Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 2...

Tài liệu Skkn nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 2

.DOC
15
385
54

Mô tả:

TÓM TẮT KẾT CẤU SÁNG KIẾN Tóm tắt kết cấu sáng kiến Trang 1 Bìa Trang bìa A. Phần mở đầu Trang 1 1. Lí do chọn sáng kiến Trang 2 2. Nhiệm vụ của sáng kiến Trang 3 3. Đối tượng nghiên cứu sáng kiến Trang 3 4. Phạm vi nghiên cứu sáng kiến Trang 3 5. Giải pháp nghiên cứu sáng kiến Trang 3 B. Phần nội dung Trang 4 1. Cơ sở để viết sáng kiến Trang 4 2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết Trang 4 3. Các giải pháp biện pháp thực hiện Trang 5 4. Hiệu quả của sáng kiến Trang 11 C. Phần kết luận và kiến nghị Trang 12 1. Kết luận Trang 12 2. Kiến nghị Trang 13 A. Phần mở đầu. 1. Lý do chọn sáng kiến: Trong tất cả các môn học trong Tiểu học môn Toán là một môn có vị trí vô cùng quan trọng. Đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để 1 giúp học sinh nhận thức được thế giới xung quanh, hoạt động có hiệu quả trong học tập. Trong chương trình môn Toán ở Tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán, các em sẽ biết được nhiều khái niệm toán học. Đồng thời còn rèn cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, cách lập luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Bên cạnh đó, thông qua việc giải toán của học sinh, giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót. Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp Tiểu học nói chung và ở lớp hai nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên Tiểu học cần phải nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh. Việc dạy giải toán có lời văn là một bộ phận quan trọng trong chương trình toán Tiểu học, là một công việc hàng ngày của giáo viên và học sinh. Nó sẽ giúp các em phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và làm việc một cách khoa học. Bởi vì khi giải toán, học sinh phải biết tập trung chú ý vào bản chất của đề toán, biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích để tìm ra những đường dây liên hệ giữa các số liệu…. Nhờ đó mà đầu óc các em sáng suốt, tinh tế hơn, tư duy của các em sẽ linh hoạt, chính xác hơn. Cách suy nghĩ và làm việc của các em sẽ khoa học hơn. Việc giải toán còn đòi hỏi học sinh phải tự mình xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính và kiểm tra lại kết quả. Do đó giải các bài toán có lời văn là cách tốt nhất để rèn luyện đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận chu đáo, tính chính xác cho học sinh. Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn Toán rất to lớn, nó có khả năng phát triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt,...góp phần giáo dục tính nhẫn nại, tính vượt khó của học sinh. 2 Vì những tác dụng to lớn nói trên mà mỗi học sinh đều phải ra sức rèn luyện để giải toán cho tốt. Điều đó không những giúp các em học giỏi toán mà nó còn giúp các em học giỏi tất cả các môn học khác nên tôi chọn sáng kiến: “Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2”. 2. Nhiệm vụ của sáng kiến: Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn - Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn. - Đọc hiểu - phân tích - tóm tắt bài toán. - Giải toán đơn về cộng, trừ các số trong phạm vi 100. - Trình bày bài giải gồm câu lời giải + phép tính + đáp số. - Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cách khác nhau. 3. Đối tượng nghiên cứu sáng kiến: Là những bài tập thuộc mạch kiến thức “giải toán có lời văn” trong chương trình lớp 2 ở Tiểu học. 4. Phạm vi nghiên cứu sáng kiến: - Trong chương trình Toán 2 - Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. 5. Giải pháp nghiên cứu sáng kiến: Giải bài toán có lời văn là một trong những mạch kiến thức trong chương trình môn Toán lớp 2( số và phép tính, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán có lời văn). - Nghiên cứu dạy giải toán có lời văn nhằm giúp HS: - Nhận biết thế nào là một bài toán có lời văn. - Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng hoặc một phép tính trừ các số trong phạm vi 100. - Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán và khả năng diễn đạt đúng. Để nghiên cứu và thực nghiệm đề tài này tôi căn cứ vào các tài liệu chuẩn như: 3 - Chuẩn kiến thức kĩ năng Toán 2. - Phương pháp dạy các môn học ở lớp 2. - Mục tiêu dạy học môn Toán 2: + Toán 2 sách giáo viên. + Toán 2 sách giáo khoa. - Một số tài liệu khác. Để thực hiện nội dung của đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp cơ bản sau: - Tổng hợp lý luận thông qua các tài liệu, sách giáo khoa và thực tiễn dạy học của lớp 2C - khối 2 - Trường Tiểu học ...................... - Đánh giá quá trình dạy toán . - Loại bài giải bài toán có lời văn. - Đúc kết, rút kinh nghiệm qua quá trình nghiên cứu. B. Phần nội dung. 1. Cơ sở để viết sáng kiến. Khả năng giải toán có lời văn chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức của học sinh. Học sinh hiểu về mặt nội dung kiến thức toán học vận dụng vào giải toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh đọc - hiểu - biết hướng giải đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp phần củng cố kiến thức toán, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, tích cực góp phần phát triển tư duy cho học sinh tiểu học. Đó là nguyên nhân chính mà tôi chọn sáng kiến nghiên cứu: “Nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2”. 2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết: Đối với trẻ là học sinh lớp 2, môn Toán tuy có dễ nhưng để học sinh đọc -hiểu bài toán có lời văn quả không dễ dàng, vả lại việc viết lên một câu lời giải phù hợp với câu hỏi của bài toán cũng là vấn đề không đơn giản. Bởi vậy nỗi băn khoăn của giáo viên là hoàn toàn chính đáng. Vậy làm thế nào để giáo viên 4 nói - học sinh hiểu, học sinh thực hành - diễn đạt đúng yêu cầu của bài toán. Đó là mục đích chính của đề tài này. Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp 2, tôi nhận thấy hầu như giáo viên nào cũng phàn nàn khi dạy đến phần giải toán có lời văn ở lớp 2. HS rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên của giải toán có lời văn mỗi lớp chỉ có khoảng 40% số HS biết nêu lời giải, viết đúng phép tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các em lại rất lúng túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi thầy cô hỏi lại học sinh lại không biết để trả lời . Chứng tỏ các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn. GV phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến phần này. 3. Các giải pháp biện pháp thực hiện: Qua nghiên cứu các bài toán thực tế tôi có thể mạnh dạn đưa ra bài toán để giải bài toán có lời văn. Mục đích cho học sinh hiểu bài toán qua phép tính, suy nghĩ chọn phép tính để thực hiện. Yêu cầu học sinh phải đọc và hiểu được tóm tắt, biết diễn đạt đề bài và lời giải bài toán bằng lời, thực hiện phép tính thích hợp và viết lời giải. Có nhiều bài toán học sinh có thể nêu được từ một phép tính. Biết nêu đề bài toán từ một phép tính đã cho, HS sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn,chắc chắn hơn,tư duy và ngôn ngữ của HS sẽ phát triển hơn. * Tìm ra điểm yếu của học sinh: - Học sinh biết giải toán có lời văn nhưng kết quả chưa cao. - Số học sinh viết đúng câu lời giải đạt tỷ lệ chưa cao. - Lời giải của bài toán chưa sát với câu hỏi của bài toán. * Quá trình nghiên cứu và thực nghiệm: Trong phạm vi tiết dạy đặc biệt chú trọng vào tiết chính sau đây: Giải bài toán có lời văn: Giúp học sinh hình thành kĩ năng, kĩ xảo, nắm được phương pháp chung về “giải bài toán có lời văn” Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán. 5 Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông thường như: “ ít hơn”, “nhiều hơn”, “tất cả”… Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang làm, sau đó giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đăt câu hỏi đàm thoại: Bài toán cho gì? - Bài toán hỏi gì? và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán… Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, GV cần dùng phương pháp giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu, nhận xét nội dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và dựa vào câu hỏi của bài, các em nêu miệng câu lời giải, phép tính, đáp số của bài toán rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập. Bước 2: Tìm cách giải bài toán. a. Chọn phép tính giải thích hợp: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái phải tìm cần giúp học sinh lựa chọn phép tính thích hợp: Chọn “ phép cộng” nếu bài toán yêu cầu “ nhiều hơn” hoặc “ gộp”, “ tất cả”. Chọn “tính trừ” nếu “bớt” hoặc “ tìm phần còn lại” hay là “ ít hơn”… Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam? Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu hỏi gợi ý như: + Bài toán cho biết gì? ( Vườn nhà Mai có 17 cây cam) + Bài toán còn cho biết gì nữa? (Vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7 cây) + Bài toán hỏi gì? (Vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam) + Muốn biết vườn nhà Hoa có mấy cây cam em làm tính gì? (tính trừ) + Lấy mấy trừ đi mấy? (17 - 7) 6 + 17 – 7 bằng bao nhiêu? ( 17 - 7 = 10 ) b. Đặt câu lời giải thích hợp. Việc đặt câu lời giải ở các bài toán đơn không có gì khó khăn. Tuy nhiên, nếu để ý một chút, ta sẽ thấy nội dung câu lời giải thường có 2 phần: Phần 1 ghi cái cần tìm, phần 2 ghi phạm vi cái cần tìm biểu thị. Ví dụ: Số cây cam Cái cần tìm vườn nhà Hoa có là: Phạm vi cái cần tìm biểu thị Khi hướng dẫn HS đặt câu lời giải, nhiều GV không chú ý đến điều này nên không có quy định cụ thể. Vì vậy mới xảy ra tình trạng HS trả lời theo cảm tính, lúc thế này, lúc thế khác. Đương nhiên, trừ những trường hợp nội dung câu trả lời chỉ có một phần ( Phần 1), thường thì mỗi phép tính có 2 cách trả lời, có thể đặt phần 2 lên trước, phần 1 để sau ( hoặc ngược lại). Để có sự nhất quán, GV cần hướng dẫn HS (và quy định rõ ràng) là đặt phần 1 (cái cần tìm) lên trước rồi mới đến phần 2 (phạm vi cái cần tìm biểu thị). Ví dụ: Nên trả lời: - Số cây cam vườn nhà Hoa có là: Không nên trả lời: - Vườn nhà Hoa có số cây cam là: Cách trả lời nào cũng đúng, nhưng trả lời theo cách thứ nhất không những khúc triết, rõ ràng hơn mà còn giúp HS ghi đúng ngay tên đơn vị (danh số) sau khi thực hiện phép tính. Khi viết câu lời giải, GV cũng cần lưu ý HS không được viết tắt các đơn vị đo lường ( VD: Không được viết “kg” mà phải viết là “ ki - lô - gam”, không viết “ l” mà phải viết là “ lít”,…), các đơn vị này chỉ viết tắt khi đứng sau một số thực (VD: 5kg, 10l,…). Bên cạnh việc hướng dẫn HS viết câu lời giải đúng, giáo viên cũng cần lưu ý hướng dẫn viết tên đơn vị (danh số) ở kết quả phép tính và ở đáp số cho phù hợp. Các danh số thường là 1 đơn vị kép (chỉ lượng và chỉ tên) như: con gà, cái thuyền, kg gạo,…Khi ghi danh số sau kết quả mỗi phép tính, ta chỉ cần ghi 7 đơn vị chỉ lượng đứng trước là: con, cái, kg,…nhưng khi ghi đáp số ta cần phải ghi đầy đủ là con gà, cái thuyền, kg gạo,… Bước 3: Trình bày bài giải: - Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau gần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân. - Bên cạnh đó, GV luôn luôn nhắc nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong vấn đề giải toán có lời văn của các em. Ví dụ 1: Nam có 6 lá cờ, Hùng có 9 lá cờ. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu lá cờ? Không cần hướng dẫn, học sinh lớp tôi thực hiện được ngay cách làm như sau: Tóm tắt Namcó: Hùng có: 6 lá cờ. 9 lá cờ. Bài giải Số lá cờ cả hai bạn có là: 6 + 9 = 15 ( lá cờ) Cả hai bạn : … lá cờ? Đáp số: 15 lá cờ. Ví dụ 2: Hải có 15 hòn bi, Hải cho bạn 6 hòn bi. Hỏi Hải còn lại bao nhiêu hòn bi? Tóm tắt Bài giải Hải có: 15hòn bi. Số hòn bi Hải còn lại là: Cho bạn: 6 hòn bi. 15 – 6 = 9 (hòn bi) Còn lại: … hòn bi? Đáp số: 9 hòn bi. Hầu hết các bài toán có lời văn vận dụng kiến thức toán được cung cấp theo phân phối chương trình. Tuy nhiên, việc phân tích đề - tóm tắt - giải bài toán phải luôn luôn được củng cố duy trì và nâng dần mức độ. Vì vậy qua một năm học tôi đã thực nghiệm được kết quả. Bước 4: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. 8 Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vâ ̣y viê ̣c kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, tôi luôn hướng dẫn các em thông qua các bước: - Đọc lại lời giải để kiểm tra xem giữa lời giải và phép tính đã phù hợp chưa, hợp lí chưa?. - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí với yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa? - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. - Để hình thành cho học sinh có kĩ năng, kĩ xảo “giải bài toán có lời văn” theo các bước trên, đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện thường xuyên và liên tục. Tuy nhiên tùy theo từng đối tượng học sinh mà chúng ta áp dụng cho phù hợp. Khi dạy giải bài có lời văn, tôi thường yêu cầu học sinh đọc đề bài nhiều lần trước khi làm bài, từ đó hình thành cho các em thói quen đọc kỹ đề bài trước khi giải. Trong quá trình đọc, tôi thường yêu cầu các em phải xác định được cái đã cho, cái cần tìm và dạng toán. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. - Để hình thành cho học sinh có kĩ năng, kĩ xảo “giải bài toán có lời văn” theo 4 bước trên, đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện thường xuyên và liên tục. Tuy nhiên tùy theo từng đối tượng học sinh mà chúng ta áp dụng cho phù hợp. Có thể mở rộng thêm hoặc làm kĩ từng bước. Ví dụ: Đối với học sinh chưa đạt yêu cầu, tôi làm kĩ 2 bước đầu để các em hiểu rõ bản chất của đề bài, có như vậy các em mới làm tốt được bài toán đã cho. Đối với học sinh năng khiếu nếu chúng ta chỉ dừng ở 4 bước trên thì mới chỉ giúp học sinh tìm được lời giải và đáp số của từng bài tập cụ thể mà chưa hề rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh. Do đó, sau khi học sinh 9 luyện tập thành thạo 4 bước, tôi cho học sinh có thói quen làm tiếp một bước nữa đó là khai thác và phát triển bài toán. Đây chính là bước rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo của học sinh. Bởi vậy sau khi học sinh giải xong bài toán và thử lại đúng kết quả, tôi hướng dẫn học sinh cách giải khác (nếu bài giải có nhiều cách giải). Việc đi sâu vào tìm hiểu nhiều cách giải khác nhau có vai trò rất lớn trong việc rèn kĩ năng, củng cố kiến thức, phát triển trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh. Trong khi cố gắng tìm ra các cách giải khác nhau, học sinh hiểu sâu hơn về mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Học sinh sẽ lựa chọn được cách giải hay hơn và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm để giải toán. Biết tự tìm thêm cách giải mới cho bài toán là một biện pháp giúp học sinh nắm vững mối quan hệ giữa các đại lượng và những quan hệ bản chất trong mỗi bài toán. Từ đó mà học sinh hiểu bài sâu hơn rất nhiều. 5. Thay đổi hình thức tổ chức dạy học: Qua một thời gian cải tiến và áp những kinh nghiệm trên, lớp 2 năm học 2018-2019 đã có những chuyển biến rõ rệt về chất lượng giải bài toán có lời văn, tuy nhiên đôi khi cũng không mấy gây được hứng thú trong học tập cho các em. Vì vậy tùy theo nội dung mỗi bài dạy, tôi đã linh hoạt chuẩn bị bài giảng với những thay đổi về hình thức tổ chức dạy học như: Làm việc độc lập từng cá nhân trên bảng con, chơi tiếp sức giữa các tổ trên bảng lớn của lớp, thi đua làm nhanh giữa các nhóm ở bảng học nhóm, cho học sinh độc lập suy nghĩ làm bài vào vở có sự trợ giúp của giáo viên đối với học sinh chưa đạt yêu cầu,... Việc thay đổi hình thức tổ chức dạy học không những làm cho không khí tiết học sôi nổi mà còn làm cho các em hứng thú và say mê trong tiết học. Bên cạnh đó giáo viên cần phải chấm trả bài thường xuyên để nhận ra sự tiến bộ của học sinh, biểu dương những học sinh đã làm tốt, khích lệ những học sinh còn thụ động, rụt rè tham gia vào giờ học bằng những lời khen, lời động viên thích hợp nhằm giúp cho các em mạnh dạn, tự tin hơn. - Ngoài những biện pháp nêu trên, để giúp học sinh giải toán có lời văn 10 thành thạo, tôi luôn luôn chú ý rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho các em bởi vì đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rõ đề và tìm ra cách giải bài toán một cách hợp lý, chính xác. 4. Hiệu quả của sáng kiến: Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng trong việc hướng dẫn học sinh lớp mình giải tốt dạng toán có lời văn. Gần một năm thực hiện tôi nhận thấy chất lượng bài làm của học sinh tăng lên rõ rệt. Từ chỗ học sinh giải những bài toán đơn giản còn chưa thạo đến nay đa số các em đã giải được những bài tập nâng cao cùng dạng, các em đều có ý thức làm bài. Điều quan trọng là khả năng phân tích, tổng hợp, khả năng suy luận lôgíc của các em đã được nâng lên. Chính vì nhờ phát triển những khả năng tư duy như thế nên các em giải các dạng toán khác cũng nhanh hơn, dễ dàng hơn. Kết quả cụ thể như sau: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CÁC NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC CUỐI HỌC KÌ II 2016-2017 NHƯ SAU: Năm học 2016-2017 Tổng số Các phẩm chất Các năng lực Học sinh T Đ C T H C 22 14 8 0 12 10 0 KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CÁC NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC CUỐI HỌC KÌ II 2017-2018 NHƯ SAU: Năm học Các phẩm chất Tổng số Học sinh T Đ Các năng lực C T H C 2017-2018 31 16 15 0 12 19 0 KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CÁC NĂNG LỰC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC CUỐI HỌC KÌ I 2018-2019 NHƯ SAU: Năm học 2018-2019 Tổng số Các phẩm chất Các năng lực Học sinh T Đ C T Đ C 17 10 7 0 6 11 0 C. Phần kết luận và kiến nghị: 11 1. Kết luận: Rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh Tiểu học nói chung và cho học sinh lớp 2 nói riêng là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa đối với mỗi giáo viên Tiểu học. Nếu có biện pháp và kế hoạch dạy học tốt, hợp lý sẽ giúp học sinh giải toán tốt hơn, từ đó nâng cao chất lượng môn Toán của học sinh trong lớp. Để quá trình rèn kĩ năng giải toán cho học sinh đạt hiệu quả, tôi rút ra một số kinh nghiệm sau: - Các bài toán có lời văn nội dung đa dạng phong phú. Do đó, việc yêu cầu học sinh đọc kỹ đề toán để xác định được dạng bài và tìm ra hướng giải đúng là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên. - Khi dạy bài toán có lời văn, giáo viên nên tổ chức cho học sinh tóm tắt bài toán, cần hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ để các em vận dụng công thức giải được chính xác, linh hoạt. - Đối với những bài toán có lời văn phức tạp, cần hướng dẫn học sinh một số phương pháp ( sơ đồ đoạn thẳng, suy luận,.... ) để đưa bài toán về dạng điển hình. - Khi hướng dẫn giải các bài toán có lời văn, giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh giải bằng nhiều cách khác nhau (nếu có thể) và lựa chọn cách giải hay nhất. - GV cần phải chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cần làm tốt những công việc sau: + Xác định đúng yêu cầu bài toán và đưa bài toán về dạng cơ bản. + Tìm các cách giải khác nhau của bài toán. Chúng tôi chuyên cung cấp các tài liệu hồ sơ cho quý thầy cô trên mọi miền đất nước như giáo án, sáng kiến kinh nghiệm, đề kiểm tra, sổ chủ nhiệm, lịch báo giảng, … Qúy thầy cô nào có nhu cầu xin liên hệ theo số ĐT: 0843.234.256. Hoặc quý thầy cô liên hệ qua địa chỉ gmail là: [email protected] Rất hân hạnh được phục vụ quý thầy cô ! + Dự kiến những khó khăn sai lầm của học sinh. + Tìm cách hướng dẫn học sinh tháo gỡ khó khăn và gợi ý để học sinh tìm được cách giải hay. 12 - Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần có sự động viên, tuyên dương khuyến khích đúng lúc, kịp thời đối với học sinh. - Ngoài ra đòi hỏi ở mỗi giáo viên sự kiên trì, linh hoạt và sáng tạo trong mỗi tiết dạy. 2. Kiến nghị: Để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán nói chung và góp phần rèn luyện kỹ năng “Giải toán học sinh lớp 2” nói riêng. Tôi mạnh dạn xin có một số đề xuất sau đây: a. Đối với Phòng giáo dục : - Hàng năm cần tổ chức các lớp học bồi dưỡng thường xuyên để góp phần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. - Qua các kỳ hội thảo, hội thi đề nghị cấp trên phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy ở các môn học nói chung và Toán lớp 2 nói riêng. b. Đối với nhà trường : - Tăng cường đầu tư nhiều loại sách tham khảo, sách nghiệp vụ để giáo viên có điều kiện nghiên cứu học tập chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao tay nghề. - Duy trì và thực hiện tốt các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng và hiệu quả cao. c. Đối với giáo viên: - Giáo viên khi thực hiện cần kiểm tra thường xuyên bằng nhiều hình thức và nhiều đối tượng (HS năng khiếu, chưa đạt yêu cầu). Từ đó rút ra được những mặt mạnh, yếu của học sinh và có kế hoạch bồi dưỡng, phụ đạo cụ thể đối với từng đối tượng. d. Đối với học sinh: + Đối với học sinh năng khiếu cần ra bài tập, bài làm phù hợp với năng lực của các em. 13 + Đối với học sinh chưa đạt yêu cầu: Kiểm tra thường xuyên bằng mọi hình thức, phát hiện ra chỗ yếu, kém để bồi dưỡng kịp thời tạo cho các em hứng thú, tự giác học tập. - Dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 2 không thể nóng vội mà phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỷ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để hình thành cho các em một phương pháp tư duy học tập đó là tư duy khoa học, tư duy sáng tạo, tư duy lô gíc. Hy vọng rằng với một chút kinh nghiệm trên đây sẽ mang lại đôi điều bổ ích cho mỗi giáo viên chúng ta. Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã tiến hành khi giải bài toán cho học sinh lớp 2, qua áp dụng thực tế đã mang lại hiệu quả cao. Những ý kiến đó có thể còn thiếu sót, cách giải quyết còn hạn chế, kính mong Ban giám khảo cùng các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để việc dạy học Toán lớp 2 đạt kết quả cao hơn. Xin chân thành cảm ơn! ....................., ngày 08 tháng 10 năm 2019. Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Người viết sáng kiến . ................................. *Tài liệu tham khảo Môn Toán 2 (SGK) 14 Bộ giáo dục và đào tạo: Đỗ Đình Hoan ( Chủ nhiệm) Nguyễn Áng – Đỗ Trung Hiệu – Phạm Thanh Tâm (Tái bản lần thứ năm) Môn Toán 2 (SGV) Bộ giáo dục và đào tạo: Đỗ Đình Hoan ( Chủ nhiệm) - Nguyễn Áng Đỗ Tiến Đạt – Đỗ Trung Hiệu - Phạm Thanh Tâm 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan