Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn nâng cao chất lượng dạy học vật lí 7 ở vùng đặc biệt khó khăn....

Tài liệu Skkn nâng cao chất lượng dạy học vật lí 7 ở vùng đặc biệt khó khăn.

.PDF
33
2445
54

Mô tả:

Cư’klông Năm 2015 I. PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lý do chọn đề tài. Thực hiện chủ trương : “ Mỗi giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục thực hiện một đổi mới trong phương pháp dạy học và quản lí. Mỗi trường có một kế hoạch cụ thể về đổi mới phương pháp dạy học. Mỗi phòng GD&ĐT có một chương trình đổi mới phương pháp dạy học”. Đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng nâng cao chất lượng Giáo dục, đặc biệt quan tâm tới HS dân tộc thiểu số, huy động các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường, các bậc phụ huynh cùng chăm lo sự nghiệp giáo dục. Đứng trước yêu cầu dạy và học hiện nay ngày càng cao, vấn đề nâng cao chất lượng dạy và học trong trường THCS là một vấn đề vô cùng bức bách đặt ra cho mỗi giáo viên. Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Vật lý tôi nhận thức sâu sắc về bộ môn mình đảm nhận có tầm quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của bậc THCS có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh một số kiến thức vật lý cơ bản ở trình độ phổ thông cơ sở. Bước đầu hình thành ở học sinh các kỹ năng cơ bản thói quen làm việc khoa học, góp phần hình thành ở học sinh các năng lực và các phẩm chất mà mục tiêu giáo giục bậc THCS đề ra, cũng như góp phần giáo dục học sinh ý thức, thái độ, trách nhiệm đối với cuộc sống gia đình xã hội và môi trường. Môn vật lý ở trường THCS có vị trí cầu nối quan trọng một mặt nó phát triển hệ thống kiến thức kỹ năng và thái độ mà học sinh đã lĩnh hội và hình thành ở tiểu học, mặt khác nó góp phần chuẩn bị cho học sinh những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để tiếp tục học lên trung học phổ thông và trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc tham gia lao động sản xuất, đòi hỏi những hiểu biết nhất định về vật lí, muốn có chất lượng tốt, phải được bắt đầu ngay từ các lớp dưới. Vì vậy với người giáo viên kiến thức vững vàng chưa đủ mà phải luôn đọc, tìm tòi cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với từng giai đoạn, từng khu vực. 1 Từ những lí do nêu trên tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng dạy học vật lí 7 ở vùng đặc biệt khó khăn”. I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. - Trong nội dung đề tài này mục đích và những điều mà học sinh cần đạt được là : Đề tài đưa ra cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về hoạt động dạy học vật lí 7 ở trường THCS Nguyễn Trãi là một xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn nhằm phát huy tính tích cực của học sinh. Từ đó đưa các biện pháp dần nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học môn vật lý lớp 7, cách thức thực hiện các biện pháp đó, và kết quả của các biện pháp đó đem lại trong quá trình dạy học môn vật lí 7 ở trường THCS Nguyễn Trãi. - Nhiệm vụ cụ thể của đề tài: + Về phía GV : Chỉ ra những hạn chế, nhược điểm của hoạt động dạy do dạy học theo chương trình và phương pháp mới, nên nhiều giáo viên còn bỡ ngỡ trong việc dạy và học, nhất là gặp rất nhiều khó khăn đối với vùng đặc biệt khó khăn cũng như tổ chức đạt hiệu quả khi dạy học, chưa lấy học sinh làm trung tâm, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh nên hiệu quả bài dạy chưa cao và chất lượng dạy học môn vật lý còn hạn chế để từ đó đưa ra biện pháp khắc phục những nhược điểm đó. + Về phía HS: Thấy được vai trò chủ thể của hoạt động học để từ đó tích cực chủ động tham gia chiếm lĩnh tri thức nâng cao hiệu quả học tập. Biết hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau thông qua hoạt động nhóm. Sau mỗi bài học, học sinh tự rút ra kết luận của bài và làm được các câu vận dụng trong sách giáo khoa, sách bài tập vật lí 7; và học sinh khá giỏi còn có thể giải được nhiều dạng bài khác ngoài sách giáo khoa và sách bài tập. Tự trau dồi vốn kiến thức cũng như kinh nghiệm sống của mình. Muốn vậy đổi mới nội dung và phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy học phải được quan tâm trong các giờ học chính khóa, đồng thời việc dạy học lồng ghép các hoạt động ngoại khóa về vật lí cũng cần được quan tâm đúng mức hơn. 2 Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn vật lý 7 nhiều năm liền ở trường THCS Nguyễn Trãi tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Nâng cao chất lượng dạy học Vật lí 7 ở vùng đặc biệt khó khăn” ở trường THCS Nguyễn Trãi để góp phần tăng lòng nhiệt tình, say mê nghề, góp phần tự bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn, nghiên cứu khoa học. Đồng thời với mong muốn được trao đổi kinh nghiệm giảng dạy môn vật lý với quý đồng nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn vật lý 7 ở vùng đặc biệt khó khăn nói riêng cũng như ở vùng khác trong toàn xã hội . I.3. Đối tượng nghiên cứu. - Nội dung kiến thức vật lí trong chương trình vật lí lớp 7 . - Hoạt động dạy học vật lí 7 của trường trong các năm học 2014-2015,20152016. - Cơ sở nghiên cứu: Giáo viên trực tiếp dạy môn vật lý ở trường THCS Nguyễn Trãi. I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu biện pháp tổ chức dạy học nhằm nâng cao chất lượng học tập cho học sinh trong học tập môn Vật lí 7 của học sinh trường THCS Nguyễn Trãi. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 8/2014 đến 01/2016. I.5.Các phương pháp nghiên cứu. a. Phương pháp cơ bản : - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến lí luận dạy học vật lí, các phương pháp dạy học vật lí THCS, dạy học phát triển năng lực tư duy học sinh, các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa ... - Phương pháp điều tra, phương pháp đàm thoại, phương pháp thực nghiệm sư phạm ( áp dụng đề tài vào dạy học thực tế từ đó thu thập thông tin để điều chỉnh cho phù hợp và bổ xung kiến thức cho chương trình). - Phương pháp tổng kết - đúc rút kinh nghiệm . b. Phương pháp hỗ trợ : 3 - Phương pháp dùng hệ thống câu hỏi, phương pháp thống kê, phương pháp quan sát, phương pháp kiểm tra đánh giá. II. PHẦN NỘI DUNG. II.1. Cơ sở lý luận : Quan điểm dạy học là những định hướng tổng thể cho các hành động phương pháp, trong đó có sự kết hợp giữa các nguyên tắc dạy học làm nền tảng, cơ sở lí thuyết của lí luận dạy học, những điều kiện, hình thức tổ chức dạy học, những định hướng về vai trò của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học. Để nâng cao chất lượng dạy học cần đổi mới phương pháp dạy học và nắm rõ bản chất của dạy học tích cực… * Định hướng đổi mới phương pháp dạy học: Cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học là hướng tới hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, chống lại thói quen học tập thụ động. Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của giáo viên và học sinh, đổi mới hình thức tổ chức dạy học, đổi mới hình thức tương tác xã hội trong dạy học,…với định hướng: - Bám sát mục tiêu giáo dục phổ thông ; Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể, với đặc điểm lứa tuổi học sinh, với cơ sở vật chất, các điều kiện dạy học của nhà trường, với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học. Mục tiêu giáo dục HS phát triển toàn diện nói chung và mục tiêu dạy học cụ thể về kiến thức, kĩ năng, phát triển tư duy, giáo dục thái độ cho HS. Bám sát mục tiêu giáo dục phổ thông được thể hiện cụ thể trong từng chương, từng bài theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Để đạt được điều đó giáo viên phải lên kế hoạch giảng dạy cho từng bài cụ thể, thấy rõ ý nghĩa của việc soạn bài: Là một công việc quan trọng nhất trước khi lên lớp của giáo viên để đảm bảo các yêu cầu về mặt giáo dục trong nhà trường phổ thông, trên bài soạn là toàn bộ công việc của thầy và trò ở trên lớp, bài soạn tốt, chu đáo sẽ giúp giáo viên thể hiện tốt năng lực, trình độ của mình. 4 Trong bốn mục tiêu giáo dục thì việc dạy học phát triển tư duy cũng cần được quan tâm đúng mức hơn. Dạy học phát triển tư duy là: Dựa vào hình tượng, con người có thể tư duy một cách liên tục và nhất quán. Tư duy bằng hình tượng có 2 mức: + Mức độ thấp: Tư duy hình tượng sử dụng những đường cong biểu đồ, màu sắc, đồ thị, hình ảnh và hàng loạt các phương tiện khác để biểu diễn các mối tương quan rất khó biểu diễn bằng lời. Kiểu tư duy này rất thường gặp ở học sinh THCS. Ví dụ: Học sinh có thể vẽ sơ đồ thí nghiệm, vẽ sơ đồ cấu trúc về mô hình cần tìm trên giấy sau đó tiến hành lắp ráp các dụng cụ hoặc chi tiết theo sơ đồ rồi tiến hành thao tác với bộ dụng cụ thí nghiệm hoặc mô hình đó. ( chương điện học vận dụng hình thức tu duy này rất nhiều). + Mức độ cao: Tư duy mà không cần viết, vẽ hay nhìn một cái gì đó mà hoàn toàn do tưởng tượng trong đầu. Ví dụ: HS có thể hình dung sơ đồ phương án thí nghiệm về tác dụng từ của dòng điện lên nam châm thử, lên sắt…mà không cần viết hay vẽ ra giấy. Phối hợp cả hai kiêu tư duy hình tượng và tư duy ngôn ngữ. Sáu cấp độ tư duy: Biết; Hiểu; Áp dụng; Phân tích; Đánh giá; Sáng tạo. Muốn phát triển tư duy đối với HS phải áp dụng kiểu dạy tích cực, dạy cho HS cả về kiến thức, cả về phương pháp nhất là phương pháp dạy học. Đặc biệt là các hoạt động tự lực theo nhóm, theo cá nhân học sinh phải được rèn luyện, bộc lộ và phát huy. Cụ thể: Học sinh phải đặt ra nhiều giả thuyết khi giải quyết một vấn đề về vật lí, phải có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề, lựa chọn biện pháp tối ưu, học sinh không được vội vã, không được cứng nhắc khi giải quyết một tình huống mới. - Kết hợp với việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp dạy học truyền thống. Trong dạy học vật lí sử dụng nhiều phương pháp dạy học phù hợp với nội dung và kiểu bài lên lớp. các phương pháp nghe, nói, đọc, ghi chép, làm báo cáo thực hành, làm thí nghiệm, thảo luận, điều tra nghiên cứu…Được đặt vào những tình huống thực tế, không dập theo những khuôn mẫu sẵn có, nó bộc lộ tiềm năng sáng tạo, 5 giáo viên không chỉ cung cấp tri thức mà còn cần hướng dẫn hoạt động mới đem lạ hiệu quả được. Tổ chức nhiều hình thức học tập: Hình thức học tập toàn lớp, hình thức học tập cá nhân, và đặc biệt lưu ý hình thức học tập hợp tác trong nhóm nhỏ ( theo cặp và theo nhóm). Có những câu hỏi, những vẫn đề được đặt ra tương đối khó và phức tạp, đòi hỏi phải có sự hợp tác tìm tòi, thảo luận, tranh luận ( ý kiến của mỗi cá nhân được điều chỉnh, khẳng định hay bác bỏ) để người học nâng mình lên một trình độ mới. - Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học và đặc biệt lưu ý đến những ứng dụng của công nghệ thông tin. Vật lí là bộ môn khoa học thực nghiệm, tư tưởng chủ đạo của SGK Vật lí 7 là nội dung kiến thức mới được hình thành phần lớn thông qua các thí nghiệm và thực hành. Điều đó tích cực hóa hoạt động của HS và quan trọng hơn còn rèn luyện kĩ năng sử dụng thiết bị, đồ dùng trong cuộc sống, rèn luyện thái độ, đức tính kiên trì, tác phong làm việc của những người làm khoa học trong thời đại công nghệ. Sử dụng các dụng cụ thí nghiệm là yêu cầu bắt buộc trong giảng dạy và học tập môn vật lí. Sử dụng một cách hợp lí và hiệu quả không những nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn làm cho việc học tập của HS hứng thú và nhẹ nhàng hơn. - Phối hợp nhiều hình thức tổ chức hoạt động học tập ngoài lớp học. Chú trọng Việc “Học” đi đôi với “Hành”. Hoạt động ngoại khóa là một thuật ngữ dùng để chỉ các hình thức hoạt động kết hợp dạy học với vui chơi ngoài lớp, nhằm mục đích gắn việc học trong nhà trường với thực tế xã hội. Dạy học ngoại khóa đem lại những tác dụng như: Các hoạt động mang tính chất vừa vui vừa học giúp cho học sinh hiểu sâu, hiểu rộng về kiến thức vật lí, liên hệ giữa kiến thức vật lí và kiến thức trong đời sống; Tạo hứng thú học tập cho học sinh, qua đó góp phần phát triển năng lực tư duy của học sinh. Khi tiến hành cần đảm bảo các nguyên tắc: Phải tôn trọng tinh thần tự nguyện tham gia, tính độc lập sáng tạo của học sinh nhưng phải có sự hướng dẫn tổ chức chu đáo của 6 giáo viên; Nội dung hoạt động phải gắn với chương trình học, mang tính khoa học và hình thức hoạt động phải phong phú đa dạng. * Bản chất của dạy và học tích cực là “ lấy học sinh làm trung tâm” : Khai thác động lực học tập của người học để phát triển chính họ; Coi trọng lợi ích nhu cầu của cá nhân người học, đảm bảo cho họ thích ứng với đời sống xã hội. II.2. THỰC TRẠNG a. Thuận lợi- khó khăn. Ban giám hiệu trường THCS Nguyễn Trãi xác định nhiệm vụ cần đẩy mạnh, nâng cao một bước chất lượng giáo dục của nhà trường, do đó tạo điều kiện thuận lợi trong công tác giảng dạy cho tất cả các giáo viên nói chung và cho giáo viên Vật lí nói riêng. Điều đó thể hiện rõ nhất ở việc tuy chưa xây dựng được phòng học bộ môn theo chuẩn nhưng nhà trường đã tận dụng một phòng học để phục vụ cho bộ môn Lí- Công nghệ. Khuyến khích giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động dạy học chính khóa cũng như ngoại khóa nhằm đa dạng các hình thức tổ chức hoạt động dạy học. Một số học sinh tỏ ra hứng thú khi học môn Vật lý 7 vì SGK in đẹp, kênh hình và kênh chữ rõ ràng, các câu hỏi trong sách giáo khoa gắn gọn và dễ hiểu. Đặc biệt các em cảm thấy mình có vai trò quan trọng trong giờ học khi được tự tay làm thực nghiệm, rút ra kết luận và vận dụng kiến thức đã học vào giải thích các hiện tượng vật lý các em thường gặp trong thực tế. Tuy nhiên năng lực tư duy còn nhiều hạn chế nên các em còn nhiều bỡ ngỡ trong các hoạt động nhận thức vẫn đòi giáo viên đọc cho chép một số câu trả lời, hiệu quả của thói quen tự đọc sách chưa cao. Đặc biệt kỹ năng thực hành của học sinh một số học sinh rất yếu, việc thảo luận theo nhóm còn nhiều lúng túng, nhiều học sinh còn có thói quen trông chờ ỷ lại. Bên cạnh đó đặc điểm tâm sinh lí của các em có nhiều biến đổi cũng ảnh hưởng phần nào tới sự tập trung chú ý học tập của học sinh. Ngoài giờ lên lớp đa số các em phải phụ giúp gia đình thời gian dành cho tự học hạn hẹp. b. Thành công – hạn chế: Sau một thời gian giảng dạy tôi nhận thấy dạy học vật lí 7 đã đạt được những thành công nhất định như về phía giáo viên làm chủ được hoạt động dạy, nắm bắt 7 được mục tiêu dạy học, từng bước đổi mới phương pháp dạy học; Đa số giáo viên đã biết sử dụng và bảo quản các dụng cụ thí nghiệm, biết sửa chữa thay thế các thí nghiệm đơn giản, một số trường điểm đã phát động HS cùng tham gia làm đồ dùng dạy học. Kết quả học tập của một số HS tương đối tốt, khả năng tương tác với thầy với bạn tốt, khả năng tư duy tốt…song bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế. Việc tổ chức dạy học giáo viên vẫn còn giảng nhiều, vẫn đọc cho học sinh ghi câu trả lời, chưa phù hợp với mọi đối tượng HS, chưa hướng dẫn học sinh sử dụng triệt để sách giáo khoa, còn lúng túng trong việc tổ chức học sinh thực hành vật lý theo nhóm, phân bố trong giảng dạy trong từng hoạt động chưa hợp lý, hiệu quả bài chưa cao ...Một số GV sử dụng kết hợp SGK với SGV khi thiết kế bài học chưa thực sự hiệu quả, nhiều GV thường bị “cháy” giáo án , không thực hiện đầy đủ các mục tiêu dạy học. Thực tế dạy học trong nhiều năm qua ở một số trường GV còn nặng về dạy chay, không sử dụng hoặc chưa sử dụng hết đồ dùng dạy học trong khi đây là một tiêu chuẩn trong quy chế chuyên môn. Trong dạy học cũng đã tiến hành một số hình thức tổ chức ngoại khóa nhưng còn mang tính riêng lẻ rời rạc, chưa có kế hoạch cụ thể rõ ràng dẫn tới hiệu quả chưa cao, hoạt động ngoại khóa đôi khi chưa được quan tâm đúng mức. Về phía học sinh: với một số bài học tương đối dài thì khả năng tập trung chú ý của một số học sinh (nhất là học sinh yếu và một số em nam hiếu động) còn hạn chế. Học sinh chưa thường xuyên lựa chọn được hoạt động phù hợp, chưa sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức liên môn ( kiến thức hình học vào vẽ hình trong phần quang học ví dụ đo góc và vẽ hai góc i’= i) của một số học sinh gặp nhiều khó khăn... c. Mặt mạnh- mặt yếu. Toàn bộ GV nhà trường đều đã qua các lớp tập huấn về thay SGK, có đủ năng lực giảng dạy bộ môn. Tuy nhiên GV tiếp cận với nội dung và phương pháp giảng dạy mới gặp không ít khó khăn dạy học chưa thật sát với từng đối tượng học sinh, đặc biệt là khi áp dụng phương pháp này vào với vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kĩ năng sử dụng thiết bị dạy học còn hạn chế, do đó chất lượng và hiệu quả giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra… Về phía học sinh, về cơ bản các em đều ngoan, có ý thức học tập tốt, hứng thú học tập, chủ động lĩnh hội tri 8 thức...bên cạnh đó vẫn còn một số học sinh ham chơi, chưa xác định rõ động cơ học tập, thụ động, nhút nhát trong hoạt động nhóm, trong giao tiếp với bạn, với thầy. Một số ít học sinh còn đọc yếu, viết chậm, viết sai chính tả ảnh hưởng đến học tập bộ môn. Giao bài tập về nhà một số HS còn làm với tính chất chống đối. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động. * Nguyên nhân thành công: Được Ban giám hiệu quan tâm, chỉ đạo sát sao , do được đảm bảo về cơ sở vật chất, có thiết bị thí nghiệm, đồ dùng dạy học. Giáo viên nắm vững kiến thức, kĩ năng dạy học, có phương pháp dạy học phù hợp với đặc thù bộ môn, có lòng yêu nghề mến trẻ.... * Nguyên nhân hạn chế: Về phía giáo viên, do thói quen sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống đến mức lạm dụng ( ví dụ vấn đáp, thuyết trình trong quá nhiều trong một tiết dạy), thói quen dạy học thụ động và nặng về đối phó thi cử. Thiếu thiết bị thí nghiệm, đồ dùng dạy học và qua thời gian sử dụng có thể kém chất lượng nên các dụng cụ thí nghiệm chỉ được sử dụng trong một số bài tượng trưng khi thao giảng. Một bộ phận giáo viên chưa thực sự tâm huyết, chưa mạnh dạn, chưa đầu tư nhiều thời gian và công sức trong việc tìm tòi các biện pháp dạy học cho phù hợp với điều kiến thực tế của đơn vị trường, với nhu cầu học tập của mọi đối tượng học sinh.Về phía học sinh đại đa số là đồng bào dân tộc ít người, thường ngại giao tiếp, thụ động trong các hoạt động, chưa xác định rõ động cơ học tập, ít tài liệu tham khảo. * Các yếu tố tác động: Trường THCS Nguyễn Trãi đóng trên địa bàn xã Cưklông nằm ở phía Đông – Bắc của huyện Krông Năng, cách trung tâm huyện khoảng 27 km, với diện tích 7740ha. Có 8 dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn bàn xã với 1212 hộ( trong đó hộ nghèo 239 hộ, cận nghèo 367 hộ) nhân dân chủ yếu thu nhập từ cây cà phê. Từ năm 2010 đến nay giá thu mua cà phê chè tăng nên nhân dân trên địa bàn cũng dần ổn định về kinh tế. Xã đã có đường liên xã và một số đường cấp phối tại các thôn buôn trên địa bàn xã. Tuy nhiên địa bàn xã rộng, địa hình nhiều khe suối, đi lại rất khó khăn. Một số học sinh ở các thôn Eabir, Ea Ngát nhà cách trường trên 10km việc đi lại gặp nhiều khó khăn nhất là vào mùa mưa có HS không qua được suối phải nghỉ buổi học. Bên cạnh đó trình độ dân trí cuả một 9 bộ phận người dân còn thấp, một số gia đình chưa có sự quan tâm đúng mức tới việc học của con em, phó mặc cho nhà trường. Việc phối hợp giữa giáo dục gia đình- nhà trường- xã hội chưa được quan tâm và phát huy hiệu quả tối đa… e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra. - Môn vật lý ở trường THCS có vị trí cầu nối quan trọng, môn Vật lý được đưa vào giảng dạy ngay từ lớp 6. Vậy đối với HS lớp 7 bước đầu đã nắm bắt được phương pháp học tập bộ môn, nhưng với nội dung mới mẻ hơn. Vậy thì việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học nhằm năng cao chất lượng dạy học phải luôn được quan tâm trong các giờ học chính khóa, đồng thời dạy cần lồng ghép các hoạt động ngoại khóa về vật lí để góp phần nâng cao chất lượng dạy học vật lí 7. - Như đã nêu ra ở trên, một số bài học có nội dung khá dài, phải làm sao để đảm bảo mục tiêu của bài học mà vẫn thu hút được sự chú ý cũng như thái độ học tập tích cực của HS, theo tôi nếu ta chuẩn bị một số nội dung của bài ra bảng phụ thì sẽ tiết kiệm được thời gian và khi treo bảng phụ trên bảng thì HS sẽ tập trung chú ý hơn là yêu cầu các em theo dõi SGK. Thiết bị thí nghiệm, đồ dùng dạy học có nhưng còn thiếu nhiều, kỹ năng thực hành, thực nghiệm vật lý của học sinh một số học sinh rất yếu, vậy GV cần dành công sức để làm đồ dùng dạy học và gợi ý cho học sinh chế tạo đồ dùng học tập với những nguyên liệu có thể dễ dàng tìm được, không gây tốn kém cho học sinh. Qua đó khơi dậy tiềm năng sáng tạo cuả các em; Còn đối với việc thực hành thảo luận theo nhóm còn nhiều lúng túng, nhiều học sinh còn có thói quen trông chờ ỷ lại vào kết quả học tập của bạn khác, thì GV cần quan tâm động viên khuyến khích các em tham gia, hướng dẫn cụ thể HS phân công nhiệm vụ trong nhóm. Qua đó góp phần giúp cho học sinh hoàn thiện bản thân, tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh sau này tham gia vào các hoạt động xã hội. Giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức học sinh thực hành vật lý theo nhóm: Sử dụng nhóm tùy tiện, không có sự lựa chọn phù hợp với nội dung học tập, trong nhóm chỉ có một số thành viên tham gia, những thành viên khác thụ động, vì vậy kết quả làm việc của nhóm thực chất là kết quả làm việc của một hai thành viên trong nhóm; Tổ chức báo cáo kết quả làm việc theo nhóm không khoa học; 10 Giáo viên quản lí thời gian hoạt động nhóm không chặt chẽ dẫn tới tốn nhiều thời gian cho một hoạt động. Còn việc dẫn đến tình trạng “cháy’ giáo án là do GV tự làm khó cho bản thân mình ( có thể đưa vào bài học những kiến thức khó hơn mức độ đề cập trong SGK dẫn đến thiếu thời gian dạy) hoặc do chưa quen với đổi mới phương pháp dạy học, do thiếu thiết bị dạy học ( phải cho lần lượt từng nhóm làm thí nghiệm). - Có phòng học bộ môn nhưng là tận dụng một phòng học vừa kê các tủ dùng để thiết bị thí nghiệm của môn Vật lí và môn Công nghệ, vừa kê bàn cố định cho thực hành theo nhóm. Như chúng ta đã biết, hầu hết các bài học trong SGK vật lí 7 đều có thí nghiệm và được tôi tiến hành ở phòng bộ môn mỗi lớp với số lượng gần 35 HS ngồi theo hai dãy như vậy thì HS quan sát bảng, viết bài cũng gặp nhiều khó khăn và cũng gây khó khăn trong việc quản lí HS của GV. Với những giờ học có thêm trình chiếu thì lắp thêm máy chiếu với diện tích phòng học như vậy quả là rất chật hẹp. Như ta đã biết bên cạnh những học sinh năng động, nhận thức nhanh ham học… thì vẫn còn một số học sinh ham chơi, chưa tự giác học tập, thụ động trong học tập, nhút nhát trong hoạt động nhóm, trong giao tiếp với bạn, với thầy vậy việc tạo ra các hoạt động ngoại khóa vật lí lôi cuốn học sinh tham gia lành mạnh là hết sức cần thiết, học sinh tham gia làm đồ thí nghiệm, làm mô hình, tham gia nhóm viết báo tường… sẽ tránh được tình trạng học sinh ngồi một thời gian dài trước trò chơi điện tử. Việc tham gia trả lời các câu hỏi trong hội vui vật lí sẽ giúp các em bớt nhút nhát, mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Đối với việc tổ chức các hoạt động ngọai khóa về vật lí: Một số hình thức tổ chức ngoại khóa cũng đã được tiến hành như hoạt động ngoại khóa mang tính chất cá nhân ví dụ như một số thí nghiệm đơn giản giáo viên cũng đã gợi ý cho học sinh tự tiến hành ngoài giờ nhưng đôi khi lại không nắm được thí nghiệm đó đã được học sinh tiến hành hay chưa? Kết quả như thế nào? Học sinh có gặp khó khăn gì liên qua đến thí nghiệm mà chưa giải quyết được hay không?...Hoạt động ngoại khóa còn mang tính riêng lẻ rời rạc được tiến hành khi có điều kiện bột phát, chưa có kế hoạch cụ thể rõ ràng khi tiến hành thì lúng túng gặp khó khăn 11 vướng mắc mâu thuẫn và từ đó dẫn tới là hiệu quả chưa cao. Hoạt động ngoại khóa đôi khi chưa được quan tâm đúng mức, giáo viên ngại tổ chức vì thời gian đầu tư cho việc lên kế hoạch hoạt động ngoại khóa hạn hẹp, không có thời gian theo dõi học sinh hoạt động ngoại khóa, phần nữa là nguồn kinh phí tổ chức cho học sinh hoạt động ngoại khóa? Đôi khi cho rằng với nội dung kiến thức trong khung chương trình là đủ, tổ chức các hoạt động ngoại khóa sẽ là mất thời gian và sẽ tạo thêm áp lực cho học sinh. Thực ra hoạt động ngoại khóa tuy có làm mất thêm thời gian của học sinh, nhưng tác dụng của hoạt động ngoại khóa là không thể phủ nhận được, và nội dung mà hoạt động ngoại khóa vật lí cũng là xoay quanh những nội dung đã được học trên lớp nhưng giúp học sinh hiểu sâu hiểu rộng hơn và những hoạt động động mang tính chất vừa vui vừa học đó càng góp phần tạo thêm hứng thú học tập cho học sinh. Với những phân tích ở trên tôi hi vọng việc tổ chức các hoạt động chính khóa và ngoại khóa vật lí ở trường THCS Nguyễn Trãi sẽ đem lại những hiệu quả dạy học đáng ghi nhận và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh. * Chất lượng HS trước khi thực hiện đề tài môn vật lí HS khối 7 năm học 20132014: Tổng số HS 69 học sinh đạt trung bình trở lên là 60 HS chiếm tỉ lệ 87%. II. 3. CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP. II.3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn của quá trình dạy học vật lí 7, tôi đưa ra mục tiêu của giải pháp, biện pháp như sau: - Đối với giáo viên: Đề ra những biện pháp khắc phục nhược điểm của quá trình dạy học quán triệt tốt các yêu cầu về mặt giáo dục và giáo dưỡng nhằm từng bước nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. - Đối với HS: Luôn cải tiến phương pháp học tập bộ môn thông qua đội ngũ cán sự, nhóm học tốt, đôi bạn cùng tiến, phụ đạo bồi dưỡng HS thường xuyên, tổ chức nhiều hoạt động ngoại khóa mang tính chất cá nhân, nhóm, tính chất rộng rãi. Mục tiêu cuối cùng là hình thành cho học sinh một số biện pháp học tích cực tổ chức các hoạt động dạy học chính khóa và ngoại khóa phát huy được tính tích cực trong học tập, từ đó học sinh có thể áp dụng được các phương pháp học tích 12 cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức, giúp các em nắm vững kiến thức, kĩ năng, phát triển tư duy, giáo dục thái độ cho HS để học tốt vật lí 7 và tiếp tục học lên. II.3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. Muốn nâng cao chất lượng dạy học vật lí 7, tôi tiến hành biện pháp cụ thể như sau : a. Phải cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản vững chắc và có hệ thống. Mọi vấn đề trong sách giáo khoa vật lí 7 không được trình bày trọn vẹn, mà được trình bày dưới hình thức “mở”. Như vậy người thầy dạy cần phải có kiến thức sâu, rộng, cụ thể: Tất cả những ô trống trong SGK học sinh phải được bàn bạc rồi mới điền được; Tất cả các kết quả trong SGK cần làm thí ngiệm rồi mới đi đến kết luận. Mỗi giáo viên phải nghiên cứu kĩ chương trình sách giáo khoa, dạy đủ và dạy đúng theo chuẩn kiến thức kĩ năng , tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường theo hướng dẫn của Bộ. Chú ý các khái niệm, các định luật, các thuyết vật lí, những hiểu biết về ứng dụng của vật lí. Cụ thể: -Những lưu ý khi giảng dạy chương I: Quang học. Cần nói kĩ cho học sinh các khái niệm. Tia sáng, điểm sáng đó chỉ là một mô hình khái niệm trừu tượng, đó là phương tiện giúp cho việc khảo sát sự truyền của ánh sáng theo quan điểm hình học được rõ ràng. Lưu ý: Cả ảnh thật và ảnh ảo đều nhìn thấy nếu đặt mắt đúng vị trí, muốn nhìn thấy ảnh thì mắt phải hứng được chùm tia phản xạ. Môi trường trong suốt: Là môi trường ánh sáng truyền qua hoàn toàn, trong môi trường trong suốt ta nhìn thấy rõ các vật. Phần quang hình này nghiên cứu dựa trên hai định luật cơ bản là định luật truyền thẳng ánh sáng và đinh luật phản xạ ánh sáng ( là cơ sở để nghiên cứu các dụng cụ quang học gương phẳng, gương cầu lồi, gương cầu lõm và giải thích các hiện tượng bóng tối, bóng nửa tối, nhật thực, nguyệt thực xuất phát từ những thí nghiệm gần gũi với học sinh và đi đến các kết luận, biểu thức, định luật). Bài 3 là bài khó, kiến thức phải vững ( lưu ý: Sự truyền thẳng ánh sáng, vật chắn sáng, nguồn sáng). Các bài về gương có tính chất giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho học sinh, học sinh được làm quen với các dụng cụ kĩ thuật và có tác dụng giáo dục thế giới quan cho học sinh, học sinh hiểu được con người biết chế tạo ra các dụng cụ khắc phục hạn 13 chế các giác quan. Hiểu được ứng dụng của gương trong giao thông ( Ví dụ lắp gương cầu lồi ở phía trước ô tô, xe máy giúp người lái xe quan sát phía sau; lắp gương cầu lồi lớn ở khúc cua, đường đèo gấp khúc để phòng ngừa tai nạn…) trong đời sống ( ví dụ gương cầu lõm hứng năng lượng ánh sáng mặt trời để nung nóng vật, đun nước…), trong quân sự ( lắp các gương phẳng ở dưới hầm để quan sát phía trên mặt đất…) - Những lưu ý khi giảng dạy chương II: Âm học. Lưu ý phần thí nghiệm thực hành, liên hệ thực tế. Học sinh sau khi học phải giải thích được hiện tượng sấm sét, tiếng vang…Có ý thức bảo vệ sức khỏe của bản thân (không ngoáy tai bằng vật cứng gây thủng màng nhĩ), bảo vệ môi trường sống ( trồng cây xanh chống ô nhiễm tiếng ồn). - Những lưu ý khi giảng dạy chương III: Điện học. Sự nhiễm điện do cọ sát, hai loại điện tích, sơ lược cấu tạo nguyên tử: Tất cả các thí nghiệm về nhiễm điện đều rất khó thành công: Cọ sát nhựa vào len dạ thủy tinh vào lụa ( giấy xé nhỏ đưa vào hộp nhựa đưa tới lớp) để thành công khi làm thí nghiệm cần lưu ý: Chuẩn bị thêm các mảnh len, dạ, nhựa to, độ ráp càng cao càng tốt. Có thể sử dụng bút thử điện thông thường hoặc bút thử điện thông mạch, nhưng đều phải làm trước. Có thể sử dụng và làm thí nghiệm mô phỏng. Khi dạy cho học sinh khẳng định chỉ có hai loại điện tích, cách kí hiệu. Khi nói về sơ lược cấu tạo nguyên tử, không nên trình bày quá dài nên để học sinh tự nghiên cứu SGK và trình bày phương án. Dòng điện, nguồn điện, sơ đồ mạch điện, vật dẫn điện, vật cách điện, sơ lược về dòng điện trong kim loại. Khi trình bày dòng điện, nguồn điện như SGK. Sơ đồ mạch điện: Đây là phần rất quan trọng để HS cấp THCS đưa vào trí nhớ và ghi nhớ suốt đời do đó GV dạy phải chậm và rõ, HS phải hiểu, thuộc các kí hiệu, vận dụng thành thạo để vẽ sơ đồ. Việc phân biệt chất dẫn điện và chất cách điện thì đơn giản nhưng tránh nhầm lẫn: Chất dẫn điện ứng dụng làm vật dẫn điện, Chất cách điện ứng dụng làm vật cách 14 điện ( Vẫn rất cần thiết cho nhóm HS tiến hành với những vật như đoạn dây đồng, đoạn dây nhôm, đoạn gỗ, đoạn vỏ nhựa dây điện…để HS tự phân loại) Sơ lược dòng điện trong kim loại: Lấy ví dụ cần chú ý đến tính thực tiễn. Các tác dụng của dòng điện, cường độ dòng điện, hiệu điện thế và cách đo. Các thí nghiệm đều thành công, tuy nhiên kéo dài, khi giảng dạy GV cần lưu ý: Mạch điện nhất thiết phải lắp trên bảng điện để Hs quan sát. Tăng nguồn trong một số thí nghiệm thành 4 pin,6 pin để cho thí nghiệm dễ thành công và diễn ra nhanh hơn ( Thí nghiệm Hình 24.1) Trong thí nghiệm về tác dụng nhiệt của dòng điện (Hình 22.2 SGK) ta thay thanh nhôm bằng một sợi dây nhôm có tiết diện nhỏ hơn. Sau khi kết thúc thí nghiệm phải lấy giẻ lau khô cực của ăcquy. Đo cường độ dòng điện phải lưu ý HS mắc ampe kế nối tiếp với vật cần đo. Hiệu điện thế là một khái niệm trừu tượng nên khi dạy cần ngắn gọn dễ hiểu. Khi mắc vôn kế phải mắc song song với vật cần đo ( cho so sánh với cách mắc ampe kế để HS tránh nhầm lẫn). Mạch nối tiếp, mạch song song và an toàn khi sử dụng điện. Lưu ý HS các thang đo trên vôn kế, ampe kế (nếu sử dụng điện kế phải chú ý giá trị của thang đo). Trong các thí nghiệm này không được đấu quá nhiều pin dễ gây cháy các thiết bị thí nghiệm, không được cắm vào ổ điện sinh hoạt. Bài 29 cần sưu tầm thêm tranh cổ động về an toàn điện để dạy, tài liệu an toàn điện của Sở điện lực Đăk lăk. b. Khai thác tốt các phương pháp dạy học truyền thống, đồng thời áp dụng linh hoạt các kĩ thuật dạy học tích cực. * Khai thác các phương pháp tích cực trong hệ thống các phương pháp dạy học truyền thống: - Trú trọng phương pháp dùng lời nói: Lời của thầy, lời của trò, lời của sách. Trong phương pháp truyền thống lời nói rất quan trọng. - Phương pháp trực quan: Cần giữ lại và phát huy, phương tiện trực quan sẽ là nguồn chủ yếu dẫn đến kiến thức mới. - Các thao tác mà giáo viên làm để học sinh quan sát không thể bỏ được. * Phương pháp vấn đáp: 15 + Vấn đáp – tìm tòi: Câu hỏi phù hợp, phải tường minh, kết hợp kiến thức cũ và mới. + Vấn đáp- tái hiện: Hệ thống câu hỏi giúp học sinh tái hiện (nhớ lại) kiến thức đó học, liên hệ kiến thức đã học với kiến thức mới cần tìm (sử dụng trong ôn tập chương, trong giải bài tập). + Vấn đáp- giải thích, minh họa: Vận dụng cho những giờ học có thí nghiệm, có sử dụng phương tiện trực quan. + Vấn đáp- phát hiện, đàm thoại. * Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề. Cấu trúc bài học theo phương pháp này gồm: - Đặt vấn đề: Tạo ra tình huống có vấn đề . Phát hiện và nhận dạng những vấn đề nảy sinh. Tìm ra vấn đề mấu chốt cần giải quyết. - Giải quyết vấn đề: Đề xuất giả thuyết. Lập kế hoạch. Thực hiện kế hoạch - Kết luận: + Thảo luận kết quả và đánh giá, khẳng định bác bỏ giả thuyết đã nêu. + Kết luận, đề xuất phương án mới. * Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ: Đây là hình thức học tập được thể hiện theo phương pháp dạy học mới, hình thức học tập này có ý nghĩa quan trọng là rèn luyện năng lực tư duy của mỗi học sinh cũng được phát huy. Khi tổ chức học tập theo nhóm, GV hướng dẫn để mỗi thành viên trong nhóm đều được tham gia vào công việc của nhóm, tránh tình trạng chỉ dồn hoạt động của cả nhóm vào học sinh khá và có ý thức tốt. Đối với những em chưa tích cực học tập giáo viên có thể yêu cầu học sinh đó làm một công việc cụ thể của nhóm. Từ đó góp phần hình thành ý thức tự giác của học sinh. Lớp học thường chia làm nhiều nhóm, mỗi nhóm 4 đến 6 học sinh, các nhóm có thể được giao cùng một nhiệm vụ, có thể những nhiệm vụ khác nhau trong một nhiệm vụ lớn, có thể thay nhau làm thư kí, nhóm trưởng do nhóm quyết định (nhằm rèn khả năng trình bày của học sinh). Trình tự tổ chức học nhóm + Bước 1: Làm việc chung cả lớp: Nêu mục tiêu bài học, tổ chức nhóm hướng dẫn (bằng lời, bằng bảng phụ, phiếu học tập, trình chiếu...)GV cần quy định thời gian để hoạt động nhóm diễn ra khẩn trương và tạo không khí thi đua giữa các nhóm. 16 + Bước 2: Làm việc theo nhóm: Hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm, trao đổi, thảo luận, trình bày kết quả trước lớp. Cần lưu ý nhóm trưởng điều khiển các thành viên trong nhóm tập trung giải quyết từng vấn đề để đạt hiệu quả cao. + Bước 3: Thảo luận và tổng kết trước cả lớp: Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả ( Dùng phiếu để tiết kiệm thời gian). Thảo luận chung, nhận xét chéo giữa các nhóm. GV tổng kết lại, đưa ra vấn đề đúng nhất. Hình ảnh trưng bày kêt quả hoạt động nhóm của lớp 7C khi dạy câu C 6 bài 20: Chất dẫn điện và chất cách điện. dòng điện trong kim loại. Các kĩ thuật dạy học tích cực ví dụ kĩ thuật “ lắng nghe và phản hồi tích cực”, kĩ thuật “động não”, kĩ thuật “các mảnh ghép”...Ví dụ trong kĩ thuật ‘lắng nghe và phản hồi tích cực” ta thấy rằng có ba cách nghe là lắng nghe chủ động (nghe tích cực), lắng nghe với định kiến và nghe thụ động. Để lắng nghe có hiệu quả cần đảm bảo những nguyên tắc như giữ im lặng, quan tâm thực sự đến nội dung đang nghe,tranhs sự phân tán, và biết cách đăẹt câu hỏi liên quan đến nội dung đang nghe...Do đó cần tránh cãi , cắt ngang lời người khác, đưa ra nhận xét, kết luận quá vội vàng...Sau khi lắng nghe cần biết tóm tắt lại những gì mình vừa nghe được. Đồng thời HS cần biết cách phản hồi mang tính xây dựng cần cụ thể, chính xác, mô tả một hành động/ sự kiện , không đưa ra phỏng đoán về động cơ hay thái độ, có ích cho người nhận, liên quan đến việc mà ai đó có thể thay đổi. Ngược với phản hồi mang tính xây dựng là phản hổi không mang tính xây dựng. Các bước của phản hồi mang tính xây dựng gồm Bước 1: Nhận thức sâu sắc. 17 Bước 2: Kiểm tra nhận thức. Bước 3: Đưa ra ý kiến đóng góp của mình. Phản hồi mang tính xây dựng là một kĩ năng chủ chốt trong đào tạo và trong bồi dưỡng GV. c. Khai thác tối đa phương tiện- thiết bị - đồ dùng dạy học, kết hợp tốt các phương tiện dạy học hiện đại ( tổ chức hiệu quả dạy học trên phòng học bộ môn). Khi dạy chương I giáo viên cần chú trọng đến việc sử dụng thí nghiệm để giúp HS nắm vững cách tạo ảnh qua gương và các định luật của quang hình học, đặc biệt nếu điều kiện thí nghiệm gặp khó khăn, GV có thể sử dụng các phần mềm tin học để mô phỏng thiết kế các thí nghiệm, giúp HS hình dung trực quan hơn về đường đi của tia sáng, tính chất của ảnh qua quang cụ…Đối với phần định luật phản xạ ánh sáng yêu cầu HS phải có đầy đủ thước đo góc và GV hướng dẫn tỉ mỉ cách xác định góc tới, góc phản xạ và đo đạc. Một số hình vẽ nên dùng bút màu vẽ sẵn trên bảng phụ để HS dễ quan sát. Đối với chương II nội dung kiến thức rất gần gũi với HS, đa phần các em có hứng thú học tập nhưng việc tổ chức điều khiển lớp học của HS cần hết sức chú ý vì có thể HS làm các thí nghiệm phần âm học sẽ gây ra nhiều tiếng động làm ồn ào. Các bài trong phần điện học có nội dung khá dài, việc tổ chức dạy học có kết hợp các thí nghiệm đòi hỏi GV phải hết sức khéo léo, kết hợp trình chiếu để đem lại hiệu quả tốt hơn. Cần chú ý khi tiến hành các thí nghiệm phải bảo đảm thành công, nếu không thành công cần giải thích cho HS nguyên nhân không thành công. Ví dụ: Thí nghiệm cọ xát hai mảnh ni lông cần cọ xát hai mảnh ni lông với số lần như nhau và độ mạnh như nhau để hai mảnh ni lông nhiễm điện cùng loại và gần như nhau kết quả chúng đẩy nhau.(nếu kết quả thí nghiệm hai mảnh ni lông hút nhau, GV cần giải thích nguyên nhân: do một trong hai mảnh ni lông hoặc một phần của mảnh ni lông không bị nhiễm điện, thì chúng sẽ bị các phần kia hay mảnh kia nhiễm điện hút chứ không phải đẩy). Tổ chức phòng thí nghiệm: * Sắp xếp phòng thí nghiệm: - Các dụng cụ dùng chung để riêng. 18 - Các dụng cụ dễ vỡ để vào nơi chắc chắn. - Phân thành các phần riêng: Quang, âm, điện. - Có nơi treo bảng phụ, tranh vẽ. * Chuẩn bị cho học sinh: ( Tổ chức hoạt động thí nghiệm) - Trước mỗi giờ thực hành cho tổ lí của lớp lên chuẩn bị phòng thí nghiệm. - Sắp xếp các dụng cụ lên bàn để cả lớp có thể tiến hành ngay - Cho học sinh lên phòng thực hành, kiểm tra lại kiến thức có liên quan. - HS làm thí nghiệm, báo cáo kết quả. - Cho tổ lí ở lại dọn phòng thí nghiệm. * Bảo quản: Sửa chữa các dụng cụ thí nghiệm (nối dây điện, lau chùi các dụng cụ đo đạc…) Sau mỗi kì, mỗi năm tổng kết lại để biết sau một năm dụng cụ nào hỏng, thiếu hụt để làm đơn yêu cầu mua thêm ( kết hợp với thiết bị của trường). d. Dạy học phát triển tư duy học sinh. Như ta đã biết mục tiêu dạy học bao gồm : Kiến thức, kĩ năng, thái độ, phát triển tư duy. Phát triển năng lực tư duy vật lí và tư duy khoa học kĩ thuật có ý nghĩa quan trọng. Cụ thể là phân tích các hiện tượng vật lí phức tạp thành các hiện tượng đơn giản hơn, cho học sinh dự đoán kết quả, biến các tư tưởng khoa học thành sơ đồ, mô hình, cấu trúc có kĩ thuật. Biện pháp để phát triển năng lực tư duy cho học sinh: - Làm cho học sinh nắm được logic của những kiến thức vật lí cần nghiên cứu.Việc ghi bảng của giáo viên giúp học sinh tích cực hóa trong quá trình học tập và tư duy dựa vào sơ đồ trên bảng có thể theo kịp sách giáo khoa. Thông qua hệ thống ghi bảng của giáo viên, học sinh có thể thấy rõ bản chất của vấn đề đang nghiên cứu ( tên bài học được viết in hoa to rõ ràng, các đề mục được trình bày khoa học, phần quan trọng nhất của bài giáo viên có thể dùng phấn màu để làm nổi bật) VD: Khi dạy bài 10: “Nguồn âm” có thể ghi Dây cao su phát ra âm khi dao động. Cây sáo phát ra âm khi không khí trong ống dao động Mặt trống phát ra âm khi rung động. =>Âm có quan hệ với dao động. 19 Trong quá trình giảng dạy phải phát triển năng lực tư duy và thực hiện các thao tác tư duy đối với học sinh thông qua các câu hỏi. - Phát triển tư duy của học sinh trong quá trình nghiên cứu kiến thức bằng cách: + Tạo ra tình huống có vấn đề, hướng dẫn học sinh giải quyết tình huống có vấn đề. VD: Bài 26 Hiệu điện thế giữa hai đầu dụng cụ dùng điện. - Dạy theo phương pháp truyền thống: GV thông báo “ Trên các bóng đèn cũng như các dụng cụ dùng điện đều có ghi số vôn, chẳng hạn bóng đèn ghi 2,5V; 12V; 220V. Liệu các số vôn này có ý nghĩa giống như ý nghĩa của số vôn được ghi trên các nguồn điện không?” ta học bài 26. - Dạy học theo hướng phát triển tư duy HS: Đặt vấn đề vào bài Đặt trên bàn 1 pin tròn (1,5V) và một bóng đèn sợi đốt (220V). HS quan sát. Hỏi: Số 1,5 V ghi trên nguồn điện ( pin) cho ta biết giá trị nào? - HS liên hệ kiến thức cũ, trả lời. GV chỉ số 220V ghi trên đèn sợi đốt đặt vấn đề: Liệu số vôn này có ý nghĩa giống như trên nguồn điện mà các em vừa nêu hay không? - HS nắm bắt vấn đề cần nghiên cứu + Nên tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm thực hành, thí nghiệm khảo sát đồng loạt trong một giờ nghiên cứu kiến thức mới. Lưu ý: Cần chuẩn bị đủ dụng cụ thí nghiệm cho học sinh theo nhiều nhóm. Chuẩn bị phiếu học tập cho học sinh, câu hỏi sát nội dung, an toàn cho thầy và trò . - Phát triển tư duy tích cực của học sinh trong quá trình làm bài tập: HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài, huy động kiến thức kĩ năng đã học để giải quyết bài tập và qua đó phát triển tư duy HS - Tích cực hóa hoạt động của học sinh trong phần củng cố bài, ôn tập tổng kết chương ( là hình thức ôn tập quan trọng nhất đối với cả thầy và trò) Thay vì cho HS đọc ghi nhớ trong SGK, giáo viên có thể tóm tắt nội dung đã học trong bài bằng sơ đồ tư duy nhằm giúp HS ghi nhớ trực quan hơn.Ví dụ bài 22: Tác dụng nhiệt và tác dụng phát sáng của dòng điện.( GV trình chiếu sơ đồ) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng