Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Mầm non - Mẫu giáo Skkn nâng cao chất lượng dạy học môn chính tả lớp 3...

Tài liệu Skkn nâng cao chất lượng dạy học môn chính tả lớp 3

.PDF
39
2218
91

Mô tả:

SƠ YẾU LÍ LỊCH * Họ và tên : ĐỖ THỊ THẢO * Ngày tháng năm sinh : 15/05/1968 * Chức vụ : Giáo viên * Đơn vị công tác : Trường Tiểu Học Chương Dương * Ngày vào ngành : 01/03/1989 * Hệ đào tạo : Đại học * Chuyên ngành : Tiểu học 1 MỤC LỤC A – ĐẶT VẤN ĐỀ ......................................................................................................4 I. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................4 II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................5 III. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................5 IV. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................5 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận .........................................................................5 2. Phương pháp khảo sát thực tiễn dạy và học chính tả ..........................................5 3. Phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu ...........................................................6 4. Phương pháp phân tích tổng hợp .........................................................................6 B - Phần nội dung .........................................................................................................6 I. Cơ sở lí luận ..............................................................................................................6 1. Cơ sở tâm lí giáo dục của việc dạy chính tả ........................................................6 2. Cơ sở ngôn ngữ học của việc dạy học chính tả ...................................................7 3. Các nguyên tắc, phương pháp dạy chính tả..........................................................8 4. Đặc điểm của chữ Tiếng Việt.............................................................................11 5. Một số quy tắc quy định về chuẩn chính tả Tiếng Việt......................................12 II. THỰC TRẠNG BAN ĐẦU...................................................................................16 1. Về chương trình.................................................................................................16 2. Thực tiễn của giáo viên......................................................................................17 3. Về phía học sinh.................................................................................................17 4. Nguyên nhân học sinh mắc lỗi...........................................................................22 III. Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 3 1. Phải chú ý dạy chính tả ở tất cả các giờ, các môn học......................................23 2. Luyện chính tả phối hợp với chính âm..............................................................24 3. Dạy chính tả kết hợp với dạy nghĩa từ để giúp học sinh phân biệt về nghĩa. Từ đó học sinh phân biệt được cách viết đúng...........................................................24 4. Dạy chính tả theo khu vực.................................................................................24 5. Phối hợp phương pháp có ý thức và phương pháp không có ý thức.................25 IV. Phần thực nghiệm.................................................................................................27 1. Đối tượng địa bàn thực nghiệm.........................................................................27 2. Mục đích thực nghiệm.......................................................................................27 2 3. Nội dung trọng tâm của thực nghiệm................................................................27 V. VẬN DỤNG CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ ĐỀ XUẤT...................................................33 VI. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM................................................................................34 C - kết luận và kiến nghị ............................................................................................35 Tài liệu tham khảo.......................................................................................................37 Ý kiến hội đồng khoa học cơ sở …………………………………………………….38 3 A – ĐẶT VẤN ĐỀ I) Lý do chọn đề tài: Trong nhà trường Tiểu học Việt Nam, Tiếng Việt là một môn học rất quan trọng, nó góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ở Tiểu học theo đặc trưng bộ môn của mình. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những hiểu biết về cách thức sử dụng Tiếng Việt như một công cụ giao tiếp và tư duy; học sinh được rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết để sử dụng có hiệu quả Tiếng Việt trong học tập và đời sống. Trên cơ sở những mục tiêu cơ bản của môn Tiếng việt, phân môn chính tả giải quyết vấn đề dạy cho trẻ em biết chữ để học tiếng, dùng chữ để học các môn học khác và để sử dụng trong giao tiếp. Vì vậy, dạy học chính tả ở Tiểu học là một trong những vấn đề đang được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng của môn học Tiếng Việt. Phân môn chính tả trong nhà trường có nhiệm vụ giúp học sinh nắm vững các quy tắc chính tả và hình thành kĩ năng chính tả, nói cách khác giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả (đúng về phụ âm đầu, vần, âm cuối, thanh, độ cao thấp của từng con chữ). Từ đó giúp học sinh viết đẹp, viết nhanh, nét chữ đều đặn, mềm mại. Qua phân môn chính tả còn rèn luyện cho các em một số phẩm chất như: Tính kỉ luật, tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, đồng thời bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý Tiếng Việt. Cách biểu thị tình cảm đó trong việc viết đúng chính tả. Trong thực tiễn việc dạy và viết chính tả hiện nay của học sinh Tiểu học đạt kết quả chưa cao trong khi nói và viết. Cụ thể như học sinh ở T.P Hà Nội nói chung và học sinh ở Trường Tiểu học Chương Dương - huyện Thường Tín nói riêng. Bài viết của các em còn mắc rất nhiều lỗi chính tả, nhất là trường hợp những cặp phụ âm đầu dễ lẫn lộn như: l/n; s/x; ch/tr; r/d/gi…,phổ biến nhất là hai âm l/n các vần khó như: ưu; iu, ươu; uơ; uê; êu;… sai về âm cuối như: i/y; ch/nh; về thanh điệu đó là những thanh khó phân biệt như thanh (?); (~), các em viết còn sai rất nhiều… Bởi vậy việc tìm hiểu, khảo sát các lỗi viết sai chính tả của học sinh để từ đó có những biện pháp, phương hướng khắc phục các lỗi sai. 4 Đó là một việc làm có ý nghĩa đối với việc nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt nói chung và việc dạy học chính tả nói riêng, đặc biệt là luyện viết đúng hai phụ âm l/n. Quá trình dạy chính tả cho học sinh không chỉ sử dụng một phương pháp mà phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp một cách hợp lí nhằm đạt tới hiệu quả dạy học cao. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng dạy học môn chính tả lớp 3”. II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài tôi nghiên cứu nhằm thực hiện những nhiệm vụ sau: 1. Khảo sát phân loại lỗi chính tả của học sinh lớp 3B 2. Tìm ra nguyên nhân của các lỗi chính tả mà học sinh thường mắc phải. 3. Rút ra một số biện pháp thích hợp để khắc phục các lỗi chính tả đó. III. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: + Việc dạy luyện viết hai phụ âm l/n và học chính tả ở khối 3 . + Các bài tập làm văn, chính tả, các loại vở ghi của học sinh khối 3 Trường Tiểu học Chương Dương. + Chương trình, sách giáo khoa dạy và học chính tả, sách tham khảo, sách giáo viên chỉ đạo việc dạy chính tả. IV. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Nâng cao chất lượng dạy học môn chính tả lớp 3”. Tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu hỗ trợ nhau. Song một số phương pháp đặc trưng được sử dụng nhiều nhất trong suốt quá trình nghiên cứu là: 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tài liệu, sách tham khảo, sách giáo khoa có liên quan đến việc dạy học chính tả. 2. Phương pháp khảo sát thực tiễn dạy và học chính tả: 5 Qua các giờ dạy và học chính tả, kiểm tra, khảo sát lại các bài viết chính tả của học sinh để phát hiện những biến đổi trong bài viết của học sinh về số lượng và chất lượng do tác động của phương pháp giảng dạy. 3. Phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu: - Phương pháp này nhằm thống kế các lỗi chính tả của học sinh thường mắc phải, so sánh cách dạy thông thường và cách dạy đang nghiên cứu và đối chiếu. 4. Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích thực tiễn chương trình, sách giáo khoa, tìm ra những điểm tích cực và hạn chế của chương trình sách giáo khoa. B - Phần nội dung I. Cơ sở lí luận. 1. Cơ sở tâm lí giáo dục của việc dạy chính tả: Như chúng ta đã biết, mục đích của việc dạy chính tả là hình thành cho học sinh năng lực viết thành thạo, thuần thục chữ viết Tiếng Việt theo các chuẩn mực chính tả, nghĩa là giúp học sinh hình thành các kĩ xảo chính tả. Hình thành cho học sinh kĩ xảo chính tả là giúp học sinh viết đúng chính tả một cách tự động hoá, không cần phải trực tiếp nhớ tới các quy tắc chính tả.. Để đạt được điều này có thể tiến hành theo hai cách: * Có ý thức và không có ý thức: - Cách không có ý thức (còn gọi là phương pháp máy móc cơ giới): Chủ trương dạy chính tả không cần đến sự tồn tại của các quy tắc chính tả, không cần hiểu mối quan hệ giữa ngữ âm và chữ viết, những cơ sở từ vựng và ngữ pháp của chính tả mà chỉ đơn thuần là việc viết đúng từng trường hợp, từng từ cụ thể: Cách dạy học này tốn nhiều thời gian công sức, không thúc đẩy được sự phát triển của tư duy chỉ củng cố trí nhớ máy móc ở một mức độ nhất định. - Cách có ý thức (còn gọi là phương pháp có ý thức, có tính tự giác): Chủ trương cần phải bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc, các mẹo luật chính tả. Trên cơ sở đó tiến hành luyện tập và từng bước đạt tới các kĩ xảo chính tả. Việc 6 hình thành kĩ xảo chính tả bằng con đường có ý thức sẽ tiết kiệm được thời gian công sức. Đó là con đường ngắn nhất và có hiệu quả cao. Đối với học sinh Tiểu học, cần vận dụng cả hai cách có ý thức và không có ý thức. Trong đó: Cách không có ý thức chủ yếu được sử dụng ở các lớp đầu cấp. Cách có ý thức cần được sử dụng thích hợp ở các lớp cuối cấp của bậc Tiểu học. 2. Cơ sở ngôn ngữ học của việc dạy học chính tả: Về cơ bản, chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, nghĩa là mỗi âm vị được ghi bằng một con chữ. Nói cách khác, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau. Đọc như thế nào viết như thế ấy, nếu đọc sai sẽ dẫn đến viết chữ sai. Trong giờ học chính tả học sinh sẽ xác định được cách viết đúng, (đúng chính tả) bằng việc tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói. (Ví dụ: Hình thức chính tả nghe - viết). Cơ chế của cách viết đúng là xác lập được mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết. Giữa đọc và viết, giữa tập đọc và viết chính tả (chính tả nghe - viết) có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng lại có quy trình hoạt động trái ngược nhau. Nếu tập đọc là sự chuyển hoá văn bản viết thành âm thanh thì chính tả lại là sự chuyển hoá văn bản dưới dạng âm thanh thành văn bản viết. Tập đọc có cơ sở chuẩn mực là chính âm, còn tập viết (viết chính tả) có cơ sở là chính tự (chính tự là biểu hiện của quy tắc chính tả ở một đơn vị “từ,...” một từ xét về mặt chính tả được gọi là một chính tự). Ta thường nói rằng chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau là nói về nguyên tắc chung, còn trong thực tế, sự biểu hiện của mối quan hệ giữa đọc (phát âm) và viết (viết chính tả) khá phong phú và đa dạng, mà chính tả Tiếng Việt không dựa hoàn toàn vào cách phát âm thực tế của các phương ngữ đều có những sai lệch so với chính âm, nên không thể thực hiện phương châm “Nghe như thế nào, viết như thế ấy” được (như cách phát âm của phương ngữ vùng Kì Dương, Chương Lộc: lòng súng, nợn nòi, long lia...). 7 Mặc dù chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế muốn viết đúng chính tả thì việc nắm nghĩa của từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp người học viết đúng chính tả: Ví dụ: Nếu giáo viên đọc một từ có hình thức ngữ âm là “Za” thì học sinh có thể lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu đọc là “gia đình” hoặc “da thịt” hay “ra vào” (đọc trọn vẹn từ, mỗi từ gắn với một nghĩa xác định) thì học sinh dễ dàng viết đúng chính tả. Vì vậy, có thể hiểu rằng chính tả Tiếng Việt còn là loại chính tả ngữ nghĩa. Đây là một đặc trưng quan trọng về phương tiện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt. 3. Các nguyên tắc, phương pháp dạy chính tả. 3.1. Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực: Dạy chính tả theo khu vực nghĩa là nội dung giảng dạy về chính tả phải sát hợp với địa phương. Nói cách khác xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh ở từng khu vực, từng vùng để hình thành nội dung giảng dạy, phải xác định được các trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh ở từng khu vực, từng địa phương. Từ đó tập trung vào các lỗi phát âm ở từng địa phương mà lưu ý để viết cho đúng. Bởi như ta đó biết cách phát âm địa phương có ảnh hưởng trực tiếp đến việc viết chính tả. Đối chiếu với âm, ta thấy cách phát âm của ba vùng phương ngữ đều còn có những chỗ chưa chuẩn xác, còn sai lệch. Ví dụ: + Hầu hết học sinh cả trường chưa phát âm phân biệt rõ các cặp phụ âm đầu: ch/tr; s/x; l/n; r/d/gi .... + Riêng học sinh thôn Kỳ Dương, Chương Lộc chưa phân biệt rừ hai phụ õm l/n. Ví dụ: “Luôn luôn” phát âm và viết thành “nuôn nuôn”. “Con lươn” phát âm và viết thành “con lươn”. 8 Với nguyên tắc này yêu cầu giáo viên trước khi dạy cần tiến hành điều tra cơ bản để năm lỗi chính tả phổ biến của học sinh, từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp. (Nhất là đối với chính tả so sánh). Nguyên tắc này cũng lưu ý giáo viên cần tăng cường sự linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy, cụ thể trong việc xây dựng nội dung bài sao cho phù hợp với học sinh lớp mình dạy, có thể lược bớt những nội dung trong sách giáo khoa xét thấy không phù hợp với đối tượng học sinh, đồng thời bổ sung những nội dung dạy cần thiết mà sách giáo khoa chưa đề cập đến. 3.2. Nguyên tắc kết hợp chính tả có ý thức và chính tả không có ý thức: Trong quá trình dạy chính tả cho học sinh, giáo viên không chỉ sử dụng một phương pháp mà phải sử dụng phối hợp hai phương pháp; có ý thức và không có ý thức một cách hợp lý nhằm đạt tới hiệu quả dạy học cao. Trong nhà trường, việc sử dụng phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu, nhưng cũng không phủ nhận phương pháp không có ý thức. Phương pháp này được khai thác, sử dụng hợp lý ở các lớp đầu cấp, gắn liền với các kiểu bài như tập viết, tập chép...Các kiểu bài này nhằm giúp học sinh nhanh chóng làm quen với hình thức của các con chữ, hình thức chữ viết của các từ. Đây là những tiền đề, những xuất phát cần thiết đối với học sinh mới làm quen với hệ thống chữ viết Tiếng Việt. Phương pháp không có ý thức còn phát huy tác dụng khi giáo viên hướng dẫn học sinh ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, hoặc không gắn với một quy luật, một quy tắc nào như: Viết phân biệt (r/d/gi, ch/tr, l/n...). Đối với phương pháp có ý thức giáo viên cần sử dụng, khai thác tối đa phương pháp này. Muốn vậy chúng ta phải biết vận dụng những kiến thức về ngữ âm học Tiếng Việt vào việc phân loại lỗi chính tả, phát hiện đặc điểm của từng loại lỗi nhất là việc xây dựng các quy tắc chính tả, các “mẹo” chính tả, giúp học sinh ghi nhớ cách viết một cách khái quát và có hệ thống. Ví dụ: * Xây dựng các quy tắc chính tả. - Khi đứng trước nguyên âm: i, iê, e, ê thì: 9 Âm “cờ” viết là “k” Âm “gờ: viết là “gh” Âm “ngờ” viết là “ngh” - Khi đứng trước các nguyên âm: u, ô, o, a, ă, a Âm “cờ” viết là “c” Âm “gờ: viết là “g” Âm “ngờ” viết là “ng” - Khi đứng trước âm đệm (âm đẹm viết là u) thì âm “cờ” viết là “q”. * Các mẹo chính tả: Khi viết ch hay tr. Nếu chúng chỉ đồ dùng trong gia đình thì hầu hết được viết là ch (cái chai, cái chén, cái chậu, cái chảo...). Hoặc chỉ mối quan hệ trong gia đình đều viết ch chứ không viết tr: (cha, chú, cháu, chị, chồng, chút...). * Tóm lại: Hiện nay trong nhà trường nói chung và lớp tôi dạy nói riêng đang luyện cho học sinh cách phát âm và viết đúng hai phụ âm l/n để phát huy tính tích cực trong dạy chính tả sẽ tiết kiệm được thời gian và mang lại kết quả nhanh chóng, chắc chắn, cụ thể (có thể kiểm tra được ngay), hơn nữa còn gây được hứng thú cho học sinh giáo viên phải sửa lỗi cho học sinh cả khi nói và viết cho học sinh có thói quen ngay ở cấp tiểu học. 3.3. Nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực (xây dựng cái đúng loại bỏ cái sai): Nói cách khác việc hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả cần tiến hành đồng thời với việc hướng dẫn học sinh loại bỏ các lỗi chính tả trong các bài viết của mình. Để học sinh sửa các lỗi chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xây dựng cái đúng. Giáo viên có thể nêu ra những đoạn văn, đoạn thơ trong đó có nhiều từ viết sai lỗi chính tả để học sinh tự mình phát hiện lỗi, tìm hiểu nguyên nhân sai và viết lại cho đúng. 10 Phương pháp tiêu cực giúp học sinh phát hiện óc phân tích, xét đoán, đồng thời kiểm tra củng cố được kiến thức về chính tả của học sinh. Phương pháp tiêu cực chỉ nên coi là thứ yếu có tính bổ trợ cho phương pháp tích cực. Trong quá trình giảng dạy chính tả, giáo viên cần phối hợp một cách hợp lý, hài hoà và có hiệu quả hai phương pháp này. 4. Đặc điểm của chữ Tiếng Việt: Chữ Tiếng Việt là chữ ghi âm vị, chữ viết Tiếng Việt do các cố đạo đã mượn các con chữ La Tinh để ghi âm Tiếng Việt. Chữ viết ghi âm vị là một loại hình chữ viết tiến bộ nhất, cơ sở của nó dựa trên con chữ La Tinh phổ biến rộng rãi nhất trên thế giới, về hiệu quả ghi âm thì hiện nay chữa Việt còn theo gần sát với ngữ âm Tiếng Việt. Nó dễ học, dễ viết và có thể giúp ta dễ dàng tiếp thu các ngoại ngữa quan trọng nhất cùng một hệ chữ La Tinh. Tuy nhiên, chữ Việt chưa phải là hoàn thiện. Do những nguyên nhân lịch sử, nó còn có những nhược điểm sau đây: + Không đảm bảo sự tương ứng một - đối - một giữa âm và chữ, âm vị /k/ ghi bằng một trong ba con chữ c - k - q; con chữ “g” ghi lại một trong hai âm vị /d/, /z/ + Có những nhóm hai, ba con chữ không cần thiết để ghi âm vị: ph, ngh... Những nhược điểm đó gây nên những hiệu quả không tốt, việc dạy và học gặp những khó khăn vô ích. Chữ viết Tiếng Việt có hai lối viết: Lối viết tay và viết in. Mỗi lối chữ có hai kiểu: Chữ thường và chữ hoa. Chữ viết phải đúng kiểu, không nên viết chữ in xen lẫn với chữ viết tay. - Khi viết chữ viết tay có thể viết nghiêng hay viết đứng không nên viết nửa nghiêng, nửa đứng; viết các dấu phụ trên chữ viết tay, dấu (v), dấu (^), dấu râu (?) phải viết cho vừa phải, cân xứng với các nguyên âm mang những dấu ấy (ví dụ: Câu hỏi, nguyên nhân, chăm chỉ...) các dấu thanh phải đặt đúng vị trí trên hay dưới các nguyên âm của âm tiết. 11 + Nếu nguyên âm đôi có âm tiết mở: (ví dụ: Mía, chú...) thì dấu thanh đặt trên yếu tố thứ nhất. + Nếu sau nguyên âm đôi có âm cuối (ví dụ: Tiền, mượn...) thì các dấu thanh đặt trên hoặc dưới yếu tố thứ hai. + Các dấu thanh đi đôi với nguyên âm có dấu (v) (ví dụ: Ngắm, chẳng...) thì đặt trên hoặc trong dấu ngửa đó (không kể dấu nặng). + Các dấu thanh đi đôi với nguyên âm có dấu (^) thì đặt bên phải dấu mũ. * Hướng dẫn cách viết các dấu ngắt câu: + Các dấu chấm lửng (...), vạch ngang (-) thì viết đúng trên dòng kẻ. + Các dấu hai chấm (:), chấm hỏi (?), chấm than (!), ngoặc đơn, ngoặc kép thì viết từ hàng kẻ trở lên. + Dấu phẩy (,) viết từ hàng kẻ trở xuống. +Dấu (;) thì viết dấu chấm ở trên dòng kẻ và dấu phẩy ở dưới dòng kẻ trở xuống. 5. Một số quy tắc quy định về chuẩn chính tả Tiếng Việt: Chuẩn chính tả Tiếng việt phải được quy định rõ ràng, chi tiết tới từng từ và phải được mọi người tuân theo. Vì vậy phải có các quy tắc quy định về chuẩn chính tả Tiếng Việt như sau: - Cách viết âm tiết của Tiếng Việt: Các âm tiết viết tách rời nhau. Trường hợp âm tiết có nguyên âm “ i ” ở cuối thì viết thống nhất bằng “ i ”, trừ “uy”, ví dụ (duy, nguy....) “ i ” hoặc “y” đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết vẫn theo thói quen cũ (ý nghĩa, y tế, yên, “y”, âm ỉ, ỉ eo, “ i ”). - Cách viết các đơn vị từ: theo truyền thống vẫn viết rời từng âm tiết, trừ hai trường hợp sau đây viết liền các âm tiết theo đơn vị từ: + Các phiên âm nước ngoài: Radio, Karaoke… + Các tên riêng không phải Tiếng Việt: CuBa, Ma-lay-xi-a, In – đô – nê – xi - a… - Cách viết tên riêng Tiếng Việt: + Tên người và tên địa lí: Viết hoa tất cả các âm tiết (con chữ đầu của âm tiết). 12 Ví dụ: Trần Thị Phương Thảo; Thường Tín; Hà Nội. + Các tên riêng khác: (tên cơ quan, tên tổ chức xã hội...) chỉ viết hoa chữ đầu của âm tiết đầu: Ví dụ: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Tiểu học Chương Dương, huyện Thường Tín, TP Hà Nội. Trường Trung cấp Sư phạm Hà Nội. - Chuẩn về phụ âm đầu cần nhớ một số quy tắc và mẹo luật sau: Hiện nay trong nhà trường đang rèn luyện kỹ năng đọc viết thành thạo hai phụ âm l/n. Nếu học sinh đọc sai giáo viên phải sửa ngay cho học sinh, nều không sửa ngay sẽ tạo thành thói quen xấu cho các em. + Phân biệt l/n: . “n” không (hoặc ít) kết hợp với âm đệm (trừ hai âm tiết Tiếng Việt nay ít dùng là noãn và noa). Nhưng ( l ) lại kết hợp được với âm đệm (loè loẹt, lở loét, loà xoà, loang lổ, loắt choắt, luẩn quẩn, liên luỵ, luyến tiếc....) . “n” xuất hiện trong các từ láy âm (no nê, nóng nảy, nao núng, nước non, não nùng...). . “l” xuất hiện trong các từ láy vần (lệt bệt, lõm bõm, lộp độp, lờ đờ, lai rai, lim rim, lơ mơ, lanh chanh, lao xao...). . Một số từ đơn một tiếng dùng để chỉ trỏ có phụ âm đầu viết n (này nọ, ni, nớ, nào). + Phân biệt tr và ch. - Chỉ có ch kết hợp với những vần bắt đầu bằng oa, oă, oe... (choáng mắt, loắt choắt, choai choai, choèn choẹt...). . Từ láy phụ âm đầu phần lớn là ch (chan chát, chán chường, chang chang, chao chát, chăm chú, chăm chút, chắt chiu, chậm chạp, chập chờn...). . Về nghĩa: Những từ chỉ quan hệ trong gia đình viết bằng ch (cha, chú, chị, chồng, cháu, chút, chít...). Chỉ đồ dùng trong gia đình phần lớn viết bằng ch (chạn, chum, chăn, chĩnh, chén, chõng, chiếu, chảo, chậu, chày, chổi...). 13 Chỉ vị trí viết với tr (trên, trong, trước, trái....) chỉ ý phủ định viết với ch (chẳng, chăng, chưa, chớ). + Phân biệt s và x. . Về mặt kết hợp ở trong âm tiết, s không đi với các vần bắt đầu bằng oa, oã, oe, uê. Do đó ta có: (xuề, xoà, xoay xở, xuệch xoạc, xoèn xoẹt, xoen xoét...) mà không bao giờ có soa, seo. Ngoại lệ là “soát” trong “soát lại”, còn đều do diệp (s) trong láy âm (suýt soát, sột soạt, sờ soạng). . Về mặt láy âm: (x) và (s) đều lsy điệp âm đầu, nhưng (s) lại không láy với (x). Do đó cả hai chữ đều phải hoặc là điệp (s) hoặc là điệp (x). Điệp s: sờ soạng, sục sạo, sung sướng, sỗ sàng, san sát, sừng sững, sụt sùi, sang sảng, sững sờ, sắc sảo.... Điệp x: xào xạc, xao xuyến, xôn xao, xanh xao, xao xác, xấp xỉ, xí xoá, xì xào, xinh xẻo, xinh xắn... . s không láy âm với những âm đầu khác, trái lại x láy âm với một số âm đầu khác (loà xoà, lao xao, xoi mói, xích mích...) Về nghĩa: . Tên các thức ăn thường đi với x (xôi, xúc sích, xà lách, lạp xường...) và một số đồ dùng liên quan đến thức ăn (cái xoong, cái xiên nướng thịt...). Không kể tên thức ăn và những đồ dùng vào việc ăn uống, hầu hết các danh từ đều viết với s chứ không viết với x. . Danh từ chỉ người: ông sư, bà sãi, nguyên soái, sứ thần... Tên cây: cây sen, cây sim, cây sung, cây sắn, cây si... Hiện tượng tự nhiên, sao, suối, sương, sông... Hiện tượng thiên nhiên: sấm, sét… Đồ vật: hòn sỏi, song cửa, cái sọt, sợi dây... Động vật: cá sấu, con sóc, con sò, con sên, con sếu. * Ngoại lệ có: xương, cái xe, cái xuồng, cây soan, cây xoài, trạm xá, mùa xuân. + Phân biệt d/gi và r: 14 . r và gi không kết hợp với vần có âm đệm, vần có âm đệm luôn đi với d (doanh nghiệp, duyên nợ, doạ nạt, duy trì, duyệt binh...). . Những tiếng của Hán việt mang thanh ngã, thanh nặng viết với d (diễn biến, diện tích, diệu kì...). Còn mang thanh hỏi, thanh sắc viết với gi (giải thích, giả định, đơn giản, giám sát, giáo sư...). . Một số từ láy bắt chước tiếng động thường có phụ âm đầu r (mưa rơi) rả rích, (nước chảy) róc rách, (tiếng đàn) réo rắt, (sóng vỗ) (rì rào... * c/ k/ q: Người ta viết k trước các chữ cái ghi nguyên âm: e, ê, i, ia, iê (kém, kê, kích, kia, kiến). - Còn viết c trước các chữ cái ghi nguyên âm: a, ă, â, o, ô, ơ, ưa, ươ, ua, uô...(ca, căn, cầm, của, cuốn, cưỡng, cửa). - Còn viết bằng q trước âm điệu “u” (quà, quê, quanh, quả...) * Chuẩn về thanh điệu: + Phân biệt dấu hỏi (?) dấu ngã (~) Ngoài biện pháp dựa vào nghĩa của từ để xác định viết với dấu hỏi (?) hoặc dấu ngã (~) còn có những biện pháp khác: Ví dụ: trong từ láy, thanh điệu thuộc về hai nhóm: sắc, hỏi, không dấu và huyền, ngã, nặng. Dựa vào quy luật này để xác định và viết đúng dấu hỏi / dấu ngã (nghỉ ngơi, nghĩ ngợi, mở mang, mỡ màng...). * Chuẩn về âm cuối: (trường hợp viết i hay y). Trường hợp các âm tiết có nguyên âm “ i ” ở cuối thì viết thống nhất bằng “ i ” trừ “uy”, “oay”, “uây” như (duy, quy, dạy, dậy, nguây nguẩy...). * Chuẩn về vần: Cần nhớ cách viết phân biệt một số các khuôn vần như: - Viết âm đệm “u” bằng chữ cái “o” khi “u” xuất hiện trước các âm chính là các nguyên âm “a” (oa, oac, oai, oam, oan, oang, oao, oap, oat, oay); nguyên âm “ă” (oăc, oăm, oăn, oăng, oăp, oăt); nguyên âm “e” (oe, oen, oeng, oeo, oet và oach oanh). 15 - Viết âm chính là “ươ” khi xuất hiện trong khuôn vần có âm cuối )ươi, tươc, ngươi...). - Viết âm chính là “ưa” khi không có âm cuối đứng sau trong khuôn vần (ưa, mưa, chưa...) - Viết âm chính là “ua” khi có âm cuối đứng sau trong khuôn vàn (ua, mua, chua...). - Viết âm chính là “uô” khi có âm cuối đứng sau trong khuôn vần (muôn, khuôn, chuôi...). - Viết âm chính là “iê” khi xuất hiện trong khuôn vần có âm cuối và khuôn vần có âm đầu phụ âm đứng trước (xiếc, liên, tiêng, kiêu, biêm, thiêt...). Ngoài lệ khuôn vần “iêc” khi không có âm đầu đứng trước cũng viết bằng “iê”. - Viết âm cuối là “o” khi xuất hiện trước nguyên âm “a”: (ao, oao); nguyên âm “e” (eo, oeo). - Viết âm cuối là “u” khi “u” xuất hiện trước nguyên âm “iê” (iêu...); xuất hiện trước nguyên âm “e” (êu). - Vần “ươu” chỉ xuất hiện trong một số trường hợp như (cái bướu, con hươu, con khướu, rượu). Đặc biệt không có từ Hán Việt nào xuất hiện với vần “ươu”. II. THỰC TRẠNG BAN ĐẦU. Nhìn vào thực trạng dạy chính tả hiện nay cho thấy: Để nâng cao chất lượng dạy chính tả còn là một việc làm rất hạn chế. Việc rèn luyện kĩ năng viết chưa được chú ý đúng mức nên học sinh còn viết sai rất nhiều lỗi và chữ viết còn xấu. Qua khảo sát điều tra thực tiễn tôi đã thu thập được một số vấn đề lưu ý sau: 1. Về chương trình: ở bậc Tiểu học, chương trình của môn chính tả có nhiều dạng từ đơn giản đến phức tạp theo lứa tuổi của học sinh. Đồng thời chương trình chính tả ở các lớp cũng có tính đồng tâm. Càng lên lớp trên càng được mở rộng, nâng cao dần và phức tạp hơn. ở lớp 3 phân môn chính tả một tuần có hai tiết với ba hình thức chính tả là: Nghe - viết, trí nhớ và so sánh. Với yêu cầu chữ viết đều nét, rõ ràng, sạch sẽ, 16 không mắc lỗi thông thường, tốc độ viết 70 chữ trong 15 phút. Bài viết dài khoảng 100 chữ. Các yêu cầu và nội dung hình thức của chương trình lớp 3 đòi hỏi học sinh cao hơn hẳn so với các khối lớp 1,2. 2. Thực tiễn của giáo viên: Trong thực tiễn, mỗi buổi lên lớp, giáo viên phải dạy nhiều tiết, soạn giảng nhiều môn, lớp lại có nhiều học sinh nên thường giáo viên chỉ truyền thụ cho học sinh hết kiến thức quy định chép (viết), ít có thời gian để rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Không ít giáo viên chỉ dạy qua loa, chiếu lệ, chứ không đi sâu vào các quy tắc, mẹo luật chính tả, để giúp học sinh viết thông thạo. Tiết chính tả trí nhớ, yờu cầu học sinh phải học thuộc lũng ( thuộc từ mụn tập đọc ) nhớ được cả các dấu thanh, các loại dấu câu. Bản thân giáo viên phát âm cũng phải đọc cho học sinh thật chuẩn. 3. Về phía học sinh: Trên thực tế, đã có một số học sinh có sự chuẩn bị chu đáo, tích cực nên đã học tốt môn chính tả. Cơ bản nắm được quy tắc, mẹo luật chính tả nên đã vận dụng tốt vào các bài tập làm văn, sử dụng câu văn đúng ngữ pháp, viết đúng chính tả. Tuy nhiên vẫn còn một số em chưa ý thức được tầm quan trọng của môn học chính tả. Nên các em chưa có sự chuẩn bị và phương pháp học tập tốt. Nhìn chung phân môn chính tả ở bậc tiểu học chưa được giáo viên và học sinh nhận thức đúng tầm quan trọng của nó trong nhà trường. Mặt khác một số bài còn chưa thực tế và cũng chưa phù hợp với địa phương, các dạng bài tập cũng chưa thực sự kích thích được học sinh học tốt hơn. a, Qua nghiên cứu, khảo sát một số vở bài tập làm văn và chính tả với các vở ghi khác của học sinh lớp 3B học kì I năm học 2011 - 2012. Tôi thấy học sinh còn mắc rất nhiều lỗi chính tả và được thống kê qua bảng sau: Tên bài Chính tả Tập làm văn Tổng số Tổng số Trong đó sai bài lỗi P.A. Đ Vần 30 30 40 35 40 31 17 29 25 Âm cuối 10 17 Than h 7 3 Vở ghi khác 30 37 31 22 13 7 Nhận xét giữa vở Tập làm văn, vở chính tả với các vở ghi khác ta thấy: Vở chính tả học sinh viết sai lỗi ít hơn vở Tập làm văn và các vở ghi khác. Điều đó chứng tỏ rằng trong giờ chính tả học sinh chú ý viết cẩn thận hơn các giờ khác. b, Phân loại lỗi chính tả của học sinh lớp 3B: * Lỗi về phụ âm đầu: Các lỗi về phụ âm đầu mà học sinh sai nhiều nhất là: l/n, ch/tr, s/x, r/d/gi, c/k,q, ng/ngh, gh - g. + l / n: Ví dụ: lan - nan, nặng - lặng, lẽ - nẽ, làn - nàn, nay - lay, lên - nên, nồng lồng, lưng - nưng, lọ - nọ, nắng - lắng... Cụ thể: Trong bài chính tả (nghe – viết) Bài viết “ở lại với chiến khu” Có học sinh Doãn Thị Liên; Nguyễn Thị Hồng viết sai từ rực rỡ thành dực dỡ; cụm từ “ tràn qua lớp lớp cây rừng” viết thành “chàn qua lớp lớp cây dừng” Học sinh: Nguyễn Thu Trang đã viết sai từ “luống hoa” thành “nuống hoa”, “nắng vàng” thành “lắng vàng”, hoa thành hao… + tr / ch: Ví dụ: Chú - trú, trên - chên, trưa - chưa, cha - tra, trong - chong, chọn trọn, chị - trị, chăng - trăng, chín - trín, trồng - chồng, trường - chường, chống trống, chúng - trúng. Cụ thể: Trong bài viết chính tả (nghe - viết) bài kéo co: Học sinh: Lê Thị Phương Anh và Nguyễn Thị Thu Hường đã viết sai từ kéo co thành céo co. Môn tập làm văn học sinh viết bài tả đồ vật, học sinh viết sai nhiều lỗi. + s / x: Ví dụ: xấu - sấu cụ thể viết cả từ “cây sấu - cây xấu”, “xấu xí - sấu sí ”, “hoa sen - hoa xen”, “xen kẽ - sen kẽ”, “sương sa - xương xa”. 18 Cụ thể: Trong bài viết chính tả, có bài phân biệt âm s/x trong phần luyện tập, nhiều học sinh không xác định được đâu là đúng và sai, thành thử các em điền phụ âm đầu vào vần đều bị sai. + r/d/gi: Ví dụ: ra vào - da vào, da dẻ - gia dẻ, con gián - con dán, giá đỡ - dá đỡ, rá đỡ có nghĩa là các em chưa hiểu rõ về nghĩa của từng từ, nếu các em điền phụ âm r vào vần, từ rá đỗ thì nghĩa của nó là: Hạt đậu được ngâm và cài chặt vào chõ hay xoong để 3 - 4 ngày, mỗi ngày cho chõ đỗ đó xuống 1 - 2 lần nước, hạt đỗ đó nở dài dần ra thành rá, rá thường để xào hoặc luộc để ăn. Còn từ giá thì phải đi kèm với tiếng đỡ như: thành từ giá đỡ, giá như, giá mà…; nghĩa của từ giá đỡ là bên dưới họ làm bằng tre chắc chắn để đỡ một vật bên trên như giá trống chẳng hạn. Từ da dẻ - gia dẻ - ra dẻ - da rẻ - ra giẻ. Từ dịu dàng - dịu giàng - rịu ràng. Nhiều em viết sai giữa phụ âm với vần. + c / k / q: Ví dụ: có em viết tiếng quả viết thành coả, kẻo hoặc cẻo, không hiểu âm quy ghép với âm đệm u thì không cần phải viết thêm âm o vào nữa nhưng học sinh vẫn viết, có nghĩa là khi học sinh này khi học từ lớp 1, 2 chưa thông hiểu về các âm ghép với nhau tạo thành tiếng, từ và hiểu nghĩa của nó, bạ đâu là viết đó. Ví dụ như: học sinh Nguyễn Văn Kiên tất cả các môn học, em này tuy được thầy cô dày công để sửa nhưng không nhớ, vậy đó là do đâu? Hay là viết tiếng kêu viết là cêu, kin viết là cin, que - coe - keo, kem - cem, quốc chỉ tổ quốc viết là cuốc chỉ cái cuốc, đó là sai về nghĩa. Có một số em viết sai : Đào Duy Huy, Đỗ Doãn Chiến, Nguyễn Trí Lợi, Đỗ Trọng Trung. - Trong bài chính tả phân biệt phụ âm ng/ngh có hai cách đọc là ngờ đơn (ng), ngờ kép (ngh) hay ng đọc là e - nờ - giê, ngh đọc là e - nờ - giê - hát. Để học sinh phân biệt rõ 2 phụ âm này. Bước đầu học sinh phải hiểu 2 phụ âm này được viết với âm, vần nào là hợp lý. Ví dụ: ngh chỉ được ghép với nguyên âm i, e, iêm như nghỉ, nghĩ, nghiêm. 19 Âm ng ghép với a, ơ, u, ư như: nga, ngơ, ngu, ngư v.v... Nhiều em khi gặp bài tập hoặc viết văn hay môn học khác hay mắc lỗi điền phụ âm ng/ngh: nghiêm nghỉ - ngiêm ngỉ, nghỉ ngơi - ngỉ ngơi, ngủ - nghủ, ngô - nghô, nghiêng - ngiêng. Học sinh Trần Thế Trung hay bị mắc lỗi: “ngọng nghịu” viết là “nghọng nghịu”, ngồi trên ghế - nghồi trên gế. v.v... * Lỗi về phần vần: ưu - iu, trong từ quả lựu - quả lịu, ươu - iêu trong từ con hươu viết thành con hiêu, ưu - iu (con cừu), oa - ao (hoa - hao); uê - êu (hoa hệu); ươu/iêu (con khướu - con khiếu); ưu - iu (cứu bạn - cíu bạn). - ươu - iêu: hươu - hiêu, bướu - biếu, khướu - khiếu, rượu – riệu... - eo - oe: khoẻ - khẻo, khéo - khoé, heo – hoe... - oa - ao: loa - lao, hoa - hao, cao – kao.... Cụ thể: Trong bài chính tả (so sánh) phân biệt ươu/ ưu/ in/ iêu/ êu: Học sinh Doãn Thị Liên, Nguyễn Thị Ly, Đỗ Danh Đạt viết sai từ: “hươu: thành “hiêu”, “kêu cứu” thành “cêu cíu”. Hay trong bài văn (tả cây cối) “Tả cây hoa mà em thích” Học sinh Nguyễn Văn Tùng, Nguyễn Thị Duyên, Nguyễn Văn Tuyển đã viết sai “hoa cam là màu trắng” thì viết thành “hoa kam nà màu chắng” sai cả cụm từ. * Lỗi về âm cuối: Lỗi phổ biến về âm cuối các em thường mắc là i/y. Ví dụ: dày - dài, tuy - tui, tay - tai. N – Ng: nguồn – nguồng; luồn – luồng Ngoài ra còn nhầm một số lỗi khác như: t - p: đẹp - đẹt, nếp – nết… p - m: đẹp - đẹm, tập - tậm,, đệm - đện - đệp… nh - ch: danh sách - danh sánh, quanh quách - quanh quánh,... t - c: thiếc - thiết, chắc - chắt, thắc mắc - thắt mắt,.... vd: đọc viết một đoạn văn: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan