Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học bán ...

Tài liệu Skkn nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học bán trú

.PDF
24
1676
149

Mô tả:

SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Như chúng ta đã biết, giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng, là cơ sở ban đầu của hệ thống giáo dục phổ thông. Mục đích của giáo dục tiểu học là nhằm hình thành cho học sinh những kiến thức ban đầu, rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách sau này, chuẩn bị cho các em về các mặt đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất…để tiếp tục học lên bậc trung học. Đối với học sinh tiểu học, người ta thường nói đến mối quan hệ giữa học và chơi, chơi và học. Vì vậy, ngoài việc học tập, nhu cầu chơi là vô cùng cần thiết với các em. Học để mà vui chơi, vui chơi để tiếp thu kiến thức để học tập, học – chơi được đan xen một cách hài hòa. Để thực hiện mục tiêu trên thì việc tổ chức dạy 2 buổi/ngày ở các trường tiểu học là một yêu cầu cần thiết. Thực hiện sự chỉ đạo của ngành về việc khuyến khích tổ chức dạy 2 buổi ở trường tiểu học, trường Tiểu học Cao Bá Quát đã tổ chức 2 buổi/ngày có bán trú từ năm học 1997. Đây là trường Tiểu học Bán trú đầu tiên của huyện Trảng Bom ( trước đây là huyện Thống Nhất). Ngoài nhiệm vụ chung như các trường tiểu học một buổi/ngày, nhà trường còn phải tổ chức cho học sinh ăn, nghỉ trưa tại trường và tổ chức cho học sinh học tập buổi 2 sao cho có hiệu quả. Đây là yêu cầu lớn đặt ra đối với tập thể sư phạm nhà trường. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy ở buổi 2 của trường bán trú mà vẫn đảm bảo được phương châm của giáo dục tiểu học “Học nhẹ nhàng – tự nhiên – hứng thú – hiệu quả” ? Đó là những trăn trở của giáo viên trong mỗi giờ lên lớp và cũng là mối quan tâm hàng đầu của lãnh đạo nhà trường. Chính vì vậy, để tránh những áp lực nặng nề của việc học buổi 2 ở trường bán trú, theo tôi, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt một số hình thức của hoạt động ngoài giờ lên lớp vào dạy các tiết dạy buổi 2 của mình. Đó là lí do và cũng là nhiệm vụ trọng tâm của đề tài “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC DẠY BUỔI 2 CHO HỌC SINH LỚP 3 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC BÁN TRÚ CAO BÁ QUÁT” mà tôi lựa chọn. II. THỰC TRẠNG VIỆC GIẢNG DẠY BUỔI 2 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC BÁN TRÚ CAO BÁ QUÁT HIỆN NAY 1. Thuận lợi : - Được sự quan tâm sâu sát và chỉ đạo kịp thời của Sở Giáo dục & Đào tạo Đồng Nai, Phòng Giáo dục & Đào tạo huyện Trảng Bom. - Ban Giám hiệu luôn quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên trong mọi lĩnh vực công tác. - Các ban ngành, đoàn thể trong nhà trường phối hợp hoạt động một cách nhịp nhàng, đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau trong công tác. - Cơ sở vật chất nhà trường khá khang trang, sạch đẹp, thuận lợi cho việc dạy và học. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 1 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát - Giáo viên được điều chỉnh chương trình dạy học nên rất linh hoạt, mềm dẻo trong việc lập kế hoạch bộ môn sát với đối tượng học sinh. - Bản thân tác giả đề tài có kinh nghiệm nhiều năm giảng dạy lớp 3. - Đa số học sinh có hoàn cảnh sống tốt, ổn định; phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em mình. 2. Khó khăn : - Trường 2 buổi/ngày, giáo viên phải đi cả ngày nên rất hạn hẹp về thời gian đầu tư nghiên cứu tư liệu cho các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. - Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, có em học rất giỏi nhưng có em lại học yếu nên giáo viên rất vất vả trong công tác giảng dạy. III. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI A. Cơ sở lí luận : Trẻ em là tương lai của đất nước, là những con người không những thông minh hoạt bát mà còn phải có tâm hồn trong sáng, lành mạnh, một cơ thể cường tráng. Việc giáo dục HS phát triển toàn diện là xu thế tất yếu của toàn xã hội, là vấn đề chung của toàn cầu. Vì vậy việc tổ chức dạy 2 buổi/ngày góp phần không nhỏ vào việc giáo dục phát triển toàn diện cho HS. Việc tổ chức dạy 2 buổi/ngày tạo điều kiện thuận lợi cho GV và HS có nhiều cơ hội thể hiện được mọi vấn đề. GV có nhiều cơ hội giáo dục kiến thức và rèn kĩ năng sống cho HS còn HS lại thuận lợi trong việc tiếp nhận cái hay cái đẹp, các hành vi chuẩn mực trong cuộc sống, tăng thêm mối quan hệ gần gũi với bạn, với thầy, rất tốt cho việc giao tiếp sau này. Các em phát huy tối đa trí tuệ, trao đổi, bàn bạc bộc lộ ý kiến của mình thông qua việc học nhóm. Các em có nhiều thời gian tổ chức các hoạt động ngoại khóa, vui chơi, giải trí, đi dã ngoại,… học hỏi được nhiều điều mới lạ về thế giới xung quanh. Ngoài ra, việc dạy 2 buổi/ngày đã góp phần tạo nên một trào lưu học tập thật phong phú đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của xã hội hiện nay. B. Cơ sở thực tiễn của đề tài: Trên thực tế, hiện nay ở các thị trấn, thị xã, thành phố, nhu cầu học bán trú 2 buổi/ngày là nhu cầu có thật. Hàng năm, trường Cao Bá Quát đã được cha mẹ học sinh hết sức tín nhiệm và đăng kí cho con nhập học với số lượng rất đông. Chính vì thế, việc tìm kiếm giải pháp để nâng cao chất lượng buổi 2, đáp ứng được kì vọng của phụ huynh là điều hết sức cần thiết. Căn cứ công văn số 7632/BGD&ĐT-GDTH ngày 29/8/2005 về việc hướng dẫn dạy học 2buổi/ngày do Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học kí; căn cứ công văn chỉ đạo hướng dẫn thực hiện dạy 2 buổi/ngày của bộ phận Tiểu học Phòng Giáo dục – Đào tạo huyện Trảng Bom, nhà trường đã lập kế hoạch giảng dạy riêng cho buổi 2 phù hợp với đặc thù của trường trên tinh thần vận dụng linh hoạt, sáng tạo sự chỉ đạo của các cấp, các ngành. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 2 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát Nhìn chung, vì dạy 2 buổi/ngày nên nhà trường phải có cách thức phù hợp để học sinh không thấy mệt mỏi, phải làm sao cho các em vừa học-vừa chơi mà vẫn đạt hiệu quả cao trong việc tiếp thu và vận dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày. Ở những năm đầu, việc dạy buổi 2 của nhà trường chủ yếu thực hiện dưới hình thức ôn tập kiến thức cũ. Đối với môn Toán và Tiếng Việt, giáo viên ra bài tập từ dễ đến khó cho học sinh sửa vào vở. Còn những môn học khác, giáo viên chủ yếu cho học sinh ngồi tại chỗ trong lớp học, trả lời những câu hỏi của GV hoặc thực hiện những yêu cầu mà giáo viên đưa ra. Giáo viên chưa chú trọng vào việc phát triển năng khiếu, rèn kĩ năng sống cho học sinh. Chính vì vậy học sinh chưa có cơ hội phát triển toàn diện, chưa thật sự hứng thú và thích học, các em bị gò bó trong 4 bức tường quá lâu dẫn đến mệt mỏi, căng thẳng chỉ vì suốt ngày chỉ “ học và học” nên hiệu quả giáo dục chưa cao. Là một giáo viên chủ nhiệm lớp 3, bản thân tôi đã cố gắng suy nghĩ, tìm tòi các biện pháp, từng bước áp dụng cho lớp của mình nhằm đưa đến kết quả tốt nhất cho quá trình giảng dạy ở buổi 2. Tôi nhận thấy, nếu chúng ta biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức của hoạt động ngoài giờ lên lớp vào dạy các tiết của buổi 2 thì hiệu quả giảng dạy sẽ tăng lên rất nhiều. Để thực hiện được điều này, giáo viên cần đầu tư công sức rất nhiều và phải có đủ lượng thời gian cần thiết cho các hoạt động. Chính vì vậy, giáo viên trước hết cần phải có một kế hoạch dạy học hết sức linh hoạt. Với quỹ thời gian không đổi, dựa trên kế hoạch chung của nhà trường, giáo viên lên kế hoạch dạy học cụ thể từng tuần, từng tháng cho lớp mình. Thời lượng dạy buổi 2 gồm 3 tiết/ngày x 5 ngày, có kế hoạch dạy học riêng. Dưới đây là kế hoạch dạy buổi 2 áp dụng chung cho khối 3 của toàn trường : Môn học Số tiết trong tuần Ghi chú Tiếng Việt 2 Toán 2 Đạo đức 1 Tự nhiên – Xã hội 1 Âm nhạc 1 Có GV dạy chuyên Mĩ thuật 0 Thủ công 1 Có GV dạy chuyên Thể dục 1 Có GV dạy chuyên Tiếng Anh 4 Có GV dạy chuyên Tin học 2 Có GV dạy chuyên Hoạt động tập thể 2 TỔNG CỘNG 15 Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 3 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát Tuy nhiên, để thực hiện dạy học buổi 2 theo hướng mới, giáo viên cần điều chỉnh kế hoạch dạy học riêng cho lớp mình. ( Ta có thể tăng tiết hoặc giảm tiết tùy theo nội dung bài dạy. VD: Tuần này ta có thể dạy 3 tiết Toán nhưng tuần sau chỉ dạy 1 tiết hoặc tuần này ta không dạy Đạo đức để tuần sau dạy gộp 2 tiết Đạo đức,… ) Việc tiếp theo, giáo viên phải phân loại học sinh theo đối tượng, có danh sách từng nhóm đối tượng để theo dõi, phải xếp chỗ ngồi theo từng nhóm. Sau mỗi tháng, giáo viên tổng kết đánh giá. Nếu học sinh nào tiến bộ rồi thì sẽ chuyển sang nhóm khác. (Tất nhiên, việc này phải làm thật khéo, chỉ giáo viên biết, tránh gây tâm lí mặc cảm, tự ti cho các em) Giáo viên cũng cần phối kết hợp tốt với các đoàn thể trong trường để tổ chức các tiết dạy cho hiệu quả. Nhà trường cần trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, điều kiện dạy học ( máy chiếu, các đồ dùng dạy học, kinh phí hỗ trợ phục vụ giảng dạy,…) Tôi đã từng bước vận dụng và dạy học buổi 2 cho lớp mình theo hướng đa dạng hóa hình thức dạy học, tăng cường các hoạt động nhóm, các hình thức sinh hoạt tập thể, các phương pháp trực quan… Kết quả đạt được rất khả quan, được tổ, nhóm ủng hộ và nhà trường chỉ đạo nhân rộng, từng bước áp dụng cho các lớp khác. B. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài : 1. Định hướng chung: Đề tài chủ yếu đi sâu vào giới thiệu 3 nhóm giải pháp cho việc nâng cao chất lượng dạy học buổi 2 ở trường bán trú. Phương châm của cả 3 nhóm là dùng hình thức của hoạt động ngoài giờ lên lớp để thực hiện. Dạy theo quan điểm “học mà chơi, chơi mà học”. Tuy nhiên không phải giờ nào, bài nào giáo viên cũng tổ chức cho học sinh trò chơi học tập mà cần phải linh hoạt trong việc tổ chức thiết kế bài dạy. Có thể dạy lí thuyết kết hợp với thực hành, trong đó thực hành là chủ yếu. Giáo viên cần phải chú trọng đến việc phân loại đối tượng học sinh, ra lượng bài cho phù hợp với năng lực sở trường của từng em. Ngoài việc bổ sung kiến thức Toán, Tiếng Việt, giáo viên kết hợp bổ sung kiến thức về đời sống xã hội, tự nhiên và kết hợp rèn kĩ năng sống, giáo dục đạo đức cho học sinh. Kết hợp các hoạt động ở lớp và hoạt động chung theo kế hoạch của nhà trường. 2. Nội dung và biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài : 2.1 Nhóm các giải pháp để củng cố và nâng cao kiến thức cơ bản của môn Toán và Tiếng Việt a/ Mục tiêu của giải pháp : Mục tiêu của nhóm này là để bổ trợ và nâng cao kiến thức cơ bản của môn Toán và Tiếng Việt phù hợp với năng lực tiếp thu từng đối tượng học sinh, tạo hứng thú cho học sinh khi tham gia học tập. b/ Cách thức tiến hành :  Môn Toán : Có thể tiến hành theo hai giải pháp Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 4 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát  Giải pháp 1 : Dạy học theo đối tượng học sinh Để giúp HS bổ sung và nâng cao về kiến thức đồng thời cũng để phát hiện năng khiếu của chính các em, giáo viên phải cá thể hóa học sinh trong từng tiết dạy như chia nhóm thực hành hoạt động theo đối tượng Giỏi – Khá – TB – Yếu và điều chỉnh kiến thức cho phù hợp với trình độ của từng nhóm. Đối với nhóm đối tượng học sinh TB – Yếu, giáo viên cần ôn lại lí thuyết lồng ghép vào trong quá trình các em làm bài, dùng hình ảnh minh họa sát với thực tế để các em dễ hiểu hơn. Khi giao bài tập cho nhóm đối tượng này, giáo viên cần giao lượng bài phù hợp vừa sức của các em. Đối với HS khá giỏi, đa số các em đã nắm chắc kiến thức mới trong buổi học chính (buổi sáng). Vì thế, trong buổi 2, ngoài việc ôn lại kiến thức cơ bản của buổi sáng, ta nên chú trọng bồi dưỡng năng lực cho các em qua các dạng bài tập phát triển tư duy sáng tạo. Đó là những bài tập không điển hình hoặc những bài tập điển hình “biến dạng” chứa đựng nhiều kiến thức nâng cao. Điều lưu ý là khi ra những bài tập nâng cao cho đối tượng học sinh này, giáo viên cần ra những bài tập với nội dung khó tăng dần, có thể tham khảo những bài tập trong Sách Toán nâng cao lớp 3, Tự luyện Violympic Toán 3, … để tránh tình trạng bài tập đưa ra là “quá tải” với các em. Ví dụ : Bài tập củng cố kiến thức cho bài Chu vi hình chữ nhật Ở dạng này, buổi sáng giáo viên đã dạy kiến thức trong sách giáo khoa nhưng học sinh TB – Yếu thường chưa hiểu sâu vấn đề, vận dụng quy tắc chưa thành thạo, thậm chí học trước quên sau nên tiết học buổi 2 là thời gian tốt nhất cho các em củng cố lại kiến thức mà các em còn mơ hồ. Vì vậy, khi dạy buổi 2 của bài này, giáo viên thường ra bài tập tương tự như bài tập của tiết buổi sáng để học sinh TB – Yếu thực hành củng cố, giúp các em nắm chắc kiến thức hơn. Bài tập tương tự có dạng như: Bài 1. Tính chu vi hình chữ nhật có : a/ Chiều dài 12cm; chiều rộng 7cm b/ Chiều dài 32cm; chiều rộng 9cm Bài 2. Một miếng bìa hình chữ nhật có chiều dài 42cm, chiều rộng 30cm. Tính chu vi miếng bìa đó. Khi học sinh làm bài tập này, giáo viên cần yêu cầu học sinh nhắc lại quy tắc rồi vận dụng quy tắc vào làm bài. Như vậy học sinh sẽ nắm vững kiến thức và vận dụng thành thạo lí thuyết vào bài làm hơn. Đối với nhóm đối tượng học sinh Khá – Giỏi, giáo viên ra các dạng bài tập nâng cao để bồi dưỡng năng khiếu của các em, đặc biệt là hướng dẫn kĩ năng phân tích, suy luận để giải quyết một bài toán. Bài tập cho HS Khá – Giỏi có dạng như: Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 5 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát Bài 1. Một hình chữ nhật có chiều dài bằng 124cm, chiều rộng kém 3 lần chiều dài. Tính chu vi hình chữ nhật đó. Bài 2. Tính chiều dài hình chữ nhật, biết chu vi hình chữ nhật là 246cm và chiều rộng là 49cm. Minh họa cho bài 2: Bước 1: Hướng dẫn tóm tắt Bước 2: Hướng dẫn cách phân tích đề (suy luận ngược) Bước 3: Hướng dẫn trình bày bài giải Muốn tính được chiều dài hình chữ nhật, trước tiên học sinh phải đi tính nửa chu vi hình chữ nhật ( nửa chu vi chính là tổng của 1 lần chiều dài với 1 lần chiều rộng ). Khi dạy các bài khác của môn Toán , tôi cũng tiến hành đối với từng đối tượng tương tự như trên. Nếu như trước đây giáo viên chỉ sử dụng đơn thuần các bài tập trong sách giáo khoa, không đa dạng hóa và phân loại hệ thống bài tập thì tiết học chỉ có tính chất dạy lại bài cũ, không phân loại rõ đối tượng, đặc biệt, không phát huy được tư duy sáng tạo với nhóm đối tượng học sinh Khá-Giỏi. Khi áp dụng dạy học theo đối tượng học sinh, tôi nhận thấy học sinh tích cực tham gia vào tiết học, học sinh Khá - Giỏi có cơ hội phát triển tư duy sáng tạo và kĩ năng phân tích, suy luận toán học. Còn học sinh TB-Yếu thì có nhiều thời gian luyện tập cho thành thạo với các dạng bài cơ bản, từ đó giúp các em tự tin hơn vào khả năng học toán của mình.  Giải pháp 2 : Dạy lồng ghép với tổ chức trò chơi Trong một tiết dạy buổi 2, để kích thích tinh thần ham học, tạo cho không khí lớp học vui tươi, thoải mái, tránh sự mệt mỏi và nhàm chán, tôi thường sử dụng một số trò chơi lồng ghép vào trong tiết học. * Một số trò chơi thường sử dụng trong dạy học buổi 2 của môn Toán - Trò chơi “Tạo số” : (15 phút) ( Phụ lục 1 ) Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 6 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát Trò chơi này thường được áp dụng vào dạy những bài củng cố về cấu tạo số có nhiều chữ số. Mục đích của trò chơi giúp học sinh củng cố cách lập số, đọc số và hiểu giá trị của các chữ số ở mỗi hàng. Ví dụ : Khi dạy bài Các số có bốn chữ số, giáo viên cho học sinh tiến hành trò chơi. Cách chơi : Mỗi lượt chơi tổ chức 2 nhóm, mỗi nhóm có 4 em. Lượt 1, giáo viên phát cho mỗi nhóm những thẻ ghi các chữ số từ 0 đến 9. Khi giáo viên phát lệnh “Tạo số có bốn chữ số” thì các học sinh của nhóm đó sẽ đứng theo hàng để tạo ra một số có bốn chữ số, 1 học sinh nhóm 1 sẽ đọc số của nhóm 2 vừa tạo được và ngược lại. Lượt 2, giáo viên phát ra các thẻ ghi giá trị của các chữ số ở mỗi hàng, HS tiến hành chơi như lượt thứ nhất. Cứ như thế cho đến hết thời gian chơi. Sau mỗi lượt, học sinh dưới lớp nhận xét về cách ghép số, đọc số của từng nhóm -Trò chơi “Cướp cờ” : ( 20 phút ) Trò chơi này thường được sử dụng vào dạy những bài củng cố về nhận diện hình, xem đồng hồ, nhận diện số,… Mục đích của trò chơi này là bồi dưỡng tính tích cực, khả năng phán đoán nhạy bén, linh hoạt của các em. Thông qua trò chơi, giúp học sinh nắm vững hơn kiến thức đã học. Ví dụ : Khi dạy tiết toán buổi 2 của tuần 24 ( Ôn tập về nhận dạng các chữ số La Mã), GV sẽ tiến hành cho học sinh chơi trò chơi này tại sân trường. Chuẩn bị : 22 lá cờ có ghi các số La Mã từ I đến XXII ; 3 chiếc xô. Tổ chức chơi : Tổ chức 2 đội chơi, mỗi đội 11 người. Xô đựng cờ để ở khoảng giữa hai đội. Lần lượt mỗi đội 1 học sinh lên tham gia cướp cờ. Mỗi lần khi giáo viên ra hiệu lệnh cướp một số nào đó thì mỗi học sinh của 2 đội sẽ lên thực hiện cướp lá cờ có ghi chữ số La Mã vừa được nêu. Ví dụ giáo viên hô : “ Cướp cờ số bảy”, học sinh sẽ chạy lên cướp lá cờ có viết VII. Học sinh nào cướp được cờ, đem về chỗ giơ lên cho cả lớp đọc số ghi trong lá cờ xem bạn cướp được lá cờ có đúng theo hiệu lệnh của giáo viên hay không. Nếu đúng, các em sẽ bỏ lá cờ vào xô của hàng mình. Kết thúc trò chơi, đội nào cướp được nhiều cờ là đội đó thắng.  Môn Tiếng Việt : Ta cũng tiến hành theo hai giải pháp  Giải pháp 1: Dạy học theo đối tượng học sinh Đối với học sinh TB – yếu, cũng như môn Toán, ở buổi 2, chúng ta nên cho học sinh những bài tập nhằm củng cố và khắc sâu kiến thức ở buổi 1. Chẳng hạn, khi dạy phân môn Tập đọc, giáo viên chỉ yêu cầu các em luyện đọc đúng lại bài và trả lời các câu hỏi, bài tập trong sách giáo khoa mà buổi sáng các em đã được tìm hiểu. Dạy phân môn Chính tả, những bài có âm vần, dấu thanh, từ, tiếng… khó thì buổi chiều giáo viên cho học sinh luyện viết lại các dạng âm vần, dấu thanh, từ, tiếng đó hoặc cho học sinh làm các bài tập điền vào chỗ trống đơn giản. Đối với phân môn Luyện từ và câu, ta cho các em làm các bài tập để củng cố khắc sâu nghĩa của từ và kiểu câu đã học buổi sáng… Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 7 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát Đối với học sinh Khá - Giỏi, ngoài việc khắc sâu kiến thức, thời lượng chủ yếu ta cho học sinh thực hành với các dạng bài tập nhằm phát triển tư duy logic, óc tưởng tượng và sáng tạo. Chẳng hạn, đối với phân môn Tập đọc, ngoài việc đọc đúng, giáo viên còn yêu cầu học sinh đọc diễn cảm, đọc thể hiện được tâm trạng của nhân vật, nội dung tác phẩm cũng như ý đồ của tác giả; giúp các em nêu được nội dung ý nghĩa bài đọc cũng như đặt lại tên khác cho tác phẩm. Đối với phân môn Chính tả, ta có thể cho học sinh một bài tập mà trong đó có một số từ, tiếng, dấu thanh viết sai, yêu cầu các em đọc, sửa lỗi và viết lại cho đúng… Đối với phân môn Tập làm văn, ở buổi 2, ta cũng có thể cho học sinh viết lại một đoạn văn theo đề bài yêu cầu của buổi sáng nhưng cần gợi ý để các em biết cách sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa…, biết phát huy trí tưởng tượng, sử dụng nhiều ngôn từ đẹp đẽ, trong sáng và súc tích, hấp dẫn hơn mà vẫn đáp ứng được yêu cầu đề bài… Ví dụ : Bài tập củng cố cho các bài Ôn về từ chỉ đặc điểm; Ôn tập câu Ai, thế nào? (Luyện từ và câu, tuần 14) đã dạy ở buổi sáng. Buổi chiều, đối với nhóm đối tượng học sinh TB – yếu, giáo viên ra bài tập tương tự để củng cố lại khái niệm về từ chỉ đặc điểm. Bài tập có dạng như yêu cầu tìm từ chỉ đặc điểm của sự vật trong đoạn thơ sau : Bông đào nho nhỏ Hoa gạo rực đỏ Cánh đào hồng tươi Bông gạo trắng tinh Hễ thấy hoa cười Gió thổi rung rinh Đúng là Tết đến. Bông bay lả tả. Giáo viên cho học sinh nhắc lại khái niệm về từ chỉ đặc điểm, sau đó các em tìm từ chỉ đặc điểm dưới sự dẫn dắt của giáo viên : Bông đào như thế nào ? (nho nhỏ) Cánh đào như thế nào? (hồng tươi) Hoa gạo như thế nào? (rực đỏ) Bông gạo như thế nào? (trắng tinh). Như vậy với giờ học buổi chiều, đối tượng học sinh trung bình – yếu đã nắm chắc kiến thức của bài học. Đối với nhóm đối tượng học sinh Khá – Giỏi, các em đã nắm chắc khái niệm ở buổi sáng, giáo viên ra các bài tập nâng cao hơn để kích thích sự sáng tạo của các em. Bài tập có dạng như : Tìm các từ chỉ đặc điểm thích hợp điền vào ô trống : Em bé …………………………………………………. Bệnh nhân …………………………………………….. Con cáo ……………………………………………….. Con rùa ………………………………………………... Hoa huệ ……………………………………………….. Với đề bài như trên, học sinh có thể tìm nhiều từ chỉ đặc điểm cho một sự vật (Em bé: xinh đẹp, mũm mĩm, dễ thương, kháu khỉnh,…. ). Như vậy, bài tập trên Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 8 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát sẽ giúp cho học sinh mở rộng được vốn từ, làm cho vốn từ của các em ngày càng phong phú hơn.  Giải pháp 2 : Dạy lồng ghép với tổ chức trò chơi * Một số trò chơi thường sử dụng trong dạy học buổi 2 của môn Tiếng Việt : -Trò chơi “Truyền điện”( 5-7 phút) : Trò chơi này thường dùng để ôn tập các bài học thuộc lòng. Mục đích của trò chơi này nhằm rèn luyện trí nhớ, tác phong nhanh nhẹn, linh hoạt. Cách chơi : Sau phần hướng dẫn và lệnh của giáo viên, học sinh thứ nhất đọc thuộc lòng một khổ thơ ( vài câu, một đoạn,…), chỉ định học sinh 2 đọc nối tiếp, sau khi học sinh này đọc đúng vài câu hoặc một đoạn tiếp theo thì được quyền chỉ định học sinh 3 đọc… Cứ như thế cho đến hết thời gian chơi. Lưu ý: Nếu học sinh được chỉ định mà không đọc được thì em chỉ định hồi nãy được quyền chỉ định bạn khác đọc. Khi vận dụng hai cách trên vào dạy học, tôi thấy học sinh đã tỏ ra hứng thú học hơn vì các em đã được “Học mà chơi, chơi mà học”, được tiếp cận với những nội dung bài học mới phù hợp với trình độ năng lực của mình, chất lượng học sinh đã tăng lên rõ rệt. 2.2 Nhóm giải pháp để nâng cao kiến thức về Tự nhiên và xã hội. a/ Mục tiêu của giải pháp : Mục đích của nhóm giải pháp này là giúp học sinh củng cố và nâng cao kiến thức về đời sống xã hội, tự nhiên, về thế giới xung quanh ta . b/ Cách thức tiến hành : Ta có thể tiến hành theo 3 giải pháp  Giải pháp 1 : Ta áp dụng hình thức cho học sinh xem phim Đối với những bài ôn tập về chủ đề Động vật; Tôm, cua; Cá…, với hình thức xem phim, học sinh sẽ hiểu rõ thêm từng loài về tên gọi, hình dạng, kích thước, cấu tạo, đặc điểm từng bộ phận của chúng. Ngoài ra các em còn hiểu biết thêm về đời sống, môi trường sống, thức ăn của từng loài động vật mà các em chưa từng được biết. Từ đó các em có kĩ năng chăm sóc và bảo vệ các loài động vật. Ví dụ : Khi dạy ôn tập bài Động vật, giáo viên có thể áp dụng hình thức trên như sau : ( Phụ lục 2 ) Bước 1 : GV nêu mục đích của việc xem phim và nêu yêu cầu của học sinh khi xem phim Bước 2 : GV chiếu lần lượt từng đoạn phim cho HS xem kết hợp đặt câu hỏi kiểm tra sự quan sát, hiểu biết của các em về những động vật các em vừa xem (hoặc HS có thể tự đặt câu hỏi cho nhau ) Bước 3: Kết thúc xem phim, GV cho HS hệ thống lại kiến thức vừa học bằng cách trả lời các câu hỏi như: Các em vừa được xem những con vật nào ? Chúng có đặc điểm gì giống nhau và khác nhau ? Những con nào ăn cỏ, những Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 9 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát con vật nào ăn thịt ?, … Giáo viên nêu thêm những câu hỏi để học sinh nói về ích lợi của động vật, cách chăm sóc và bảo vệ những loài động vật, nhất là những loài vật có nguy cơ bị tuyệt chủng. Cuối cùng, giáo viên kết luận, giáo dục bảo vệ môi trường.  Giải pháp 2 : Hình thức quan sát thực nghiệm Đối với những bài ôn tập về chủ đề Thực vật, Bầu trời và mặt đất, giáo viên tổ chức cho các em học tập ngoài vườn trường để các em tự khám phá các loại cây trong vườn. Hoặc giáo viên tổ chức cho học sinh ra sân trường để quan sát mặt trời, bầu trời ban ngày (tránh lúc nắng to),… Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, các em sẽ tự tìm hiểu để nhận biết được tên, hình dạng, kích thước, cấu tạo bộ phận (rễ, thân, lá, hoa, quả ) của từng loại cây, cây thân cứng, cây thân mềm, cây sống trên cạn, cây sống dưới nước, tác dụng của mỗi loại cây … Các em còn biết thêm được bầu trời ban ngày như thế nào, tác dụng của nắng, … Với hình thức học tập này, học sinh đã được tận mắt, tận tay khám phá, tự chiếm lĩnh những điều mới lạ để hiểu biết hơn về thế giới xung quanh nên tiết học đã sinh động hơn, học sinh học tập hứng thú hơn.  Giải pháp 3 : Tổ chức các trò chơi học tập Để kiểm tra kiến thức về đời sống tự nhiên của học sinh đồng thời tạo thêm sự sinh động, hứng thú học tập, giáo viên có thể áp dụng các trò chơi học tập vào tất cả các tiết dạy trong môn này. Các trò chơi thường hay sử dụng khi dạy môn này là : Hát bài hát có tên con vật ( tên loài cây, loài hoa, loại quả,… ), Đố bạn con gì ?, Bắt chước tiếng con vật, … Ví dụ 1 : Trò chơi “Hát bài hát có tên con vật” trong tiết ôn tập về chủ đề Động vật. ( 20 phút ) Cách chơi: GV chia HS thành 3 đội chơi, 3 đội rút thăm xem đội nào hát trước. Mỗi đội phải hát được một đoạn (trong một bài hát) có nêu tên con vật nào đó. Đội 1 hát xong chỉ định đội 2 hát, đội 2 hát xong chỉ định đội 3,… trò chơi cứ thế diễn ra. Nếu sau một phút mà đội nào không hát được một đoạn có nêu tên con vật thì đội đó sẽ thua. Nếu sau một thời gian quy định mà ba đội không tìm ra được đội thắng cuộc thì ba đội sẽ hòa. Ví dụ 2 : Trò chơi “Chung sức” : Trò chơi này củng cố được tất cả các mảng kiến thức đã học. Cách chơi : Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi nhiều lượt. Mỗi lượt 2 học sinh đứng đấu lưng vào nhau, 1 em nhìn lên bảng, 1 em quay mặt xuống lớp học, tất cả học sinh dưới lớp làm giám giảo. Phía trên bảng là các biểu tượng chứa tên các sự vật hiện tượng. Từng tên sự vật hiện được lật ra, học sinh quay mặt phía bảng có nhiệm vụ gợi ý, hay miêu tả thế nào đó để học sinh quay mặt xuống dưới nói tên được sự vật hiện tượng ấy. Nếu nói đúng giám khảo thưởng tràng pháo tay, nếu sai thì phải nhảy lò cò xuống chỗ ngồi. Cứ như vậy cho đến hết thời gian chơi. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 10 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát Trước đây, khi dạy môn này ở buổi 2, giáo viên chỉ cho học sinh ôn lại kiến thức của buổi chính bằng hình thức hỏi - đáp những câu hỏi nằm trong phạm vi sách giáo khoa hoặc cho học sinh làm bài tập trong vở bài tập. Với cách dạy trên, học sinh học tập khá mệt mỏi, hiệu quả giáo dục chưa cao. Với những hình thức tổ chức dạy học mới này, học sinh tham gia vào hoạt động rất hào hứng, tích cực. Chính vì vậy, sự hiểu biết về đời sống của học sinh ngày một phát triển. 2.3 Nhóm giải pháp để hình thành kĩ năng sống Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lí - xã hội cơ bản giúp cá nhân tồn tại và thích ứng với cuộc sống, giúp cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại. Kĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết học sinh phải biết để có khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Ở học sinh tiểu học, kĩ năng sống của các em còn đơn giản. Đó là các kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ, kĩ năng giao tiếp không lời, kĩ năng thuyết trình và nói được những câu đơn giản trước đám đông, kĩ năng từ chối, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tổ chức và làm việc theo nhóm, kĩ năng chăm sóc bản thân, kĩ năng tự phục vụ… a/ Mục tiêu của giải pháp : Dạy buổi 2, ngoài việc ôn tập củng cố và nâng cao kiến thức về Toán, Tiếng Việt, đời sống xã hội tự nhiên thì việc rèn kĩ năng sống cho các em cũng hết sức quan trọng. Đây là vấn đề mà hiện nay xã hội đang quan tâm. Bởi nhẽ phần lớn học sinh hiện nay thường phụ thuộc vào sự chăm sóc của cha mẹ nên rất nghèo kĩ năng sống, không biết áp dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống một cách linh hoạt.Các em có thể rất giỏi về sử dụng các thiết bị điện tử… nhưng vẫn chưa biết quét nhà, chưa biết nấu nước, chưa biết cảnh giác và tự bảo vệ mình khi gặp kẻ xấu, chưa mạnh dạn trước đám đông,… Chính vì vậy giáo dục cho học sinh kĩ năng sống là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với giáo viên. Bên cạnh việc thực hiện trong quá trình giảng dạy ở buổi 1, có nhiều giải pháp để rèn kĩ năng sống cho học sinh trong buổi 2 như: rèn kĩ năng sống thông qua các tiết ôn tập của môn học; rèn kĩ năng sống thông qua tổ chức các tiết sinh hoạt tập thể và trong các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, … b/ Cách thức tiến hành : Ta có thể tiến hành theo hai giải pháp  Giải pháp 1 : Rèn kĩ năng sống thông qua việc lồng ghép vào trong các bài ôn tập trên lớp. - Phối hợp với ôn tập kiến thức trong các tiết học ở buổi 2, dựa vào nội dung bài dạy giáo viên có thể tổ chức các hình thức hoạt động như: sắm vai xử lí tình huống, phân vai dựng hoạt cảnh, bày tỏ thái độ, xử lí những tình huống toán học trong thực tế,… để từ đó hình thành cho các em một hay nhiều kĩ năng nào đó, góp phần hoàn thiện nhân cách cũng như giúp cho học sinh có thêm những kinh nghiệm trong cuộc sống. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 11 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát * Đối với môn Tiếng Việt : Thông qua các bài Tập đọc giáo dục cho các em hoàn thiện nhân cách đạo đức, thông qua môn Tập làm văn và Luyện từ và câu, giáo dục cho các em kĩ năng giao tiếp, ứng xử qua từng lời ăn tiếng nói…. Ví dụ : Khi dạy bài tập làm văn kể chuyện ( dạng văn nói ), giáo viên thường tổ chức cho các em kể theo nhóm với hình thức lần lượt từng em kể, các em khác lắng nghe bổ sung ý kiến cho bạn, sau đó vài học sinh lên kể trước lớp. Với hình thức trên, ngoài việc giúp các em nâng cao hiệu quả học tập, giáo viên còn rèn cho các em kĩ năng làm việc hợp tác, kĩ năng giao tiếp mạnh dạn, tự tin. * Đối với môn Toán : chủ yếu giáo dục cho học sinh kĩ năng sống khoa học; biết tiết kiệm, biết quý trọng thời giờ; kĩ năng giao tiếp, ứng xử; kĩ năng tính toán phù hợp, có khả năng tư duy logic, biết vận dụng đo lường vào thực tế, …Để hình thành kĩ năng này, giáo viên có thể tổ chức trò chơi cho học sinh ngay trong từng tiết học hoặc thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Ví dụ : Khi dạy bài Tiền Việt Nam, giáo viên có thể tổ chức trò chơi “Em đi chợ”. ( Phụ lục 3 ) Cách tiến hành : Bước 1 : GV chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm có một bạn làm ban giám khảo. Giáo viên phát cho mỗi nhóm một số đồ vật cùng với những đồ vật mà giáo viên đã dặn học sinh chuẩn bị mang theo, một số loại tiền có mệnh giá trong phạm vi đã và đang học, một chiếc bàn để bày hàng bán. Mỗi nhóm sẽ bày bán những gian hàng khác nhau : nhóm bán đồ dùng học tập, bình hoa,… ; nhóm bán các loại bánh kẹo, trái cây; nhóm bán các loại đồ chơi…những mặt hàng này đều có niêm yết giá. Bước 2 : Học sinh tham gia trò chơi, đóng vai người bán và người mua. Giáo viên đi theo dõi các em chơi để cuối cùng có lời nhận xét chung. Bước 3 : Giáo viên tập trung lớp, ban giám khảo đánh giá quá trình mua bán của các bạn. Giáo viên nhận xét về cuộc chơi của các em. Từ đó giáo dục cho các em khi mua hàng phải chọn những thứ thật cần thiết mới mua, tránh lãng phí tiền, biết mua những mặt hàng còn hạn sử dụng, … Người mua hàng và người bán hàng phải tính toán, kiểm tiền cẩn thận. Đặc biệt, giáo viên cần giáo dục các em cách giao tiếp giữa người bán hàng với người mua hàng (xưng hô phải lịch sự, nói năng nhỏ nhẹ, thân thiện, gây cảm tình tốt giữa người mua và người bán). Thông qua trò chơi này, ngoài việc củng cố kiến thức về tiền Việt Nam, giáo viên còn rèn cho các em kĩ năng tính toán trong thực tiễn cuộc sống, biết chi tiêu khoa học để các em vận dụng vào đời sống hàng ngày của mình. Hơn nữa thông qua trò chơi còn rèn cho các em kĩ năng giao tiếp trong cuộc sống. * Đối với môn Tự nhiên và Xã hội : Ở môn học này, cần giáo dục cho học sinh kĩ năng tự chăm sóc sức khỏe bản thân, ứng xử hợp lí trong đời sống để phòng chống một số bệnh tật và tai nạn ; biết loại bỏ những trò chơi nguy hiểm thay vào đó là những trò chơi dân gian lành Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 12 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát mạnh; biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc những người thân trong gia đình bằng khả năng và điều kiện của mình, tránh lối sống dựa dẫm, ỷ lại vào người khác ; biết yêu thiên nhiên, trường học, quê hương; biết chăm sóc và bảo vệ vật nuôi, cây trồng… Với môn học này, giáo viên giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động trò chơi, đi tham quan, sưu tầm tranh ảnh vật thật, trồng và chăm sóc các cây trong vườn trường, vệ sinh trường lớp, vẽ tranh cổ động, … Ví dụ : Khi dạy về chủ đề Vệ sinh môi trường, giáo viên cho học sinh hiểu được môi trường không những tạo ra vẻ mĩ quan mà nó còn có tầm quan trọng đối với đời sống sức khỏe con người. Sống trong môi trường trong lành, con người sẽ được khỏe mạnh còn sống trong môi trường bị ô nhiễm con người sẽ bị mắc những bệnh về được hô hấp, tiêu hóa, thần kinh,…. Để tăng hiệu quả giáo dục, sau mỗi bài học tôi thường cho học sinh thực hành vận dụng.( Phụ lục 4 ) Cách thực hiện : Bước 1 : Liên hệ thực tế: Cho học sinh quan sát và nhận xét về cảnh quan sư phạm xung quanh lớp và trường mình, cần phải làm thêm điều gì để có được một môi trường theo ý muốn. Bước 2 : Giáo viên chia nhóm, cho học sinh lao động vệ sinh lớp học, làm các việc quét mạng nhện, lau chùi bàn ghế; nhổ cỏ, nhặt rác xung quanh lớp học; trồng thêm một số cây cảnh, chăm sóc các cây đã có sẵn (tưới, bắt sâu, nhổ cỏ); trang trí lớp học, bảng sản phẩm,… Trong quá trình lao động, nhóm nào làm xong trước sẽ giúp đỡ nhóm chưa xong để hoàn thành công việc. Bước 3 : Giáo viên tập trung lớp và cho học sinh phát biểu cảm tưởng sau khi đã làm xong vệ sinh trường lớp. Từ đó, các em nhận ra được lợi ích, ý nghĩa của việc mình làm và tầm quan trọng của môi trường đối với đời sống con người. Thông qua việc thực hành lao động, học sinh không chỉ được giáo dục lối sống sạch sẽ, thân thiện với môi trường mà còn được rèn kĩ năng phối hợp nhóm để vận dụng vào cuộc sống lao động sau này. * Đối với môn Đạo đức : Ở môn này, kĩ năng sống của các em chủ yếu là ứng xử, giao tiếp, thói quen hành vi đúng, kĩ năng phân tích lựa chọn và giải quyết vấn đề hợp lí… Vì vậy, giáo viên thường cho các em xử lí tình huống hoặc cho các em thực hành vận dụng để phân biệt, nhận định đâu là hành vi đúng, đâu là hành vi sai. Từ đó các em có thói quen vận dụng hành vi đúng vào cuộc sống của mình, biết tránh hoặc sửa chữa những hành vi sai trái, không đúng với chuẩn mực đạo đức. Ví dụ : Khi dạy ôn tập bài Tự làm lấy việc của mình, giáo viên cho học sinh thực hành tự bao bìa sách vở của mình ngay tại lớp, từ đó giáo dục cho học sinh kĩ năng tự phục vụ bản thân, không dựa dẫm ỷ lại vào người khác. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 13 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát * Đối với những môn học có GV dạy chuyên, GV phải biết phối kết hợp với GV bộ môn trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua sổ bàn giao học tập, qua các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ khối.  Giải pháp 2 : Rèn kĩ năng sống thông qua việc lồng ghép vào trong các tiết sinh hoạt tập thể, sinh hoạt Sao nhi đồng, những buổi ngoại khóa, những hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp của nhà trường. - Trong những tiết sinh hoạt tập thể, giáo viên có thể lồng ghép vào giảng dạy Nha học đường, An toàn giao thông. + Đối với Nha học đường, ngoài việc hướng dẫn bằng lí thuyết, giáo viên cho học sinh thực hành trên mô hình. Sau đó giáo viên kết hợp với y tế học đường tổ chức cho các em thực hành chải răng. Từ đó rèn cho các em kĩ năng chải răng đúng cách và có ý thức giữ gìn vệ sinh răng miệng. ( Phụ lục 5 ) + Đối với An toàn giao thông, giáo viên cho học sinh diễn tiểu phẩm mang tính giáo dục về ATGT, từ đó hình thành cho các em hình thành cho các em các kĩ năng sống : kĩ năng phán đoán ( lường trước các mức độ có thể xảy ra để tránh ), kĩ năng giải quyết vấn đề ( khi gặp những tình huống về giao thông phải biết cách xử lí cho phù hợp ), kĩ năng phê phán ( lên án những hành vi vi phạm ATGT : đi hàng đôi hàng 3, đi không đúng phần đường quy định, lạng lách, không đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên mô tô xe máy), kĩ năng lựa chọn những hành vi, những việc làm đúng để thực hiện văn hóa giao thông…( Phụ lục 6) - Trong những tiết sinh hoạt Sao nhi đồng, giáo viên cũng có trách nhiệm ra theo dõi quan sát các em sinh hoạt như thế nào, có biết vâng lời các anh chị phụ trách Sao hay không, có ý thức kỉ luật tốt trong sinh hoạt không để từ đó có biện pháp uốn nắn kịp thời. ( Phụ lục 7) - Thông qua những buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm, giáo viên giáo dục các em kĩ năng sống của một người công dân tích cực, thể hiện bằng các việc làm cụ thể của bản thân để thực hiện các chủ điểm giáo dục đó. Ví dụ : Chủ điểm của tháng 11 là “Kính yêu thầy cô giáo”, qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, bằng các hình thức: thi văn nghệ, trang trí lớp học xanh-sạch-đẹp, hoa điểm 10,… giúp các em thấy được vai trò của thầy cô giáo, ý nghĩa của ngày 20/11, qua đó cũng hình thành cho học sinh ý thức “Tôn sư trọng đạo”. Từ đó giáo dục các em trong cuộc sống phải luôn kính trọng và biết ơn những người đã dạy bảo mình những điều hay lẽ phải… (Phụ lục 8) Trong buổi 2, giáo viên sẽ cho học sinh lớp mình tiến hành thực hiện chuẩn bị các nội dung trên trước khi tham gia chung với nhà trường, từ đó chất lượng các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp tăng lên thấy rõ. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 14 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát IV. KẾT QUẢ: Những giải pháp của đề tài này đã được bắt đầu thực hiện từ năm học 2008 – 2009 với mực độ hạn chế, chính thức áp dụng vào năm học 2009 – 2010. Dưới đây là số liệu đối chiếu kết quả của các năm học.  Về kết quả học tập : Năm học Sĩ số Giỏi SL % Khá SL % TB SL % Yếu SL % HỌC 2007- 2008 LỰC 34 8 23,5 12 35,3 13 38,2 1 2008- 2009 34 10 29,4 13 38,2 11 32,4 0 2009- 2010 36 14 38,9 13 36,1 2010- 2011 38 19 2011- 2012 38 9 25 0 15 39,5 4 10,5 0 24 63,2 12 31,6 2 5,2 0 50 Ghi chú Năm chưa 2,9 thực hiện giải pháp Năm bước đầu thực hiện Năm thực hiện giải pháp chính thức Năm tiếp tục thực hiện giải pháp Năm tiếp tục thực hiện giải pháp, có điều chỉnh bổ sung - Qua đối chiếu kết quả của các năm, ta thấy, từ khi thực hiện đề tài, kết quả học tập được nâng lên rõ rệt.Tỉ lệ học sinh giỏi và học sinh khá tăng lên rất nhiều, tỉ lệ học sinh trung bình đã giảm xuống, không còn tình trạng học sinh yếu, ngồi nhầm chỗ. Đặc biệt qua kì thi giải toán Violympic trên mạng Internet của năm học 2011 – 2012, lớp 3B do tôi phụ trách có 1 em đã đạt giải nhất cấp Tỉnh, 2 giải nhất cấp Huyện, 3 giải khuyến khích cấp Huyện. - 100% HS biết cách tự học, tự đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn. Thông qua hoạt động nhóm, các em biết hợp tác nhau trong học tập, biết ganh đua một cách lành mạnh. - Xây dựng được 19 đôi bạn ( 1 giỏi kèm 1 yếu ) giúp đỡ nhau trong học tập. - 100% HS biết sắp xếp thời gian biểu ở nhà, ở trường một cách hợp lí, khoa học. Các em biết chuẩn bị trước bài ở nhà, thực hiện nề nếp truy bài đầu giờ, làm cho phong trào thi đua học tập của lớp ngày một đi lên, dẫn đầu khối Ba trong nhà trường và thường được tuyên dương trong buổi chào cờ sáng thứ hai đầu tuần. (Đầu năm học, lớp 3B là lớp yếu trong khối).  Về kết quả rèn luyện hạnh kiểm : - Học sinh đã chấp hành tốt nội quy của nhà trường, đi học đều và đúng giờ, biết giữ gìn sách vở, đồ dùng học tập. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 15 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát - Các em đã biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, kính trọng, lễ phép với thầy cô giáo và người lớn tuổi . - Biết ăn ngủ, học tập theo hướng dẫn của giáo viên và bố mẹ; biết giữ vệ sinh cá nhân. - Các em đã biết giữ gìn, bảo vệ tài sản của lớp của trường, tham gia tốt phong trào xây dựng trường lớp xanh-sạch-đẹp. - 100% HS biết đoàn kết, giúp đỡ nhau trong lao động, trong các phong trào thi đua. Cụ thể : + Các em trồng và chăm sóc 18 chậu cây cảnh treo xung quanh hành lang lớp học, tạo môi trường học tập xanh sạch đẹp. + Sưu tầm, trồng và chăm sóc nhiều cây thuốc quý, cây cảnh đẹp ở vườn thực vật của trường. + Các em tự đóng góp, ủng hộ áo trắng, sách vở cho các bạn nghèo trong lớp, trong trường và Liên Đội bạn với số tiền là 2.500.000 đồng. + Các em biết lập kế hoạch, tổ chức, điều hành các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp một cách cụ thể, khoa học và đã thực hiện thành công các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm năm học. + Thông qua các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, các em biết tuyên truyền, phòng tránh các tệ nạn xã hội, tuyên truyền về ATGT, ATTP, và bảo vệ môi trường bằng các bức tranh sinh động được treo dọc hành lang các lớp học trong nhà trường.  Về kĩ năng sống : - Một số em nhút nhát, chưa tự tin trong học tập, trong giao tiếp nay các em đã nhanh nhẹn, hoạt bát, giao tiếp mạnh dạn tự tin hơn. ( Tiêu biểu như em Quỳnh Anh, em Gia Bảo từ một HS hết sức nhút nhát nay đã là nhóm trưởng điều khiển nhóm hoạt động.) - Loại trừ được 100% hiện tượng nói tục, chửi thề trong nhà trường, các em giao tiếp một cách văn minh, lịch sự với bạn bè thầy cô và mọi người. - Các em đã biết tự chăm sóc bản thân, tự làm lấy công việc của mình, sống tự lập hơn, không dựa dẫm ỷ lại vào người khác. Cụ thể : + Tự gấp mùng, chiếu, chăn , gối mỗi khi ngủ dậy ở trường ( có sự giám sát của tổ trưởng ) + Tự rửa tay, đánh răng trước và sau khi ăn. + Biết trao đổi với cô giáo mỗi khi các em bị đau ốm, tai nạn,… - Các em biết nhận định một số biểu hiện trong cuộc sống để phòng tránh không bị kẻ gian lợi dụng, mua chuộc làm việc xấu. - Các em có óc thẩm mĩ hơn trong cách ăn mặc, trang trí lớp học cũng như trình bày sách vở. Cuối năm học qua, lớp đạt giải nhất về trang trí lớp học xanh Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 16 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát sạch đẹp theo tiêu chí xanh sạch đẹp mà sản phẩm đều do các em tự làm, tự trang trí. Khi áp dụng cho các lớp khác trong khối thì cũng đã thu được kết quả rất đáng khích lệ. Học sinh của các lớp học tập tiến bộ hơn, ngoan ngoãn, tham gia vào mọi hoạt động tích cực hơn, đặc biệt kĩ năng sống của các em ngày một hoàn thiện hơn so với những năm học trước. V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Từ kết quả của việc vận dụng linh hoạt một số hình thức của hoạt động ngoài giờ lên lớp vào dạy các tiết dạy buổi 2, tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau: - Giáo viên cần tạo cho học sinh niềm vui, hứng thú khi học buổi 2. Bất kì việc gì nếu có hứng thú thì việc thực hiện mới đem lại hiệu quả cao. Để học sinh có hứng thú khi học buổi 2, giáo viên cần động viên khích lệ bằng những câu nói, cử chỉ nhẹ nhàng, tuyệt đối không được chê bai các em. Thường xuyên áp dụng các hình thức trò chơi vào học tập để các em thoải mái, vui tươi, hứng thú học tập hơn. - Giáo viên cần được phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tích cực tìm tòi, vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy để giờ học nhẹ nhàng, sinh động và đạt hiệu quả cao. - Giáo viên cần chú ý đến đối tượng học sinh khác nhau để vận dụng các hình thức dạy học khác nhau nhằm đem lại hiệu quả thiết thực. - Đặc biệt, khi dạy buổi 2, giáo viên cần chú trọng đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. - Một điều kiện hết sức quan trọng là phải có sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình của lãnh đạo nhà trường thì việc dạy buổi 2 mới thu được kết quả như mong muốn. VI. KẾT LUẬN Việc dạy 2 buổi/ngày ở Tiểu học là một yêu cầu quan trọng. Nhiệm vụ quan trọng nhất của buổi 2, ngoài việc giúp các em củng cố, khắc sâu và mở rộng kiến thức các môn học còn giúp các em có kĩ năng sống để có khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Đề tài “ Nâng cao hiệu quả của việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học Bán trú Cao Bá Quát” đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu trên. Với việc vận dụng linh hoạt các nhóm giải pháp của đề tài, chúng ta vừa cung cấp được kiến thức, vừa rèn được kĩ năng sống cho học sinh. Mặt khác, còn tạo được không khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng, phù hợp với tâm sinh lí học sinh tiểu học. Việc áp dụng các giải pháp của đề tài bước đầu đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Đề tài trên đang từng bước được triển khai nhân rộng trong nhà trường. Từ năm học 2009 – 2010 đến nay, việc áp dụng đề tài này đã giúp cho nhà trường tiếp tục đạt được nhiều thành tích cao, xứng đáng là lá cờ đầu của bậc Tiểu học trong huyện. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 17 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát VII. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG: Chính vì những hiệu quả đã thu được từ những giải pháp trên của đề tài nên tôi có đề xuất, khuyến nghị như sau : - Ngành giáo dục cần tăng cường khuyến khích các trường tổ chức dạy học 2 buổi/ngày cho học sinh. - Ngành giáo dục cần tổ chức các chuyên đề về việc dạy học buổi 2 cho tất cả các giáo viên được tập huấn nhằm đem lại hiệu quả cao cho việc dạy học và giáo dục học sinh. - Những giải pháp trên của đề tài đều có khả năng ứng dụng trong thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào hoạt động giáo dục học sinh nên có thể áp dụng rộng rãi những giải pháp trên cho tất cả các trường dạy 2 buổi/ngày trong toàn huyện. Trảng Bom ngày 20 tháng 05 năm 2012 Người viết đề tài Nhận xét của Hội đồng xét cơ sở Đạt hay không đạt:........... Xếp loại:...............(Nếu có) ..................................................... Ngày .... tháng .... năm 2012 Xác nhận của Hội đồng xét cơ sở Hiệu trưởng - CTHĐ Phạm Thị Ngọc Bích Nhận xét của Hội đồng thẩm định Ngành GD&ĐT Đạt hay không đạt:........... Xếp loại:...............(Nếu có) ..................................................... Ngày .... tháng .... năm 2012 Xác nhận của Hội đồng thẩm định Trưởng phòng - CTHĐ Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 18 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Giáo dục học Tiểu học 1 – Tác giả : Đặng Vũ Hoạt, Phó Đức Hòa – NXB Đại học Sư phạm – năm 2004. 2. Các trò chơi học toán lớp 1, 2, 3 – Tác giả : PGS.TS. Đào Thái Lai, PGS.TS. Vũ Quốc Chung, ThS. Nguyễn Thị Hồng Hà, TS. Phạm Thanh Tâm – NXB Giáo dục – năm 2008. 3. Hoạt động ngoài giờ lên lớp có nội dung thân thiện với môi trường ( dành cho giáo viên tiểu học) – Tác giả Ngô Thị Tuyên – NXB Giáo dục Việt Nam- năm 2009. 4. Sách giáo viên, sách giáo khoa lớp 3 ( các môn ) 5. Sách Toán nâng cao lớp 3 – Tác giả : Vũ Dương Thụy, Nguyễn Danh Ninh NXB Giáo dục – năm 2006. 6. Tự luyện Violympic Toán 3 – Tác giả : Phạm Ngọc Định, Nguyễn Thị Mỵ, Lê Thống Nhất - NXB giáo dục Việt Nam. 7. Vở Bài tập nâng cao Từ và Câu lớp 3 – Tác giả : GS.TS. Lê Phương Nga, TS. Lê Hữu Tỉnh – NXB Đại học Sư phạm – năm 2008. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 19 SKKN: Nâng cao hiệu quả việc dạy buổi 2 cho học sinh lớp 3 ở trường TH Bán trú Cao Bá Quát PHỤ LỤC 1 Hình ảnh lớp 3B đang chơi trò chơi “Tạo số” trong giờ học toán buổi 2. Phạm Thị Ngọc Bích – Trường Tiểu họcBán trú Cao Bá Quát, Trảng Bom 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng