình. Các cháu vẫn còn được bố mẹ vệ sinh tay mặt cho và nếu có cho trẻ làm thì cũng làm chưa đúng các thao tác mà trẻ được học ở lớp. 6 * Qua nghiên cứu thực trạng đầu năm học của trẻ lớp tôi phụ trách tôi đã thu được kết quả sau: Biểu 1 Khảo sát trẻ lớp 3 tuổi A6 trường mầm non Kim Long (Tháng 9/2018) ST Nội dung giáo dục Tốt Khá T Số trẻ 0 % Số 0 trẻ 5/21 1 Trẻ có thao rửa tay 2 đúng kỹ năng. Trẻ có thao rửa mặt 3 đúng kỹ năng. Trẻ có thao đánh 2/2 4 răng đúng kỹ năng. Trẻ biết giữ gìn đầu 1 3/2 14, 1 3 2/2 9,5 tóc, quần áo gọn 5 gàng. Trẻ có ý thức vệ sinh cá nhân đúng thời 6 0 0 9,5 5/21 5/21 5/21 5/21 % Đạt yêu Chưa đạt cầu Số % yêu cầu Số % trẻ 23,8 8/21 38, trẻ 8/2 38, 23,8 8/21 1 38, 1 8/2 1 38, 23,8 8/21 1 38, 1 6/2 1 28, 23,8 7/21 1 33, 1 6/2 6 28, 3 1 6 38, 6/2 28, 1 1 6 23, 5/2 23, 8 1 8 23,8 8/21 1 điểm. Ý thức bảo quản đồ 5/2 23, dùng cá nhân ngăn 1 8 6/21 28,6 5/21 nắp. * Dựa vào kết quả khảo sát ta thấy: Phần lớn trẻ chưa có các thao tác, cũng như kỹ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân. Đa số các cháu chưa có kỹ năng rửa tay, rửa mặt, đánh răng đúng cách. Đa số các cháu chưa biết giữ gìn đầu tóc quần áo gọn gàng ngăn nắp. * Ngoài ra tôi cũng tiến hành khảo sát các cháu lớp 3 tuổi B trường mầm non Tam Dương, để biết được thực trạng nhận thức vấn đề giáo dục lễ giáo. 7 Biểu 2 Khảo sát trẻ lớp 3 tuổi B trường mầm non Tam Dương (Tháng 9/2018) ST Nội dung giáo T dục Tốt Số trẻ 2 1 Trẻ có thao rửa tay 2 đúng kỹ năng. Trẻ có thao rửa 3/3 3 mặt đúng kỹ năng. Trẻ có thao đánh 4 răng đúng kỹ năng. Trẻ biết giữ gìn 5 % Số 5,6 trẻ 8/36 8,3 10/3 6 4/3 11, 6 10/3 6 5/3 1 13, 6 14/3 đầu tóc, quần áo 6 9 6 gọn gàng. Trẻ có ý thức vệ 5/3 13, 13/3 6 9 6 thời điểm. Ý thức bảo quản 6/3 16, 10/3 đồ dùng cá nhân 6 7 6 sinh cá nhân đúng 6 Khá % Đạt yêu Chưa đạt cầu Số % yêu cầu Số % 22,2 trẻ 13/3 36, trẻ 13/3 36, 27,8 6 13/3 1 36, 6 10/3 1 27, 27,8 6 12/3 1 33, 6 10/3 8 27, 38,9 6 10/3 3 27, 6 7/36 8 19, 6 8 10/3 27, 6 8 11/3 30, 6 5 36,1 27,8 4 8/36 22, 2 9/36 25 ngăn nắp. Qua khảo sát thực tế 36 cháu trong độ tuổi 3-4 tuổi của lớp 3 tuổi B trường mầm non Tam Dương tôi thấy được trẻ cùng độ tuổi như các cháu lớp tôi phụ trách nhưng các cháu đều có những nhận thức về lễ giáo tốt hơn các cháu lớp tôi phụ trách. Do các cháu thuộc trường thị trấn nên khả năng giao tiếp cũng như nhận biết được các nội dung giáo dục lễ giáo của các cháu cũng được bố mẹ quan tâm hơn. Tuy nhiên tỉ lệ các cháu chưa đạt yêu cầu ở các nội dung giáo dục vẫn còn cao. 7.1.2.4. Nguyên nhân Do nhiều trẻ chưa qua lớp mẫu giáo 2 tuổi, trẻ chưa được trải nghiệm thực hành. 8 Chưa có biện pháp giáo dục trẻ phù hợp. Giáo viên chưa coi trọng việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ hàng ngày, việc tích hợp các nội dung giáo dục vệ sinh còn mang tính máy móc dập khuôn. Nhiều phụ huynh còn cho trẻ nghỉ học dài ngày. 7.2.Về khả năng áp dụng của sáng kiến Trước thực trạng trên, với trách nhiệm là một nhà giáo tôi nhận thấy cần phải có biện pháp để nâng cao chất lượng trong việc tổ chức giáo dục kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ. Qua nghiên cứu tôi thấy có rất nhiều biện pháp để giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ sau đây tôi xin đưa ra một số biện pháp mà bản thân đã áp dụng có hiệu quả. 7.2.1 Biện pháp 1: Tự học tập để bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng thực hành thao tác chăm sóc vệ sinh cá nhân cho trẻ. Bản thân tôi luôn xác định muốn rèn luyện cho trẻ mẫu giáo Bé có thói quen trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân thì việc làm đầu tiên là cô giáo phải có kiến thức chuẩn xác về kĩ năng thực hành, chính vì điều đó mà bản thân tôi luôn tìm tòi học hỏi các tài liệu có liên quan để nghiên cứu, qua tài liệu tôi đã tiếp thu được các quy trình đúng về rửa tay, rửa mặt, đánh răng…và áp dụng vào dạy trẻ. Thường xuyên tìm tòi trên mạng Interner những đoạn video có tính giáo dục cao về giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ để lồng ghép đưa vào các hoạt động dạy trẻ. Học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp các giáo viên trước đây đã từng đứng lớp Bé trao đổi những phương pháp cách làm để giúp trẻ nhanh ghi nhớ các thao tác vệ sinh cá nhân và thực hiện một cách tự giác. Sưu tầm các bài thơ, vè mang tính giáo dục vệ sinh cho trẻ như thông qua bài thơ:“Bé tập rửa mặt” sau đây: Một tay chẳng làm được Bé phải lau hai tay 9 Bắt đầu từ mắt này Lau từ trong ra nhé Nhích khăn lên các bé Lau sống mũi xuống đi Sau đó đến cái gì Cái miệng xinh của bé Cô cất giọng nhỏ nhẹ Làm thế nào nữa đây? Bé gấp đôi khăn ngay Lau hai bên má đỏ Gấp đôi một lần nữa Lau cái cổ cái cằm Mắt bé nhìn chăm chăm Kìa cô khen bé giỏi (Sưu tầm) Bên cạnh đó tôi đã có kế hoạch dạy trẻ thực hành rửa tay bằng xà phòng, rửa mặt thông qua lô tô vệ sinh và qua thực hành thực tế dưới hình thức hoạt động vui chơi, hoạt động lao động tự phục vụ, giúp cho trẻ ghi nhớ nhanh qua các bài thơ, bài hát…Tạo nề nếp thói quen cho trẻ bằng cách theo dõi, sửa sai thực hiện thường xuyên cho trẻ hàng ngày. Mặt khác tôi sưu tầm thơ, truyện, làm sách tranh có nội dung giáo dục vệ sinh ở góc thư viện đọc cho trẻ nghe, cho trẻ xem để trẻ biết các thao tác khi rửa tay, rửa mặt… Để trình độ chuyên môn của bản thân được vững vàng hơn, tôi đã tự nâng cao trình độ chuyên môn bằng nhiều hình thức: Bản thân tôi luôn xác định muốn rèn luyện cho trẻ có thói quen trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân thì việc làm đầu tiên là phải có kiến thức chuẩn xác về kĩ 10 năng thực hành, chính vì điều đó mà bản thân tôi luôn tìm tòi học hỏi các tài liệu có liên quan để nghiên cứu, qua tài liệu tôi đã tiếp thu được các quy trình đúng về rửa tay, rửa mặt, đánh răng...và áp dụng vào dạy trẻ. Thường xuyên tìm tòi trên mạng Interner những đoạn video có tính giáo dục cao về giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ để lồng ghép đưa vào các hoạt động ngoại khóa chotrẻ. Học hỏi kinh nghiệm ở đồng nghiệp các giáo viên, trao đổi những phương pháp cách làm để giúp trẻ nhanh ghi nhớ các thao tác vệ sinh cá nhân và thực hiện một cách tự giác. Cùng với việc nghiên cứu lý thuyết cũng như phương pháp giáo dục vệ sinh tôi đã mạnh dạn đăng ký một hoạt động hướng dẫn trẻ thực hành vệ sinh với đề tài “ Hướng dẫn trẻ 3-4 tuổi rửa tay đúng cách” để ban giám hiệu và các giáo viên dự giờ góp ý. Từ đó tôi rút ra kinh nghiệm cho bản thân về kiến thức cũng như kỹ năng thực hành vệ sinh cá nhân cho trẻ. Được sự hỗ trợ của BGH cấp phát một số tài liệu như: Bé giữ vệ sinh, hướng dẫn trẻ mầm non thực hành vệ sinh, lô tô vệ sinh nên tôi giành thời gian đọc và tham khảo để hướng dẫn cho trẻ, phụ huynh thực hành các thao tác vệ sinh và một số thói quen, hành vi văn minh cho trẻ một cách chính xác nhất. 7.2.2. Biện pháp 2: Giáo dục vệ sinh thông qua hoạt động giáo dục vệ sinh cho trẻ vào buổi chiều Hướng dẫn trẻ nhận biết đồ dùng vệ sinh cá nhân đây là việc làm cần thiết vào đầu năm học mới bởi việc nhận biết kí hiệu đồ dùng cá nhân đối với các cháu 3-4 tuổi là một vấn đề hết sức khó khăn vì trẻ còn nhỏ, mới đến trường lớp. Cho nên ngay từ những tuần học đầu tiên tôi xây dựng và tổ chức họat động “ Dạy trẻ nhận biết ký hiệu đồ dùng cá nhân”. Cùng với đó tôi thường xuyên quan sát, hướng dẫn trẻ nhận biết và làm quen kí hiệu của mình bằng cách: Tôi phân loại kí hiệu theo tổ, tổ con vật, tổ các loại quả, tổ đồ vật. Đồ dùng của trẻ để đúng nơi qui định theo tổ vừa giúp cô dễ nhớ kí hiệu vừa giúp trẻ có thói quen 11 ngay từ đầu. Các kí hiệu dễ nhận biết, đơn giản. VD: Quả cam, quả chuối, con chim, con mèo, xe đạp, xe ô tô, xe máy… Không chỉ tổ chức 1 hoạt động nhận biết ký hiệu đồ dùng cá nhân mà tôi còn tập cho trẻ nhận biết kí hiệu với nhiều hình thức khác nhau: Khi cho trẻ lấy cốc uống nước hay khăn rửa mặt tôi hỏi về kí hiệu đồ dùng có kí hiệu gì? Nếu trẻ nhầm tôi nhắc lại cho trẻ nhớ. Qua quá trình tập cho trẻ nhiều lần, lặp đi lặp lại thường xuyên, khi uống nước, khi lấy ly đánh răng, lấy khăn lau mặt…Trẻ nhớ kí hiệu của mình và cô cũng nhớ kí hiệu của trẻ. Khi trẻ lấy đúng đồ dùng thì trẻ mới thực hiện đúng việc vệ sinh, nếu trẻ không nhận biết được đồ dùng cá nhân thì nguy cơ lây lan các bệnh về mắt, răng miệng rất nguy hiểm. Việc dạy cho trẻ nhận biết kí hiệu đồ dùng đã khó khăn rồi. Nhưng việc dạy trẻ thực hành vệ sinh cũng không kém phần vất vả. Với hoạt động vệ sinh “rửa tay bằng xà phòng”, đối với trẻ 3-4 tuổi thao tác thật khó khăn không giống như trẻ lớn. Trẻ chỉ “ nghịch nước với xà phòng” không theo hướng dẫn của cô vì trẻ chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc rửa tay với xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Nên khi tổ chức hoạt động này tôi phải chuẩn bị rất kỹ các thao tác thực hiện cũng như đồ dùng phục vụ trẻ. Để thu hút sự tập trung chú ý của trẻ vào hoạt động trước hết tôi trò chuyện với trẻ, cho trẻ đọc bài thơ “ Cô dặn bé”. Trước giờ ăn Khi tay bẩn Phải rửa ngay Với xà phòng Bé ghi lòng Lời cô dặn. Tôi đặt những câu hỏi gợi mở cho trẻ trả lời: + Vì sao trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, tay bẩn phải rửa tay? 12 + Vì sao phải rửa tay với xà phòng? Tôi cho trẻ nói lên suy nghĩ của mình để trẻ ý thức và biết được tầm quan trọng của việc rửa tay với xà phòng. Tôi thực hiện mẫu cho trẻ quan sát 7 bước rửa tay 1 lần. Sau đó tôi phân tích thật tỷ mỉ từng thao tác rửa tay cho trẻ quan sát lại. Tiếp theo tôi cho trẻ thực hiện theo thao tác cùng cô cách rửa tay, rửa đúng quy trình, rửa thật sạch nhưng không bắn nước ra ngoài và tiết kiệm nước. 7.2.3. Biện pháp 3. Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày + Giờ đón trẻ: trao đổi với phụ huynh có trẻ chưa sạch sẽ gọn gàng khi đến lớp nhắc phụ huynh đem theo khăn lau đối với các cháu bị đau hay chảy nước mũi. Hoặc trò chuyện với trẻ lần sau đi học phải sạch sẽ gọn gàng; trò chuyện với trẻ về công việc hằng ngày sau mỗi buổi sáng thức dậy: Bé làm những gì ? Vì sao phải làm như thế ? và làm như thế nào? Trẻ chia sẻ những ý kiến của mình và cô nhắc nhở trẻ làm đúng. Không quên dặn trẻ cách giữ gìn vệ sinh các nhân như cắt ngắn móng tay, móng chân, rửa tay thường xuyên dưới vòi nước sạch. + Chơi ngoài trời: Dạo chơi sân trường tôi cho trẻ quan sát các hình ảnh tuyên truyền về vệ sinh ở góc tuyên truyền của nhà trường, cho trẻ trò chuyện sau đó cho trẻ cùng làm mô phỏng các thao tác thực hành cùng cô qua đó giúp trẻ ghi nhớ lâu hơn. + Giờ hoạt động học: Tôi lồng ghép công tác giáo dục vệ sinh vào các hoạt động học trong từng môn học tùy theo từng chủ đề. Ví dụ: Trong giờ hoạt động học có chủ đích tôi thường lồng ghép nội dung giáo dục vệ sinh vào những lúc cần thiết ( nếu được). VD môn GDAN, LQVH tôi thường sử dụng các bài hát, câu đố, bài thơ cung cấp kiến thức vệ sinh cho trẻ như: bài hát chiếc khăn tay, rửa mặt như mèo, tay ngoan tay thơm, vì sao mèo rửa mặt, tay xinh của bé, bàn tay sạch, khám tay,… Các bài thơ: giữ hàm răng 13 đẹp, tắm gội, cô dặn bé, bé tập rửa mặt, đi dép, rửa tay sạch, đôi bàn tay của bé, áo quần sạch sẽ,…hoặc qua những câu chuyện, kể chuyện theo tranh: VD: Kể chuyện theo tranh “ Mẹ tắm cho em bé” . Mục đích: Củng cố cho trẻ biết cách giữ gìn vệ sinh các bộ phận cơ thể: mắt, mũi, miệng, tay, chân. . Chuẩn bị: Tranh to và màu sắc đẹp “ Mẹ đang tắm cho em bé” Một số câu hỏi để hỏi khi trẻ xem tranh Một búp bê để minh hoạ . Tiến hành: Đọc cho trẻ nghe bài thơ “ Yêu mẹ” Cô hỏi trẻ ở nhà ai thường tắm cho các con? Cô cho trẻ xem tranh “Mẹ đang tắm cho em bé” và hỏi trẻ: Tranh vẽ gì đây các con? Mẹ đang làm gì? Bé đang làm gì? Sau đó cô kể cho cháu nghe câu chuyện theo sự sáng tạo của cô. Có thể kể như sau: Hôm qua chủ nhật, Thảo ở nhà chơi với chị, trời nắng mà tay chân bị bẩn, mẹ tắm cho Thảo, Thảo thích lắm. Mẹ lần lượt gội đầu, rửa mặt, kỳ cọ tay chân và toàn thân một cách nhẹ nhàng bằng nước mát rượi. Sau khi cô kể chuyện xong cô làm động tác minh hoạ: gội đầu, rửa mặt, kỳ cọ chân tay trên búp bê cho trẻ xem, rồi cho trẻ tập minh hoạ lại các động tác theo cô. Qua các bài thơ, bài hát, câu chuyện … trẻ có thêm một số kinh nghiệm và học được nhiều thói quen tốt. Ở chủ đề bản thân, môn khám phá khoa học: “Tìm hiểu về cơ thể của bé” hay “ Các giác quan” tôi lồng ghép giáo dục vệ sinh một cách nhẹ nhàng trên từng chi tiết . VD: Khi nói đến đôi tay thì giáo dục trẻ phải làm gì? Bảo vệ đôi chân thì phải làm thế nào? … chứ không giáo dục một cách chung chung trẻ sẽ mau quên. + Trong giờ chơi hoạt động góc: tôi thường cho trẻ chơi các trò chơi như: Rửa mặt cho búp bê, rửa tay cho búp bê, luôn nhắc nhở trẻ khi chơi xong phải cất xếp đồ chơi gọn gàng, rửa tay sạch sẽ. + Giờ ăn: Trước giờ ăn, tôi thường xuyên nhắc nhở và cho trẻ rửa tay có sự giám sát của cô, trẻ ăn xong đánh răng, vệ sinh cá nhân mới vào ngủ, không 14 những giáo dục trẻ vệ sinh bằng lời nói mà tôi còn tự sáng tác các bài thơ cho trẻ đọc từ đó trẻ hứng thú và nhớ lâu hơn. Ví dụ: Bài thơ: “Giờ ăn bé ngoan ” Trước khi ăn nhớ rửa tay sạch sẽ. Vào bàn bé nhớ phải thật ngoan Ăn cơm không đổ ra bàn Không nên nói chuyện cơm văng ra ngoài Giờ ăn bé nhớ phải ngoan Đến chiều bé đượng tặng ngay cây cờ + Hoạt động chiều: Khi trẻ ngủ dậy tôi không cho trẻ ra ăn ngay mà cho trẻ đi vệ sinh, sau đó cho trẻ rửa tay, rửa mặt sạch sẽ, ngậm nước muối cho tỉnh táo rồi sau đó mới ăn xế. Ngoài việc ôn luyện kiến thức tôi thường ôn luyện các thao tác vệ sinh như tập cho trẻ rửa tay, rửa mặt đúng cách …Đây là thời điểm tôi hướng dẫn lại cho trẻ kĩ năng thực hành vệ sinh một cách cụ thể theo quy trình. Từ đó giúp trẻ ghi nhớ các kĩ năng hướng dẫn trong ngày của cô giáo. Cho trẻ vệ sinh sạch sẽ để nêu gương. + Giờ nêu gương cuối ngày: tôi thường xuyên chú trọng và đưang giáo dục vệ sinh cá nhân vào nội dung tiêu chuẩn bé ngoan. Sau mỗi tuần nếu trẻ thực hiện tốt tiêu chuẩn đó thì thay đổi nội dung giáo dục vệ sinh khác một cách hợp lý.Nếu trẻ nào thực hiện tốt tiêu chuẩn trên và được cả lớp nhất trí thì sẽ được cắm cờ. + Giờ trả trẻ: trao đổi với phụ huynh giáo dục trẻ vệ sinh tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. 7.2.4. Biện pháp 4: Làm gương cho trẻ noi theo Ở lứa tuổi của trẻ luôn coi cô giáo là “thần tượng” của bản thân. Vì vậy mọi việc làm của cô giáo luôn được trẻ lưu tâm và để ý nhất. Trẻ hay bắt chước 15 lời nói, cử chỉ, điệu bộ, hành động của cô giáo bởi trẻ muốn mình là một phần giống như cô giáo. Cô giáo phải là tấm gương đầu để trẻ noi theo vì: Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước, đặc biệt là hay bắt chước người lớn mà trẻ yêu mến. Do đó trẻ có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Vì vậy cô giáo cần phải tự rèn luyện bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của lớp, nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu. Để trẻ làm tốt mọi thao tác vệ sinh cô giáo cần phải thực hiện thuần thục và duy trì thường xuyên công tác vệ sinh cá nhân ở trên lớp. Từ đó trẻ bắt trước và làm theo cô. Nếu như cô thực hiện sai lệch thì trẻ cũng sẽ làm sai giống như cô. 7.2.5. Biện pháp 5. Khen ngợi động viên trẻ kịp thời Ai cũng thích được khen đặc biệt là trẻ em. Khen ngợi, động viên kịp thời sẽ khiến các em có thêm động lực để thực hiện công việc và tạo được niềm tin vào khả năng của bản thân. Trong việc giáo dục vệ sinh cá nhân cô giáo và phụ huynh cần biết khen ngợi, động viên trẻ kịp thời. Khi trẻ làm đúng, và có ý thức vệ sinh sạch sẽ, cần khen ngay những lời biểu dương ngọt ngào, những phần thưởng mang ý nghĩa về tinh thần hơn là vật chất để khuyến khích, động viên trẻ. Khi trẻ làm một việc chưa tốt, người lớn cần tỏ thái độ không đồng tình, làm cho trẻ biết được như vậy là chưa đúng để trẻ không lặp lại những hành vi đó nữa. Trẻ nhỏ rất thích được khen và không muốn bị chê, nên chúng ta cần biết khêu gợi lòng tự hào đúng lúc đúng chỗ để hình thành những phẩm chất tốt đẹp, những hành vi đúng cho trẻ. Cô giáo dành thời gian, chú ý nhiều hơn đến những cháu cá biệt để có biện pháp giáo dục phù hợp, phải động viên khen thưởng sửa lại kịp thời cho trẻ nhằm kích thích những việc làm tốt, và hạn chế những hành vi xấu của trẻ. 16 7.2.6. Biện pháp 6: Tăng cường sự phối kết hợp giữa nhà trường với gia đình và trạm y tế. Trong việc chăm sóc giáo dục vệ sinh và sức khỏe trẻ thơ nhằm rèn cho trẻ thói quen vệ sinh văn minh bền vững cho trẻ, trước hết giáo viên phải làm tốt công tác tuyên truyền để các bậc phụ huynh nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân cho trẻ. Trong buổi họp đầu năm tôi đã tổ chức tuyên truyền đến bậc phụ huynh bằng nhiều hình thức. Ví dụ: Ngay từ đầu năm học họp phụ huynh tôi kết hợp tuyên truyền nội dung: “Yêu cầu phối hợp của cha mẹ trong việc chăm sóc cá nhân cho trẻ; tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh đôi tay và thao tác thực hiện (Quy trình rửa tay đúng thao tác)”. “Vì sao phải rửa mặt? Thao tác thực hiện?; Lợi ích của việc chăm sóc răng miệng; thao tác chải răng”. Phụ huynh ý kiến phản hồi với nội dung tuyên truyền của giáo viên, đồng thời trao đổi với giáo viên về thói quen vệ sinh của mỗi trẻ khi ở nhà từ đó giáo viên đưa ra ý kiến kết luận của buổi truyền thông. Tuyên truyền thông qua góc tuyên truyền của nhà trường, các lớp, giờ đón và trả trẻ: Yêu cầu các lớp phải tuyên truyền với nội dung phong phú và phải thay đổi thường xuyên, lựa chọn nội dung tuyên truyền phải hay, hấp dẫn, đẹp… thì tạo được sự chú ý cho phụ huynh. Qua những lần trao đổi trực tiếp và qua bảng tuyên truyền như vậy thì tôi thấy nhận thức của phụ huynh ngày cũng khác đi, phụ huynh đã chú ý nhắc nhở cháu khi ở nhà, dần dần thói quen của trẻ cũng được thiết lập. Điều đó thuận lợi cho giáo viên hơn trong việc giáo dục tạo thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ. Làm tốt công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường để thống nhất nội dung, phương pháp hướng dẫn vệ sinh, chăm sóc thân thể, từ đó hình thành thói quen thực hành vệ sinh ở trẻ. Thực hiện tuyên truyền qua góc trao đổi với phụ huynh của lớp: thực hiện khai thác triệt để tác dụng của tranh, tài liệu tuyên truyền; sáng tạo các mô hình đi kèm với nội dung tuyên truyền chăm sóc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Ngoài ra, cần có đủ đồ dùng, phương tiện đảm bảo 17 cho việc chăm sóc vệ sinh trẻ. Những đồ dùng phương tiện nên để đúng nơi quy định, thuận tiện và đảm bảo an toàn cho trẻ sử dụng. Nhấn mạnh vai trò nêu gương của người lớn trong gia đình, giúp trẻ được sống trong môi trường sạch sẽ, tạo điều kiện cho trẻ thực hành và ghi nhớ những điều đã học, từ đó sẽ hình thành những kĩ năng cần thiết cho trẻ trong cuộc sống Thường xuyên phối hợp với trạm y tế tuyên truyền các bệnh liên quan đến vệ sinh, cách phòng tránh. Hàng năm liên hệ với trạm y tế khám sức khỏe định kì nhằm phát hiện trẻ bị sâu răng, giun sán và một số bệnh khác để kịp thời và phối hợp với phụ huynh hướng dẫn giáo dục trẻ cách vi sinh răng miệng, vệ sinh tay sạch sẽ, không mút tay…. 8. Những thông tin cần được bảo mật - Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến - Cơ sở vật chất: Sự quan tâm hỗ trợ và đầu tư của Ban giám hiệu nhà trường, của phụ huynh học sinh về trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho chuyên đề. - Về nguồn nhân lực: + Có được sự đồng thuận, nhất trí, ủng hộ của các đồng nghiệp, phụ huynh học sinh trong lớp tôi phụ trách và sự hứng thú của trẻ. * Môi trường: trong lớp và ngoài lớp. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả Qua áp dụng những biện pháp trên vào việc giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ tại lớp 3 tuổi A6, tôi đã thu được những kết quả hết sức ngạc nhiên: 10.1.1. Đối với giáo viên 18 Giáo viên nắm chắc nội dung, phương pháp giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Biết cách tổ chức các hoạt động giáo dục vệ sinh cho cá nhân trẻ phù hợp với trẻ 3-4 tuổi và với thực tế của trường, của lớp. Lồng ghép nội dung giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày một cách phù hợp. Khẳng định được vị thế của mình trong trường cũng như đối với ngành học. 10.1.2. Đối với phụ huynh Các phụ huynh cũng biết được tầm quan trọng của việc giữ gìn vệ sinh cá nhân trẻ sạch sẽ và rửa chân tay, mặt như thế nào là đúng cách. Từ đó, nhiều phụ huynh đã rửa mặt, rửa chân tay sạch sẽ cho trẻ trước khi đưa tới lớp, móng chân, móng tay cũng được cắt sạch sẽ. Nhận thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức và kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ. Để ý hơn thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm hơn, nắm bắt được kế hoạch, nội dung giáo dục của trường cũng như của lớp. Không chỉ quan tâm đến việc học tập của con mà nhiều các bậc phụ huynh còn tham gia đóng góp kinh phí, ủng hộ nguyên vật liệu, ngày công trong việc xây dựng môi trường học, mua sắm cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi ở nhóm lớp phục vụ cho công tác rèn vệ sinh cá nhân cho trẻ. Phụ huynh rất yên tâm khi gửi con ở lớp, ở trường và cũng rất phấn khởi trước sự tiến bộ rõ rệt của con. 10.1.3. Đối với trẻ Sau khi áp dụng những biện pháp về giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ lớp tôi phụ trách, tôi thấy: Trẻ nhớ tuần tự các thao tác vệ sinh tay mặt. Nhớ và thuộc các bài thơ về vệ sinh để áp dụng trong các thao tác vệ sinh. 19 Tự rửa tay đúng lần lượt các thao tác thành thạo với dụng cụ vệ sinh và xà phòng. Biết vệ sinh tay mặt những lúc cần như lúc ngủ dậy, trước và sau bữa ăn, sau khi đi vệ sinh, khi tay mặt bẩn... Trẻ biết tự giác vệ sinh đúng thao tác khi ở trường cũng như ở nhà. * Kết quả cụ thể: Biểu 3 Khảo sát trẻ lớp 3 tuổi A6 trường mầm non Kim Long (Tháng 2/2019) ST Nội dung giáo dục Tốt Khá Đạt yêu Chưa cầu đạt yêu T Số % Số 47, trẻ 7/21 1 Trẻ có thao rửa tay trẻ 10/2 2 đúng kỹ năng. Trẻ có thao rửa mặt 1 9/21 6 42, 3 đúng kỹ năng. Trẻ có thao đánh 7/21 8 33, 4 răng đúng kỹ năng. Trẻ biết giữ gìn đầu 11/2 3 52, tóc, quần áo gọn 1 4 gàng. Trẻ có ý thức vệ 12/2 57, 1 1 thời điểm. Ý thức bảo quản đồ 10/2 47, dùng cá nhân ngăn 1 6 5 sinh cá nhân đúng 6 8/21 9/21 7/21 % Số % trẻ 33,3 4/21 19, 38,1 4/21 1 19, 42,8 5/21 1 23, 33,3 3/21 9 14, cầu Số % trẻ 3 7/21 33,3 2/21 9,6 7/21 33,3 4/21 19, 1 nắp. * So sánh giữa biểu 1 và biểu 3, chúng ta thấy rõ: Biểu 4 TT Nội dung So với đầu năm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan