Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho học s...

Tài liệu Skkn một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho học sinh thpt trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay

.PDF
35
638
119

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI PHÒNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC Mã số: ................................ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY” Người thực hiện : HÀ CÔNG CHÍNH Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục : ………………………………………… Phương pháp dạy học bộ môn: …………………….. Phương pháp giáo dục : ………………………………….. Lĩnh vực khác: .................................................................. Có đính kèm: Các sản phẩm không thể hiện trong bản in SKKN  Mô hình  Đĩa CD (DVD)  Phim ảnh  Hiện vật khác (các phim, ảnh, sản phẩm phần mềm) + Năm học 2014 - 2015 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO PHÒNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Đồng Nai, ngày tháng 05 năm 2015 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học 2014 - 2015 ––––––––––––––––– Tên sáng kiến kinh nghiệm: ““Giải pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên đề của các tổ bộ môn, cụm chuyên môn liên trường”. Họ và tên tác giả: TRẦN ĐÌNH VINH Chức vụ: Trưởng phòng Đơn vị: Phòng Giáo dục trung học, Sở GDĐT Đồng Nai Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác) - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: ............................. - Phương pháp giáo dục  - Lĩnh vực khác: .....................................................  Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị  Trong Ngành  1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây) - Có giải pháp hoàn toàn mới  - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có  2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây) - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả  3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây) - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt  Khá  Đạt  - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt  Khá  Đạt  - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt  Khá  Đạt  Phiếu này được đánh dấu X đầy đủ các ô tương ứng, có ký tên xác nhận của người có thẩm quyền, đóng dấu của đơn vị và đóng kèm vào cuối mỗi bản sáng kiến kinh nghiệm. NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN (Ký tên và ghi rõ họ tên) Hà Công Chính XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN (Ký tên và ghi rõ họ tên) THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu) I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Sinh thời, Bác Hồ đã dạy “Người có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó. Người có tài mà không có đức thì vô dụng” Giáo dục phải là bồi dưỡng được cái đức: cái vốn quí của một con người. Loài người đã bước sang thế kỷ XXI, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ. Sự phát triển của công nghệ đã ảnh hưởng to lớn đến cuộc sống, sự phát triển của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Sự ra đời của nền kinh tế tri thức đặt ra những vấn đề mới cho lĩnh vực giáo dục đạo đức. Sau hơn hai thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển biến rõ rệt. Bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế thị trường cũng dần bộc lộ một số hạn chế nhất định như sự phân hoá giàu nghèo, bất công xã hội, một số tệ nạn gia tăng. Đặc biệt, những mặt trái của nền kinh thế thị trường làm ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn là vấn đề toàn xã hội quan tâm. Đánh giá thực trạng Giáo dục, đào tạo: Nghị quyết TW 2 khóa VIII nhấn mạnh “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước”. Lối sống thực dụng, sống gấp và thiếu lý tưởng, đề cao lợi ích cá nhân, giá trị vật chất, tôn thờ đồng tiền, hiện tượng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực, nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là trong lối sống học sinh THPT nói chung đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội. Thật vậy, giáo dục đạo đức cho học sinh là một trong những nhiệm vụ chủ yếu, cốt lõi xuyên suốt và giữ vị trí chủ đạo trong toàn bộ quá trình giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong nhà trường ở nước ta, đặc biệt là trong nhà trường THPT. Do đó, việc giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh trường THPT trong giai đoạn hiện nay là một trong những nhân tố quan trọng góp phần hình thành một thế hệ những con người mới đáp ứng sự nghiệp phát triển của đất nước và của địa phương. Với ý nghĩa đó quan trọng đó và với cương vị là người làm công tác giáo dục nhiều năm, bản thân nhận thức rõ được trách nhiệm phải có các giải pháp thiết thực, phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh THPT, coi việc giáo dục, rèn luyện các giá trị đạo đức cho học sinh là nền tảng, là gốc rễ vững chắc cho các mặt giáo dục khác trong nhà trường. Vì vậy, bản thân mạnh dạn chọn vấn đề: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT 1. Khái niệm đạo đức Đạo đức gồm những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của mình và sự tiến bộ xã hội trong quan quan hệ giữa người - người. Quan điểm duy vật lịch sử về đạo đức đã khẳng định rằng, với tư cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có nguồn gốc từ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, từ cơ sở kinh tế - xã hội. Nghĩa là đạo đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế - xã hội nảy sinh và quyết định; Trong quá trình phát triển của xã hội, trên cơ sở phát triển của sản xuất vật chất mà đạo đức được hoàn thiện dần dần. Đạo đức phát triển từ thấp đến cao cùng với sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội thông qua đấu tranh, lọc bỏ, kế thừa để tiến bộ không ngừng. Tuy là sản phảm của kinh tế, đạo đức cũng có tác động mạnh mẽ trở lại, có khả năng tạo ra những biến động to lớn đối với đời sống kinh tế - xã hội. Nhờ có đạo đức và thông qua đạo đức, những chuẩn mực xã hội mới phát huy hết chức năng điều chỉnh hành vi, chế định hoạt động giao tiếp và hành vi ứng xử của con người nhằm đảm bảo sự thống nhất cần thiết giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể và lợi ích cộng đồng. 2. Đặc điểm của học sinh THPT trong việc hình thành các giá trị đạo đức a) Về đặc điểm tâm sinh lí của học sinh trung học phổ thông Tuổi thanh niên nằm giữa tuổi trẻ em và tuổi người lớn, do đặc điểm này mà lứa tuổi thanh niên là giai đoạn phát triển phức tạp và nhiều mặt của cá thể. Rất nhiều các nghiên cứu đi sâu tìm hiểu, tổng kết và đưa ra các định hướng giáo dục độ tuổi thanh niên mới lớn. Dựa trên các nghiên cứu về đặc điểm tâm lý lứa tuổi thanh niên mới lớn (học sinh THPT) và một số thực trạng xã hội có liên quan đến lứa tuổi này mà các nhà giáo dục rút ra được phương pháp giáo dục có hiệu quả. Học sinh THPT (15 đến 18 tuổi) ở giai đoạn đầu tuổi thanh niên (thanh niên mới lớn thanh niên sinh học). Đây là thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể nhưng chưa thực sự phát triển thể lực của các em còn kém so với người lớn. Các em đến trường học tập dưới sự chỉ đạo của người lớn, phụ thuộc vào người lớn. Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Tuổi đầu thanh niên là thời kì đầu đạt được sự tăng trưởng về mặt thể lực. Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng đã chậm lại. b) Về đặc điểm hoạt động học tập. Hoạt động học tập của học sinh THPT đòi hỏi tính năng động và tính độc lập hơn học sinh THCS. Ở lứa tuổi này đòi hỏi trình độ tư duy lý luận phát triển. Hứng thú học tập của các em có những thay đổi rõ rệt, có tính bền vững và gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp. Đối với các lĩnh vực khoa học, các em đã có thái độ lựa chọn khá rõ ràng: có em thích học môn khoa học xã hội, có em lại thích học môn khoa học tự nhiên. Nhìn chung thái độ học tập của thanh niên học sinh gắn liền với động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa của môn học. Ở nhiều em xuất hiện thái độ học lệch: một mặt các em rất tích cực học tập một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình chọn, mặt khác các em sao nhãng các môn học khác. c) Về đặc điểm của sự phát triển trí tuệ Ở thanh niên mới lớn, tính chủ định phát triển mạnh ở tất cả các quá trình nhận thức. Tri giác có mục đích của học sinh đã đạt tới mức rất cao. Tuy vậy, hiện nay số học sinh đạt tới mức tư duy đặc trưng như thế chưa nhiều. Khiếm khuyết cơ bản trong hoạt động tư duy của nhiều em là thiếu tính độc lập. Nhiều khi các em chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính hoặc thiên về tái hiện tư tưởng của người khác. Nhà trường cần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của người học. Chương trình THPT đòi hỏi phát huy tính tích cực, năng động cao, sự phát triển mạnh của tư duy lý luận, hình thành hứng thú học tập liên quan đến xu hướng nghề nghiệp. Bồi dưỡng bởi động cơ học tập sát với thực tiễn cuộc sống, sau đó mới đến ý nghĩa xã hội của môn học. Đó là động lực thúc đẩy các em học tập và đạt kết quả cao các môn đã lựa chọn. Vì vậy, đa số chỉ quan tâm đến môn học liên quan đến thi cử, sao nhãng các môn học khác. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ là tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Các em đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ, có sự thay đổi về tư duy. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, chặt chẽ có căn cứ và mang tính nhất quán. Việc tự phân tích có mục đích là một dấu hiệu cần thiết của một nhân cách đang trưởng thành và là tiền đề của sự tự giáo dục có mục đích. Nên giáo viên cần phải tôn trọng ý kiến của học sinh, biết lắng nghe ý kiến của các em, đồng thời có biện pháp khéo léo để các em hình thành được một biểu tượng khách quan về nhân cách của mình. d) Về sự phát triển ý thức Sự phát triển ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT. Ý thức của học sinh với những đặc điểm cơ bản là: Các em tiếp tục chú ý đến hình dáng bên ngoài của mình, hình ảnh về thân thể là một thành tố quan trọng của sự tự ý thức của thanh niên mới lớn. Quá trình phát triển tự ý thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và có tính chất đặc thù riêng. Thanh niên tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý theo quan điểm về mục đích và hoài bão của mình. Sự tự ý thức của họ xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt động, địa vị mới trong tập thể, những quan hệ mới với thế giới xung quanh. Các em hay ghi nhật ký, so sánh mình với những nhân vật mà họ coi là tấm gương, là thần tượng. Nội dung của tự ý thức khá phức tạp, các em không chỉ nhận thức về cái tôi của mình trong hiện tại mà còn nhận thức vị trí của mình trong xã hội, hiện tại và tương lai. Đôi lúc còn có biểu hiện rõ những phẩm chất phức tạp. Các em có khả năng đánh giá sâu sắc những phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của những người cùng sống với mình. Đồng thời các em cũng có khuynh hướng độc lập trong việc phân tích đánh giá bản thân, song việc tự đánh giá bản thân nhiều khi chưa khách quan, có thể sai lầm, cần giúp đỡ khéo léo để các em hình thành một biểu tượng khách quan về nhân cách của mình. Trên cơ sở tư ý thức phát triển mạnh mẽ, nhu cầu tự giáo dục ở học sinh THPT cũng được phát triển. Tuy chưa thật có lòng tin và tự giáo dục hoặc chưa thành công trong tự giáo dục, nhưng vấn đề tự giáo dục của học sinh THPT thật sự là cần cho sự phát triển của chính các em, vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của giáo dục, các em là những nhân cách đang vươn lên để trở thành người công dân… các em vừa là đối tượng mang tính đặc thù của lứa tuổi, vừa là chủ thể của giáo dục đạo đức. Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, học sinh THPT đã có đầy đủ các điều kiện cơ bản về nhận thức, ý chí hoạt động… Để biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, quyết định kết quả phát triển tài đức của cá nhân. Tuy nhiên, với kinh nghiệm, vốn sống của cá nhân chưa nhiều, học sinh phổ thông dễ thay đổi hành vi hoạt động của mình. d) Về sự hình thành thế giới quan Học sinh THPT trong độ tuổi quyết định sự hình thành của thế giới quan. Đây là nét chủ yếu trong sự phát triển tâm lý của tuổi thanh niên học sinh. Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển của hứng thú nhận thức với các vấn đề tự nhiên, xã hội thông qua các môn học ở bậc THPT. Ở lứa tuổi mới lớn quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề liên quan đến con người là quan trọng nhất. Vai trò của con người trong lịch sử, quan hệ giữa con người và xã hội, giữa tình cảm và trách nhiệm, các em có khuynh hướng sống một cuộc sống tích cực vì xã hội. Trong điều kiện hiện nay, cần đặc biệt giúp các em phân tích, đánh giá các hiện tượng xã hội, các thang giá trị đang có những diễn biến không đơn giản. Trên cơ sở đó, hướng các em vào những khái niệm: Ủng hộ, bảo vệ cái đúng, phản đối ngăn chặn cái sai, biết chống lại sự xâm nhập của thế giới quan của giai cấp bóc lột, chống mê tín dị đoan và các tư tưởng duy tâm khác. Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển của hứng thú nhận thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất và những quy luật phổ biến của tự nhiên, của xã hội... Việc hình thành thế giới quan không chỉ giới hạn ở tính tích cực nhận thức, mà còn thể hiện ở phạm vi nội dung. Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục cần phải xây dựng thế giới quan lành mạnh, đúng đắn cho các em. Trong đó cần chú trọng môn Giáo dục công dân. Thế giới quan của các em đang hình thành và tiến tới hoàn chỉnh. Nhà trường cần giúp các em xây dựng được thế giới quan đúng đắn để các em trở thành người công dân chân chính, có ích cho xã hội. Dưới sự giáo dục của nhà trường, bản thân các em phải có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Con đường học vấn là lý tưởng cao đẹp ở mỗi con người, để phát triển nhân cách con người, đó là sự rộng lớn, muốn đạt được học vấn đích thực thì phải có đạo đức trong sáng, có sự chí tâm, sự thành ý, đem kết quả học tập của mình phục vụ cho hạnh phúc của nhân dân…” e) Về đời sống tình cảm Đây là giai đoạn đang phát triển mạnh về thể chất, tinh thần và tình cảm của các em. Với đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này, các em rất dễ bị kích động, lôi kéo. Các em có nhu cầu giao tiếp rất lớn, đặc biệt là sự giao tiếp với bạn bè, từ đó hình thành lên các nhóm bạn cùng sở thích. Nếu không được giáo dục dễ bị sai lệch. Về quan hệ xã hội, 15 tuổi các em được làm chứng minh thư, 18 tuổi được đi bầu cử, đủ tuổi nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ lao động, nữ đủ tuổi kết hôn, đó là những cái đích đến của cuộc đời các em. Vì vậy, ở cấp học THPT, nhà trường phải chuẩn bị cho các em một hành trang hoàn chỉnh trước khi bước vào cuộc sống cộng đồng. Đối với nhà trường, học sinh là nòng cốt trong các phong trào, tham gia tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Hệ thống tri thức mà học sinh được tiếp nhận ngày càng phong phú. Ở tuổi học sinh THPT, quan hệ bạn bè chiếm vị trí hơn hẳn so với những lớp người khác. Học sinh có lòng khao khát muốn có vị trí bình đẳng trong cuộc sống với mọi người trong xã hội. Các em được sinh hoạt với các bạn cùng tuổi, cảm thấy mình cần cho nhóm, có uy tín, có vị trí nhất định trong nhóm. Các em thích giao lưu với ban bè cùng lứa tuổi, cùng lớp, cùng trường hoặc ngoài trường. Trong công tác giáo dục đạo đức càng chú ý tới ảnh hưởng của nhóm. Nhà trường phải lưu ý đến những hành vi của học sinh trong việc sinh hoạt hội tự phát ngoài nhà trường. Hậu quả xấu của nhóm tự phát không thể lường trước được. Muốn tránh được điều đó bằng cách tổ chức các hoạt động tập thể, tổ chức để phát huy được tính tích cực của thanh niên, thẳng thắn chỉ trích những hình thức tham gia băng đảng tự phát ngoài xã hội… Đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn rất phong phú. Đặc biệt ở lứa tuổi này, các em có nhu cầu lớn về tình bạn chân thật, tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau. Tình bạn của các em mang tính xúc cảm cao, đôi lúc lý tưởng hóa tình bạn. Ở thanh niên mới lớn quan hệ giữa nam và nữ được tích cực hóa rõ rệt. Đa số các em đã vượt qua thời kì phát dục. Để giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh cho các em, chúng ta cần chú ý xây dựng mối quan hệ tốt đẹp. Mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, tin tưởng nhau, tạo điều kiện để các em phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo độc lập, giúp các em nâng cao tinh thần trách nhiệm của bản thân và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách. Từ các đặc điểm trên, công tác giáo dục đạo đức có ý nghĩa hết sức to lớn trong sự phát triển nhân cách của các em. Nhà trường có vai trò quan trọng, có vị trí đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục đạo đức. GDĐĐ cho học sinh là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó nhà trường giữ vai trò chủ đạo. GDĐĐ trong nhà trường là một quá trình giáo dục tổng thể, có quan hệ biện chứng giữa các bộ môn. Mục đích giáo dục trong nhà trường không ngoài mục đích hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ. Ở nhà trường, GDĐĐ là hình thành ý thức đạo đức, hành vi, thói quen đạo đức, tình cảm đạo đức theo những nguyên tắc đạo đức dân tộc, đạo đức cách mạng, đạo đức XHCN. 3. Vai trò của giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT trong giai đoạn hiện nay a) Đạo đức là nền tảng của nhân cách Đạo đức là nền tảng quy định nhân cách, là cơ sở để hình thành năng lực, làm cho năng lực được phát huy một cách có định hướng, phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Đạo đức của mỗi người phải được hiện thực hoá bằng những hành động cụ thể, chỉ có thể được thực hiện khi có năng lực, nếu không thì đạo đức chỉ dừng lại ở nguyện vọng, khả năng mà thôi. Như vậy, khái niệm nhân cách được hiểu bao gồm: tài và đức, là hai yếu tố luôn đi liền với nhau, chi phối và biểu hiện lẫn nhau. Hai mặt không thể thiếu ở mỗi con người, giữa hai mặt đó thì đạo đức là gốc, là cơ sở của tài. Xét trong cuộc đời của một con người thì tài năng chỉ phát triển trong một giai đoạn nhất định, còn đạo đức thì phải được trau dồi, rèn luyện suốt cả cuộc đời. Hành trang của mỗi con người trong bối cảnh hiện nay đức và tài phải đi liền và gắn bó với nhau không thể tách rời, có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Sự thống nhất giữa đạo đức và tài, trong đó đạo đức là gốc, thể hiện vai trò quan trọng của đạo đức đối với con người nói chung và thế hệ trẻ nói riêng. b) Giáo dục đạo đức để hình thành và phát triển nhân cách của học sinh Khi bàn về quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người có nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, Mác cho rằng, con người là sản phẩm lâu dài và cao nhất trong quá trình tiến hoá của giới tự nhiên. Con người trước hết là một thực thể tự nhiên - sinh học, nhưng con người mang bản chất xã hội, bởi trong tính hiện thực của tồn tại người, con người thiết lập, tham gia các quan hệ hiện thực. Đó là con người hiện thực mà bản chất và nhân cách của nó không thể là một cái gì trừu tượng, nằm ngoài xã hội: “Nhân cách không có con người thì cố nhiên là một điều trừu tượng; nhưng cũng chỉ trong sự tồn tại của loài của mình, chỉ với tính cách là những con người thì người mới là ý niệm hiện thực của nhân cách”. Trong môi trường xã hội con người không ngừng thực hiện cơ chế truyền đạt và lĩnh hội các kinh nghiệm sống, các mối quan hệ xã hội. Trong môi trường xã hội đó con người phải giao tiếp và hoạt động. Chính trong quá trình hoạt động này đã hình thành các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Đây chính là điều kiện để phát triển nhân cách của từng cá nhân. Điều 27, khoản 1, chương III Luật Giáo dục (sửa đổi, bổ sung năm 2010) khẳng định “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. c) Yêu cầu của giáo dục đạo đức cho học sinh trường THPT Quá trình giáo dục đạo đức không chỉ định hướng cho các hoạt động giáo dục đạo đức mà còn định hướng cho hoạt động dạy học nói chung. Với tư cách là một người làm công tác giáo dục, trước hết cần phải hiểu biết một cách sâu sắc những vấn đề chung của quá trình giáo dục đạo đức. Từ đó, có những định hướng, mục tiêu sát thực, xây dựng được những chương trình, kế hoạch khả thi và có những biện pháp tổ chức chỉ đạo thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả của quản lý giáo dục nói chung, quá trình giáo dục đạo đức nói riêng. Do đó, quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh cần phải đạt được những yêu cầu như: - Về mặt nhận thức: Giúp cho mọi người, mọi ngành, mọi tổ chức cá nhân và xã hội có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay. - Về thái độ, tình cảm: Giúp mọi người có hiểu biết và ủng hộ những việc làm đúng, biết đấu tranh với những việc làm, hành vi sai trái, tiêu cực. - Về hành vi: Tích cực thực hiện, rèn luyện và tu dưỡng phẩm chất đạo đức theo đúng chuẩn mực chung, phù hợp với xã hội. Muốn vậy, Giáo dục đạo đức phải giúp cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, tính chân lý khách quan của giá trị đạo đức nhân văn, nhân bản của các tư tưởng, coi đó là kim chỉ nam cho hành động của mình. Giáo dục đạo đức phải thấm nhuần các chủ trương, chính sách của Đảng, biết sống và làm việc theo pháp luật, sống có kỷ cương nền nếp, có văn hoá trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và giữa con người với nhau. Giáo dục đạo đức phải làm cho nhận thức ngày càng sâu sắc các nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực và các giá trị đạo đức xã hội chủ nghĩa. Biến các giá trị đó thành ý thức, tình cảm, hành vi, thói quen và cách ứng xử trong đời sống hàng ngày. Quá trình giáo dục đạo đức có nhiệm vụ: Phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân, hình thành và phát triển ý thức đạo đức; rèn luyện ý chí, hành vi; hình thành thói quen ứng xử đạo đức; phát triển các giá trị đạo đức cá nhân theo những định hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và thời đại. III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 1. Thực trạng giáo dục đạo đức cho học sinh THPT ở Đồng Nai a) Những kết quả đạt được trong giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Đồng Nai Trong những năm qua, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Đồng Nai được triển khai đồng bộ, có nhiều đổi mới về phương thức và nội dung, kiên trì phương châm giáo dục qua thực tiễn hành động, nêu gương điển hình tiên tiến, phát huy vai trò tự giáo dục, rèn luyện của học sinh, góp phần bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, giáo dục truyền thống, đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật cho học sinh trên địa bàn tỉnh. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống trong đoàn viên, thanh niên học sinh được quan tâm đặc biệt, chú trọng đề cao lòng nhân ái, đạo lý uống nước nhớ nguồn, lối sống văn hóa, nghĩa tình, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội; đấu tranh bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, các văn hóa phẩm độc hại, tiêu cực và tệ nạn xã hội, lối sống buông thả, lệch lạc về hành vi, hành xử hung bạo, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm; góp phần định hướng giá trị Chân - Thiện - Mỹ trong học sinh. Bên cạnh đó, các hình thức dạy học và tuyên truyền phổ biến giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật hiệu quả khá cao như: dạy học tích hợp các nội về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong môn học Giáo dục công dân và các môn học khác, câu lạc bộ học sinh với pháp luật, thi tìm hiểu về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tìm hiểu pháp luật, đội thanh niên tình nguyện tuyên truyền, phổ biến pháp luật… được củng cố và nhân rộng; tuyên truyền miệng, phát hành tài liệu tuyên truyền; góp phần giáo dục ý thức công dân, ý thức chấp hành pháp luật, nội quy kỷ luật, tôn trọng quy ước cộng đồng, hình thành thói quen đạo đức, kỹ năng sống tốt đẹp trong toàn thể đoàn viên, thanh niên và học sinh ở các nhà trường. Với những nỗ lực đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, trong thời gian qua, nhiều đơn vị trường học đã tập trung xây dựng các điển hình tiên tiến trong từng đối tượng thanh niên học sinh; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các phong trào; tiếp cận và khai thác các phương tiện hiện đại như internet, chủ động phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường tuyên truyền, định hướng, giáo dục học sinh, chủ động tiếp cận, giáo dục, cảm hóa các đối tượng học sinh chậm tiến. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hai mặt giáo dục. Đổi mới các hoạt động giáo dục, hoạt động tập thể, gắn học với hành, lý thuyết với thực tiễn; giúp học sinh có được những kỹ năng sống cơ bản. Triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tổ chức tập huấn và triển khai thực hiện về tích hợp nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào việc giảng dạy các môn Ngữ văn, Lịch sử, Giáo dục công dân, Âm nhạc, Mỹ thuật và Hoạt động ngoài giờ lên lớp; tổ chức Hội thi Kể chuyện gương sáng học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh đều nhận thức rõ tầm quan trọng và lợi ích thiết thực của việc “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Qua các hoạt động hướng nghiệp giáo dục ngoài giờ lên lớp, học sinh được học tập, phát huy được sở trường của bản thân, đồng thời được thể hiện mình, được trao đổi, được làm việc nhóm… Học sinh đã có thêm sự hứng thú khi được thực hành nhiều hơn, tham gia các hoạt động vui chơi bổ ích và các hoạt động trò chơi dân gian nhiều hơn. Từ đó các em cảm thấy yêu mến trường lớp, yêu mến thầy cô và bạn bè. Các đơn vị có nhiều sáng kiến, tổ chức thực hiện tốt phong trào, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thân thiện, năng động. Học sinh phát triển mạnh mẽ, toàn diện, có thể lực, có kỹ năng sống tốt, kỹ năng hòa nhập cao, góp phần hình thành nhân cách con người mới. + Kết quả xếp loại đạo đức năm học 2012 – 2013 cấp THPT Xếp loại Đạo đức Tổng Tốt Khá TB LỚP số HS Tỷ lệ Tỷ lệ Số Tỷ lệ Số lượng 10 11 12 Toàn cấp 27.426 24.161 23.976 75.563 % Số lượng % lượng % 19.002 69.28 6.333 23.09 1.649 6.01 17.688 73.21 4.899 20.28 1.306 5.41 19.352 80.71 4.117 17.17 494 2.06 56.042 74.17 15.349 20.31 3.449 4.56 (Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai) Yếu Số lượng 442 268 13 723 Tỷ lệ % 1.61 1.11 0.05 0.96 + Kết quả xếp loại đạo đức năm học 2013 – 2014 cấp THPT LỚP 10 11 12 Toàn cấp Tổng số HS Xếp loại Đạo đức Khá TB Tốt Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Yếu Tỷ lệ % 22,555 16,649 73.82 4,579 20.30 1,088 4.82 24,451 8,770 76.77 4,399 17.99 1,080 4.42 23,396 20,096 85.90 2,926 12.51 371 1.59 70,402 55,515 78.85 11,904 16.91 2,539 3.61 (Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai) Số lượng Tỷ lệ % 240 202 3 445 1.06 0.83 0.01 0.63 + Kết quả xếp loại đạo đức học kỳ I năm học 2014 – 2015 cấp THPT Tổng số HS LỚP 10 11 12 Toàn cấp 24,824 21,384 23,522 69,730 Xếp loại Đạo đức Khá TB Tốt Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Yếu Tỷ lệ % 17,646 71.08 5,471 22.04 12,670 51.04 15,304 71.57 4,645 21.72 1,019 4.77 8,105 76.97 4,285 18.22 857 3.64 1,055 73.22 14,401 20.65 14,546 20.86 (Nguồn: Sở Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai) Số lượng Tỷ lệ % 447 416 274 1,137 1.80 1.95 1.16 1.63 Nhận xét chung: - Ưu điểm: + 90,89% học sinh có đạo đức khá, tốt, đa số học sinh biết nghe lời, kính trọng cha mẹ, thầy cô, có ý thức rèn luyện tu dưỡng phẩm chất đạo đức tốt; thực hiện tốt mọi nội quy, quy định của trường, của lớp, biết sống tốt, sống đẹp, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội; + Học sinh có chiều hướng phát triển tốt về mặt tình cảm đạo đức, rèn luyện được kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự nhận thức đúng, sai, tự hiểu và vận dụng được một số kiến thức pháp luật, chẩn mực đạo đức trong cuộc sống hàng ngày. - Hạn chế: + Một bộ phận học sinh có biểu hiện chán nản, lười học, thường xuyên vi phạm và gây mất trật tự trong lớp, nói tực, chửi thề, nói dối không trung thực, vô lễ với thầy, cô, với bạn bè và người lớn tuổi, kết bạn chơi với những đối tượng xấu ở bên ngoài, uống rượu, hút thuốc lá... + Số học sinh gặp khó khăn trong rèn luyện đạo đức vẫn còn nhiều, một số giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm chưa thật sự quan tâm đến việc giáo dục đạo đức thông qua các tiết học ở trên lớp, thậm chí còn có thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm khi thấy học sinh có dấu hiệu vi phạm đạo đức. Sự phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội còn nhiều mặt hạn chế. b) Những hạn chế trong giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Bên cạnh những kết quả đáng khích lệ, khả quan đã đạt được trong thời gian qua, công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay vẫn còn một số mặt tồn tại và hạn chế. - Một bộ phận không nhỏ các em học sinh vẫn chưa hiểu và xác định được các giá trị đích thực của cuộc sống, sống buông thả, thực dụng, vô cảm, ích kỷ thiếu trách nhiệm với bản thân, với gia đình và xã hội. Hiện tượng học sinh vi phạm đạo đức ngày càng nhiều, khiến dư luận xã hội lo lắng, nhiều thầy, cô giáo và các nhà quản lý giáo dục phải đau đầu. - Công tác giáo dục chính trị tư tưởng đã có đổi mới nhưng chưa tác động sâu sắc đến đông đảo đoàn viên, thanh niên học sinh; công tác tuyên truyền, định hướng lý tưởng, giáo dục đạo đức lối sống, nêu gương người tốt, việc tốt cho học sinh chưa thường xuyên. Nhiều cơ sở giáo dục chưa chủ động trong công tác phối hợp tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với học sinh. Công tác nắm bắt, định hướng tình hình tư tưởng học sinh có lúc, có nơi thiếu kịp thời. Một bộ phận học sinh thiếu trách nhiệm với bản thân và xã hội, thiếu ý chí khắc phục khó khăn để vươn lên, có lối sống không lành mạnh, ý thức chấp hành pháp luật có nhiều hạn chế. Tính tương tác trong các hoạt động giáo dục còn ít. Việc tổng kết và nhân rộng các mô hình, cách làm hay trong công tác giáo dục đạo đức học sinh còn nhiều vấn đề bất cập, chưa phát huy được tác dụng tích cực. - Vai trò của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường trong việc tổ chức các hoạt động nhằm giáo dục các giá trị đạo đức, lối sống cho đoàn viên, thanh niên học sinh chưa thật sự hiệu quả; cơ sở vật chất, thiết chế vui chơi, giải trí cho học sinh còn ít và thiếu đồng bộ. - Thách thức trước mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Sự bùng nổ của khoa học công nghệ, cùng với mạng Internet chứa đựng rất nhiều yếu tố phức tạp, học sinh dễ nhiễm các yếu tố sinh hoạt văn hóa không lành mạnh . - Nội dung, phương pháp giáo dục tuy đã được đổi mới nhưng còn bộc lộ nhiều hạn chế; còn có những nội dung trong chương trình giáo dục không thiết thực, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa gắn với yêu cầu xã hội, chưa phù hợp với nhu cầu và khả năng học tập của đối tượng học sinh. Nguyên nhân của hạn chế trong giáo dục đạo đức cho học sinh - Một là, trong nhiều năm qua, ngành Giáo dục và Đào tạo luôn nhấn mạnh quan điểm “Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong học sinh”. Tuy nhiên trong thực tiễn, quan điểm này chưa được cụ thể hóa để được hiểu một cách đầy đủ và triển khai một cách thực sự hiệu quả ở mọi nơi. Nhiều đơn vị trường học chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của việc giáo dục đạo đức, chưa thấy hết trách nhiệm đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, nên chưa có sự quan tâm thỏa đáng tạo điều kiện tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong học sinh. Một số cán bộ lãnh đạo ở các cơ sở giáo dục chưa thường xuyên theo dõi, cập nhật những chủ trương, đường lối chính sách mới; có tư tưởng chủ quan, không kịp thời đổi mới trong công tác tuyên truyền. - Hai là, Hoạt động tư vấn học đường còn nhiều bất cập, thiếu đội ngũ chuyên môn có kinh nghiệm. Quá trình hội nhập quốc tế đã mang tới những cơ hội lớn nhưng cũng mang đến nhiều thách thức lớn đối với giáo dục. Mặt trái của kinh tế thị trường đã có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn là vấn đề toàn xã hội quan tâm. Những mặt tiêu cực, những mặt xấu của xã hội đã ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường và điều mà chúng ta quan tâm nhất đó là sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. - Ba là, Sự phối hợp giáo dục giữa các tổ chức Đoàn thể trong nhà trường với các ban, ngành, tổ chức kinh tế, xã hội và gia đình ở một số nơi thiếu chặt chẽ, chậm được khắc phục, chưa khai thác và phát huy hết các nguồn lực, điều kiện cho công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. - Bốn là, Các cấp ủy đảng, chính quyền một số nơi chưa quan tâm đúng mức và thường xuyên đối với công tác giáo dục thanh niên, học sinh; việc tổ chức thực hiện các phong trào thi đua mang tính giáo dục truyền thống đối với học sinh chưa thực sự hiệu quả; giữa nhận thức và sự quan tâm thực tế cho công tác giáo dục đạo đức còn chưa tương xứng. - Năm là, Trong quá trình giáo dục học sinh, đội ngũ giáo viên có lúc chưa nhận thức hết mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt đạo đức và văn hóa, Vì vậy, khuynh hướng tập trung nâng cao văn hóa, không chú ý đến vai trò của mặt giáo dục đạo đức; công tác giáo dục đạo đức còn thực hiện mang tính chung chung, thiếu tính toàn diện, xem nhẹ việc thực hành rèn luyện hành vi, thói quen đạo đức. - Sáu là, Việc phối hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quá trình giáo dục đạo đức có lúc thiếu chặt chẽ, chưa đồng bộ. Đời sống kinh tế khó khăn, một bộ phận không nhỏ đoàn viên, thanh niên học sinh, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; môi trường gia đình, nhà trường và xã hội có những biểu hiện xuống cấp đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp làm cản trở những nỗ lực trong công tác giáo dục, tập hợp, vận động học sinh của các đơn vị trường học. Kết quả điều tra nguyên nhân của hạn chế trong giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh ở Đồng Nai cho thấy: TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Nội dung Gia đình thiếu quan tâm Nhà trường thiếu biện pháp giáo dục Xã hội còn tiêu cực Quản lý xã hội còn buông lỏng Thi hành pháp luật chưa nghiêm Mặt trái của cơ chế thị trường Phối hợp giữa Gia đình- Nhà trường-Xã hội chưa tốt Các biện pháp giáo dục chưa đồng bộ Ảnh hưởng xấu của bạn bè Biến đổi về tâm, sinh lý Nội dung giáo dục chưa thiết thực Phương pháp giáo dục chưa phù hợp %Ý kiến trả lời 19.9 34.5 27.1 23.9 24.8 31.8 29.1 24.6 14.5 22.7 30.7 30.9 Ghi chú 13 14 Phim ảnh, sách báo có nội dung xấu Phong trào thi đua còn mang tính hình thức 12.4 30.3 ( Số liệu tổng hợp điều tra năm 2014) Để hiểu sâu hơn thực trạng đạo đức học sinh trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay, tôi đã tổ chức khảo sát, điều tra sơ bộ những giá trị đạo đức Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh. Trên thực tế về việc điều tra thực địa đã được thực hiện 200 phiếu khảo sát, cho 200 người, đại diện hai nhóm đối tượng gồm học sinh: 100 phiếu; cán bộ, giáo viên: 100 phiếu), kết quả thu được cụ thể như sau: Bảng 1. Cần lưu giữ giá trị đạo đức Việt Nam Stt 1 2 3 4 Giá trị đạo đức Rất cần Cần Không cần Ý kiến khác Tỷ lệ % Học sinh Cán bộ, giáo viên 45 54 30 14 17 19 8 13 ( Số liệu tổng hợp điều tra năm 2014) Qua bảng bảng khảo sát, chúng ta có thể thấy những giá trị đạo đức truyền thống được hai nhóm cho là không thể thiếu và rất cần được gìn giữ trong cuộc sống. Tuy nhiên tỷ lệ đồng thuận chưa cao, nhóm học sinh 45%, nhóm cán bộ, giáo viên 54%. Trong khi số người có quan điểm cho rằng không cần lưu giữ giá trị đạo đức truyền thống cũng chiếm tỷ lệ tương đối, nhóm học sinh 17%, nhóm cán bộ, giáo viên 19%. Bảng 2. Giá trị đạo đức Việt Nam nổi bật nhất Stt 1 2 3 4 5 6 Giá trị đạo đức Yêu nước Đoàn kết Lao động cần cù, tiết kiệm Thương người Ý thức cộng đồng Ý kiến khác Tỷ lệ % Học sinh Cán bộ, giáo viên 20 28 28 24 11 20 20 8 9 16 12 4 ( Số liệu tổng hợp điều tra năm 2014) Có thể thấy, giữa hai nhóm được khảo khát có quan điểm khác nhau về giá trí đạo đức truyền thống nổi bật nhất. Nhóm học sinh cho là giá trị đoàn kết 28%, yêu nước 20%; nhóm cán bộ, giáo viên cho là giá trị yêu nước 28%, đoàn kết 24%. Như vậy, sự khác nhau này là do nhận thức, sự trải nghiệm cuộc sống. Tuy nhiên những giá trị đạo truyền thống tuy cần được lưu giữ nhưng vai trò của nó lại rất mờ nhạt trong lối sống của học sinh trong tình hình hiện nay. Bảng 3. Những giá trị đạo đức Việt Nam ít được lưu giữ Stt 1 2 3 4 Giá trị đạo đức Tỷ lệ % Học sinh Cán bộ, giáo viên Yêu nước, đoàn kết, lao động cần cù, thương người Hiếu học, anh hùng, chịu khó, trung thực, ý thức cộng đồng Lạc quan, vì nghĩa, giản dị, yêu gia đình Ý kiến khác 10 22 43 29 19 28 35 14 ( Số liệu tổng hợp điều tra năm 2014) Bảng khảo sát giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam ít được lưu giữ, lại cho ta thấy sự khác nhau giữa hai nhóm một nữa. Trong khi nhóm học sinh cho là giá trị hiếu học, anh hùng, chịu khó, trung thực, ý thức cộng đồng 43%, nhóm cán bộ, giáo viên cho giá trị lạc quan, vì nghĩa, giản dị, yêu gia đình 35%. Bảng 4. Những giá trị đạo đức suy thoái do Stt Nội dung 1 2 3 4 5 6 Trình độ nhận thức mỗi người Xu hướng xem trọng vật chất Giáo dục gia đình, nhà trường Tiếp nhận nền văn hóa ngoại thiếu chọn lọc Vấn đề kinh tế Ý kiến khác Tỷ lệ % Học sinh Cán bộ, giáo viên 38 23 8 5 15 11 25 39 9 9 4 14 ( Số liệu tổng hợp điều tra năm 2014) Kết quả khảo sát những giá trị đạo đức truyền thống suy thoái do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhất lớn nhất được nhóm học sinh cho là do trình độ nhận thức mỗi người 38%; nhóm cán bộ, giáo viên cho là do xu hướng xem trọng vật chất, lối sống thực dụng 39%. Như vậy, qua kết quả khảo sát có thể thấy quan niệm về đạo đức lối sống của hai nhóm đối tượng học sinh và cán bộ, giáo viên có sự khác nhau như: Khi hỏi về tác động làm suy thoái đạo đức truyền thống, nhóm học sinh cho là do trình độ nhận thức; nhóm cán bộ, giáo viên cho do xu hướng xem trong vật chất. Hay những giá trị đạo đức truyền thống nào ít còn lưu giữ, nhóm học sinh cho là: Hiếu học, anh hùng, chịu khó, trung thực, ý thức cộng đồng; nhóm Cán bộ, giáo viên cho là lạc quan, vì nghĩa, giản dị trong lối sống, yêu gia đình. Nguyên nhân dẫn đến quan niệm khác nhau là do chênh lệch về trình độ học vấn, kinh nghiệm sống,... Nên trình độ nhận thức của hai nhóm đối tượng không giống nhau. Tuy nhiên nhìn chung, quan niệm về giá trị đạo đức trong lối sống của học sinh cũng có điểm tương đồng, tỷ lệ học sinh kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống chưa cao, Bên cạnh đó có một bộ phận không nhỏ trong học sinh còn mơ hồ về nguyên nhân làm suy thoái đạo đức truyền thống. Song, ở mỗi học sinh vẫn thấy được tầm quan trọng của giá trị đạo đức trong lối sống, nhưng họ chưa biết chọn lọc những giá trị hiện đại và kế thừa, phát huy giá trị truyền thống như thế nào trước sự hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề, chúng ta phải giáo dục và trang bị những giá trị đạo đức ấy cho học sinh bằng cách nào? Để họ vừa kế thừa, phát huy giá trị truyền thống vừa tiếp biến những giá trị mới, kết hợp hài hòa truyền thống và hiện đại để phù hợp với sự phát triển xã hội. Thông qua tình hình và thực tế khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức học sinh THPT tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay, ta thấy rõ hơn thực trạng học sinh khi phân tích yếu tố tích cực và tiêu cực. Thứ nhất, yếu tố tích cực trong lối sống: Học sinh cả nước nói chung, học sinh tỉnh Đồng Nai nói riêng, có nhiều thế mạnh, nhất là trong thời đại toàn cầu hoá, sức trẻ, tài năng, sự nhạy cảm của họ là yếu tố quan trọng để hội nhập; lý tưởng của họ, trên tất cả các lĩnh vực, mọi hoạt động, có thể nói gọn trong một chữ: “Dám” đó là dám nghĩ, dám làm, dám mơ ước, dám nhận thấy những hạn chế, non yếu và dám tin vào chính mình. Chính nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thường xuyên đặt ra những yêu cầu cao, đòi hỏi mỗi họ phải năng động hơn, có đủ phẩm chất năng lực trí tuệ, tri thức khoa học, từng bước vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, đòi hỏi học sinh học tập và rèn luyện với một tinh thần trách nhiệm cao, cùng với thái độ lao động mới, thể hiện ở chất lượng và hiệu quả trong trong suốt quá trình học tập và rèn luyện. Đồng thời thúc đẩy họ tích cực tìm kiếm, sáng tạo, thường xuyên trau dồi phẩm chất, nhân cách đạo đức của con người văn minh hiện đại; có tác phong công nghiệp, sống và làm việc có kỹ thuật, có kỷ luật, có hiệu quả và tự giác cao độ với ý chí chiến thắng nghèo nàn lạc hậu. Các phong trào cách mạng, thi đua học tập và rèn luyện, thi đua yêu nước, lao động giỏi, đền ơn đáp nghĩa… đã thu hút đông đảo học sinh trong tỉnh tham gia. Qua đó một mặt góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, ổn định chính trị và tiến bộ xã hội, mặt khác góp phần hình thành những giá trị, chuẩn mực đạo đức mới trong xã hội. Học sinh ngày càng có nhận thức sâu sắc hơn về thời đại mà mình đang sống, về tinh thần yêu nước, về giá trị của trí tuệ, bản lĩnh, cá tính với tinh thần đổi mới, sáng tạo. Đồng thời họ cũng đang phải tự khắc phục sự tụt hậu của mình, đổi mới tư duy, năng động, biết làm giàu tri thức của mình từ tổng số tri thức của nhân loại để thực hiện vai trò nòng cốt người chủ tương lai của đất nước trong việc nâng cao dân trí, phát huy ý chí tự lực tự cường, công hiến sức lực, trí tuệ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại đất nước. Thứ hai, mặt hạn chế trong lối sống: học sinh là lực lượng trẻ, được đào tạo và giáo dục có hệ thống, có khả năng tiếp cận nhanh nhạy với kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ mới, đồng thời là lực lượng lao động chủ yếu rất năng động, sáng tạo trong tương lai, đặc điểm chung của họ là hiếu động thích hấp thụ cái mới. Tuy nhiên, vì thiếu kinh nghiệm sống nên họ thường bắt chước cả cái tốt lẫn cái xấu mà thiếu sự cân nhắc, lựa chọn. Họ sẽ dễ bị choáng ngợp trước những cám dỗ vật chất, trong khi họ chưa chuẩn bị cho mình một lối ứng xử phù hợp với cuộc sống hiện đại. Cuộc sống sa hoa truỵ lạc, những nhà hàng khách sạn, vũ trường phơi bày trước mắt họ, chào mời, kích thích tính tò mò của họ… như vậy, nếu không trang bị một kiến thức đầy đủ, họ sẽ dễ bị sa ngã, chệch hướng trong lối sống. Có thể nói, sự du nhập ào ạt lối sống và những chuẩn mực văn hoá, đạo đức phi xã hội chủ nghĩa do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mâu thuẫn với đạo đức truyền thống của dân tộc đã và đang trực tiếp đánh vào những giá trị thiêng liêng của đạo đức và bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử, đặc biệt ảnh hưởng đến lối sống giới trẻ, trong đó có học sinh. Một bộ phận không nhỏ thanh niên, học sinh cả nước nói chung, trong đó thanh niên, học sinh tỉnh Đồng Nai nói riêng hiện nay, sống trong sự nô lệ cả tinh thần và vật chất, theo văn hoá ngoại lai bằng các suy nghĩ nông cạn, chạy theo những giá trị vật chất, đề cao thái hoá vai trò cá nhân,… hay thích thể hiện mình theo những chuẩn mực giá trị nước ngoài, xa rời nguồn gốc dân tộc, tự hạ thấp các giá trị vật chất tinh thần của dân tộc, tự biến mình trở thành một ký sinh trùng của xã hội. Như vậy có thể thấy, một bộ phận không nhỏ học sinh ở trên địa bàn tỉnh Đồng Nai chưa có những nhận thức, định hướng đúng đắn các vấn đề do hội nhập kinh tế quốc tế đưa lại. Vô tình đưa họ đến những phạm pháp đáng tiếc. Từ thực trạng trên, chúng ta thấy lối sống của mọi người bị quy định bởi hoàn cảnh khách quan của xã hội, bởi những điều kiện sống và sự giáo dục của gia đình và xã hội. Mỗi học sinh hãy chủ động trên bước đường lập nghiệp và trong mọi hoàn cảnh để vừa thể hiện bản lĩnh của người chủ nhân tương lai của đất nước vừa thể hiện bản lĩnh của người Việt Nam trong cơn lốc hội nhập với thế giới. Đồng thời, mỗi học sinh phải thấy được trách nhiệm đối với bản thân cũng là trách nhiệm đối với xã hội; phải tự tạo hành trang cho mình bằng cách nắm lấy tri thức làm sức mạnh của bản thân; có tinh thần yêu nước, biết phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; có cá tính, năng lực sáng tạo, có lý tưởng, đạo đức cách mạng… như vậy mới hoàn thành sứ mệnh là lực lượng quyết định là động lực phát triển của đất nước nói chung và của tỉnh Đồng Nai nói riêng. 2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo đức cho học sinh trường THPT trong giai đoạn hiện nay a) Nâng cao nhận thức về giá trị đạo đức cho học sinh Nhận thức về giá trị đạo đức - Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay, có vai trò to lớn trong việc nâng cao nhận thức cũng như điều chỉnh tư tưởng, thái độ và hành vi của con người. Bên cạnh việc phát huy các phương tiện thông tin đại chúng thì việc đề cao tính trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường là hết sức cần thiết. Với vị trí và vai trò của mình trong nhà trường, Đội TNTP HCM là lực lượng hùng hậu thực hiện công tác truyền thông dưới nhiều hình thức hoạt động khác nhau nhằm thu hút học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống. - Giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, truyền thống đạo đức và lối sống cho học sinh hiện nay không chỉ dừng lại ở các chương, điều trong sách vở mà quan trọng là phải giáo dục bằng chiều sâu lịch sử, những truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc, bằng những tấm gương yêu nước tiêu biểu, những anh hùng, liệt sĩ hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân ta. - Khơi dậy trong học sinh tinh thần xung kích tình nguyện vì cộng đồng, vì xã hội thông qua các phong trào “tuổi trẻ sáng tạo” gắn với thực hiện cuộc vận động “tuổi trẻ học đường học tập và làm theo lời Bác”, “thanh thiếu niên hiếu thảo”. Mở rộng tuyên truyền tìm hiểu truyền thống yêu nước dân tộc, của Đảng. + Lấy gương người tốt, việc tốt khích lệ học sinh để họ nhận thấy tự điều chỉnh, học tập, rèn luyện bản thân. Có thể lấy những tấm gương ở xung quanh ta, luôn có mọi lúc ở mọi nơi rất gần gũi với cuộc sống mà ai cũng có thể học. Như nghị lực vượt khó của cậu học trò nghèo đã đậu thủ khoa trong các kỳ thi đại học; hay một hành động tốt, cách ứng xử khéo léo... ta có thể bắt gặp thường ngày. Chính những hành vi, cử chỉ đúng mực này có thể làm thay đổi lối sống, suy nghĩ, cuộc đời của mỗi người. + Lồng ghép nội dung giáo dục trong tất cả các mặt công tác, hoạt động khác của Đoàn thanh niên như đoàn kết, tập hợp thanh niên, tổ chức các phong trào thi đua, đảm nhận các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội thông qua đó để giáo dục và rèn luyện học sinh. Phát huy giá trị đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay - Đạo đức nói chung, đạo đức truyền thống nói riêng đều thuộc phạm trù ý thức xã hội và quan hệ tác động qua lại đối với tồn tại xã hội, thể hiện trong mối quan hệ giữa ý thức đạo đức và hành vi đạo đức. Giáo dục đạo đức là tác động vào ý thức, nâng cao nhận thức về đạo đức, về vai trò quan trọng của đạo đức để mỗi học sinh tự giác thực hiện, qua đó tự làm điều chỉnh hành vi của mình với mối quan hệ xã hội. Nhưng do tồn tại xã hội có tác động trở lại đối với ý thức xã hội, đôi khi có tính quyết định, nên những quan hệ lợi ích, những quan hệ xã hội tác động trực tiếp, hàng ngày đến hành vi đạo đức của mỗi học sinh. Vì vậy giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh là nhiệm vụ thường xuyên và ngày càng trở nên quan trọng trong giai đoạn hiện nay. - Không ngừng tăng cường giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng đạo đức, lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân tộc; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội cho thế hệ trẻ; lấy giáo dục nhân cách, giáo dục đạo làm người là chính. Nhằm hình thành những thế hệ học sinh ưu tú, vững vàng về chính trị, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, có lý tưởng sống cao đẹp, sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính, biết nuôi dưỡng hoài bão, tự cường dân tộc. - Đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong các đơn vị trường học. Xác định rõ, đây là công việc thường xuyên hàng ngày, là trách nhiệm cụ thể, thiết thực của mỗi học sinh. - Các Chuẩn mực đạo đức phải được đề cao, nhân cách con người phải được tôn trọng, quan hệ giữa người với người phải là quan hệ giàu nhân tính, thể hiện ở tính lên kết và sự hợp tác, sự quan tâm và trách nhiệm, sự cảm thông chia sẽ, giàu lòng nhân ái, vị tha, nhất là tình thương đối với trẻ em và sự bình đẳng, tôn trọng dành cho phụ nữ. Đó là những biểu hiện của đạo đức và văn hoá đạo đức cần giáo dục cho thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh để tạo thành thói quen trong hành vị ứng xử của họ. - Vào đầu năm học mới cần giới thiệu cho học sinh truyền thống xây dựng, phát triển và trưởng thành, các hình ảnh các thế hệ đã trưởng thành từ mái trường nay đang góp sức xây dựng quê hương đất nước. Các thành quả mà nhà trường đã đạt được, các thế hệ thầy cô giáo đã và đang công tác trong nhà trường để từ đó giúp cho học sinh tình yêu trường yêu lớp, biết phát huy những truyền thống tốt đẹp của nhà trường. - Tổ chức các buổi nói chuyện, tọa đàm của các cán bộ lão thành cách mạng, các cựu chiến binh; tổ chức các đợt đi thăm các di tích lịch sử. Từ đó hình thành cho học sinh lòng yêu quê hương đất nước, tự hào dân tộc, ý chí tự cường về quê hương, về mái trường yêu dấu. - Giáo dục ý thức tự giác của lớp trẻ phải biết “gạn đục, khơi trong” trong việc tiếp thu những giá trị hiện đại và kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống. Như vậy, giáo dục đạo đức có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành nhân cách. Song, bằng những giá trị từ “người thật việc thật” cùng thời đại đang sống để học sinh học tập và noi theo, đó là hình thức giáo dục hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, cần phải giáo dục việc nhận diện các quan hệ đạo đức đang vận động trong đời sống của xã hội ta, việc cổ vũ các quan hệ đạo đức đúng đắn, đấu tranh phê phán các quan niệm đạo đức sai lầm một cách khách quan là điều rất cần thiết, để từ đó học sinh có lòng tin vào những điều thiện, và phê phán điều ác một cách khoa học, củng cố ý thức tự giác. - Khuyến khích lối sống tích cực: Tự tôn, khẳng định cá nhân, kết hợp hài hòa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại trong lối sống. Phải hạn chế những tư tưởng đạo đức mang nặng tính cộng đồng mà khuyến khích các giá trị cá nhân, kết hợp giá trị cộng đồng với giá trị cá nhân, tôn trọng ý kiến cá nhân, lợi ích cá nhân và nhu cầu phát triển cá nhân bằng các chính sách, chế độ ưu đãi xứng đáng không chỉ là biểu dương, khen ngợi. Tạo cơ hội cho lớp trẻ khẳng định mình, vươn lên tự lập thân, lập nghiệp. Đồng thời tạo ra những định hướng đúng đắn cho hoạt hoạt của mỗi học sinh, tập thể và cộng đồng, để xây dựng và củng cố phát triển lối sống mới trong học sinh. Mỗi học sinh hãy tạo cho mình một nguyên tắc sống thì bao giờ cũng giữ được bản lĩnh, cốt cách của mình, dám đương đầu với những khó khăn thử thách, không cơ hội, sống nhiệt tình, chân thực và cống hiến nhiều cho xã hội. Đồng thời có tinh thần giúp đỡ người khác một cách tự giác và có trách nhiệm cao trước tập thể và xã hội. Chính điều này đã khẳng định trong lối sống của họ đã luôn kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống và luôn làm mới nó để phù hợp với hoàn cảnh sống. Như chúng ta đã biết, con người vừa mang tính thời đại vừa mang tính lịch sử, tức là mang trong mình dấu ấn của quá khứ. Không thể có con người hiện đại nếu họ không được nuôi dưỡng bằng truyền thống tốt đẹp, được kết tinh trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Do đó, nếu mỗi học sinh biết dung hòa được các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại thì kinh tế, xã hội sẽ phát triển, nhưng các giá trị truyền thống phải được biến đổi phù hợp với tinh thần thời đại. Trong quá trình biến đổi đó, các giá trị truyền thống được gạn lọc, khơi trong, được kết hợp với giá trị hiện đại tạo nên một hệ giá trị mới mang tinh thần của thời đại, nhưng lại có đặc điểm của dân tộc. Đồng thời sẽ giúp họ tiếp thu một cách có chọn lọc các luồng giá trị mới và cũng là điều kiện giúp giới trẻ từng bước tiến vào thế giới mà không sợ lai căng hay đánh mất chính mình trong lối sống của mỗi người. - Hạn chế các yếu tố tiêu cực trong lối sống. Cần giáo dục cho thế hệ trẻ việc nhận diện các quan hệ đạo đức đang vận động trong đời sống của xã hội. Việc cổ vũ, ủng hộ các quan hệ đạo đức đúng đắn, phê phán và đấu tranh công lại các quan niệm đạo đức sai lầm một cách khách quan là điều cần thiết để từ đó, học sinh có lòng tin vào những điều thiện và phê phán điều ác một cách khoa học, củng cố ý thức tự giác. Các hành vi xấu, thiếu trách nhiệm, ăn bám, lười biếng, lừa đảo phải được vạch trần và người tốt việc tốt phải được cổ vũ, nêu gương điển hình... Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nhấn mạnh những đức tính cần có của con ngưòi mới Việt Nam: - Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. - Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. - Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. - Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, nâng xuất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể, xã hội. - Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và năng lực” [26, tr 58, 59) Thiết nghĩ, thế hệ trẻ càng cần thiết chú trọng các đức tính này trong tiếp nhận giáo dục, tự giáo dục để bồi bổ và hoàn thiện nhân cách con người mới. Trong đó phải chú ý phát huy mặt tích cực, hạn chế khuyết điểm và thiếu hụt, để cho nhân cách thế hệ trẻ nảy nở theo những chuẩn mực chân, thiện, mỹ. b) Giáo dục giá trị đạo đức thông qua các môn học trong nhà trường Giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua môn học Giáo dục công dân và các môn học khác. Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT, thông qua giảng dạy môn học Giáo dục công dân, cần coi trọng đúng mức việc giảng dạy môn Giáo dục công dân cũng như vị trí và vai trò của môn học này trong giáo dục đạo đức cho học sinh; đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng