Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn nâng cao kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7...

Tài liệu Skkn nâng cao kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7

.DOC
27
4847
102

Mô tả:

MÔ TẢ SÁNG KIẾN Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ v ăn, tôi hiểu rõ hơn ai hết vị trí, vai trò của việc xây dựng đoạn văn trong quá trình tạo lập v ăn bản nói chung và xây dựng đoạn văn trong văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 nói riêng khi dạy thể loại Biểu cảm . Từ thực tế giảng dạy của mình, tôi đã cố gắng tìm tòi các biện pháp mới để nâng cao chất lượng giảng dạy và sáng kiến: Nâng cao kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh lớp 7 đã đạt được hiệu quả thực tế tốt. 1. Phạm vi và đối tượng áp dụng sáng kiến 1.1. Phạm vi Phạm vi nghiên cứu của đề tài là kiểu bài văn biểu cảm, thuộc phân môn Tập làm văn – Ngữ văn Lớp 7 - Trung học cơ sở. 1.2. Đối tượng: Đối tượng áp dụng trước hết là giáo viên trực tiếp giảng dạy Ngữ văn trong nhà trường. Nếu thành công có thể áp dụng đối với giáo viên dạy Văn ở các trường Trung học cơ sở trong huyện. Đồng thời đề tài có thể áp dụng đối với tất cả đối tượng học sinh Trung học cơ sở. 2. Mục tiêu sáng kiến Đề tài này sẽ giúp cho giáo viên hệ thống hóa các kiến thức về đoạn văn biểu cảm, hướng dẫn các em học sinh biết cách xây dựng đoạn văn với bố cục dù ngắn hay dài đều phải đảm bảo mặt nội dung và hoàn chỉnh về hình thức, hướng dẫn cho các em rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo bố cục ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mỗi đoạn văn đều bao hàm một ý chính của nó. Ý chính đó, có thể đứng ở đầu đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc đứng cuối đoạn văn theo cách qui nạp hoặc ý chính của các câu bình đẳng nhau, ngang hàng nhau theo cách song hành. Qua đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình thức nói hoặc viết, tập vận dụng một cách sáng tạo, tổng hợp những kiến thức đã tiếp thu được qua các môn Văn – Tiếng Việt và những kiến thức văn hoá xã hội để có thể nói và viết theo yêu cầu, đề tài khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em. Bên cạnh đó, viết đoạn văn biểu cảm còn trực tiếp rèn luyện cho học sinh một số đức tính như lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trì…Bởi vì nó góp phần phát triển trí tưởng tượng, óc sáng tạo, biết phân biệt: đúng, sai, tốt, xấu, phải, trái… Từ đó, nuôi dưỡng tâm hồn học sinh hướng tới cái chân, thiện, mĩ. 3. Các phương pháp thực hiện 3.1. Phương pháp lí thuyết. Bước đầu dạy cho học sinh những khái niệm về văn biểu cảm, làm quen với những đề văn mẫu, những bài văn mẫu và tìm hiểu cụ thể từng bài qua các tiết học: Lí thuyết về đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh học, tìm hiểu cách xây dựng đoạn văn, bố cục đoạn văn, các câu chốt (câu chủ đề) trong đoạn văn, viết theo các cách diễn dịch, qui nạp, song hành, móc xích. Tuy nhiên, phương pháp lí thuyết không quá nặng. 3.2. Phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu. Học sinh là chủ thể trong quá trình dạy học để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em trong quá trình tiếp nhận. Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu cho học sinh tự thân vận động là chính, giáo viên im lặng đến mức tối đa để khuyến khích học sinh sáng tạo trong giờ Tập làm văn. Vậy, trong tiết học Tập làm văn mà đặc biệt là tiết rèn luyện viết đoạn văn, hướng dẫn các kĩ năng nghiên cứu, tìm hiểu để vận dụng các kiến thức đã học để dựng đoạn theo đặc điểm văn biểu cảm để tạo lập văn bản. 3.3. Phương pháp kiểm tra, khảo sát. Với phương pháp này, đòi hỏi học sinh phải thực hành liên tục, chắc chắn các thao tác từ lí thuyết về thể loại sau đó đến nghiên cứu, tìm hiểu. Từ đó, ta mới đi vào kiểm tra, khảo sát để thấy được sự vận dụng tổng hợp, để sáng tạo văn bản qua nhiều bước trong quá trình rèn luyện các kĩ năng. Đó là điều kiện để đánh giá học sinh thông qua bài kiểm tra, bài viết ở lớp (hoặc ở nhà) đòi hỏi phải đánh giá đúng năng lực của học sinh và đòi hỏi một sự nhạy cảm của thầy trước yêu cầu thực hành của học sinh. NỘI DUNG 1. Một sô khái niệm 1.1. Kĩ năng là gì? Gần đây chúng ta nghe nói rất nhiều về thuật ngữ "kỹ năng" như là kỹ năng sống, kỹ năng mềm, kỹ năng chuyên môn, trung tâm huấn luyện kỹ năng. Vậy Kỹ năng là gì? Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Theo Từ điển Tiếng Việt: Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế. Đối với môn Ngữ Văn, rèn kĩ năng làm văn cho học sinh tức là hướng dẫn học sinh biết vận dụng những kiến thức đã học để dựng đoạn văn trong quá trình tạo lập văn bản. 1.2. Khái niệm đoạn văn và đặc điểm đoạn văn Như chúng ta đã biết, bài viết được cấu thành bởi các đoạn văn( văn bản) theo những phương thức và bằng những phương tiện khác nhau. Dựng đoạn được triển khai từ ý trong dàn bài. Có thể đoạn văn là một ý hoặc nhiều ý và cũng có thể một ý có nhiều đoạn. Trong đoạn văn thường có bố cục ba phần: mở đoạn, phát triển đoạn và kết đoạn. Ở góc độ đặc điểm cấu trúc thì các đoạn văn có thể là đoạn diễn dịch, qui nạp, móc xích, song hành… Qua đó, ta có thể hiểu được: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xưống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn (hay còn gọi là câu chốt). Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch, qui nạp, song hành. Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các phương tiện liên kết để tạo tính chỉnh thể cho văn bản. Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của học sinh để phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt và làm nền tảng cho chương trình THPT. Mặc dù vậy, học sinh ở các trường THCS, phần lớn có khuynh hướng không thích học văn mà đặc biệt là phân môn tập làm văn. Và vì thế nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo các kĩ năng viết đoạn văn của các em. 1.3. Khái niệm văn biểu cảm và đặc điểm của đoạn văn biểu cảm. * Khái niệm văn biểu cảm. Văn biểu cảm là văn viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh giá của con người đối với thế giới xung quanh và khêu gợi lòng đồng cảm nơi người đọc. Văn biểu cảm còn gọi là văn trữ tình, bao gồm các thể loại văn học như thơ trữ tình, ca dao trữ tình, tuỳ bút. Tình cảm trong văn biểu cảm thường là những tình cảm đẹp thấm nhuần tư tưởng nhân văn sâu sắc. Ngoài biểu cảm trực tiếp như tiếng kêu, lời than, đoạn văn biểu cảm còn sử dụng các biện pháp tự sự, miêu tả để khơi gợi tình cảm. ( Sách giáo khoa – Ngữ Văn – 7 / Tập I – Trang 73) * Đặc điểm của đoạn văn biểu cảm. Mỗi đoạn văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chủ yếu như yêu thiên nhiên, yêu loài vật, yêu con người, yêu thương trường lớp, bạn hữu, yêu gia đình, yêu quê hương đất nước, ghét thói tầm thường, độc ác… Cũng như đoạn văn thuộc các thể loại khác, đoạn văn biểu cảm cũng có bố cục ba phần. Mở đoạn: Có thể giới thiệu sự vật, cảnh vật trong thời gian và không gian. Cảm xúc ban đầu của người viết. Phát triển đoạn: Biểu lộ cảm xúc, ý nghĩ một cách cụ thể, chi tiết, sâu sắc. Kết thúc đoạn: Kết đọng cảm xúc, ý nghĩ của mình. Đoạn văn biểu cảm chỉ thực sự có giá trị khi tình cảm và tư tưởng hoà quện với nhau chặt chẽ. Cảm xúc phải chân thật, trong sáng, tư tưởng phải tiến bộ, đúng đắn. Câu văn, lời văn, giọng văn phải có giá trị biểu cảm. Có hai cách (lối) biểu cảm. Biểu cảm trực tiếp: Thông qua cách sử dụng các từ cảm : ôi, hỡi, tôi, ta… Tác dụng bộc lộ, biểu hiện tình cảm, thái độ đối với sự việc có liên quan. Điều này thấy rõ nhất trong thơ trữ tình, trong tuỳ bút, trong đối thoại nội tâm của nhân vật. Biểu cảm gián tiếp: Thông qua cách miêu tả cử chỉ, động tác, thái độ của nhân vật và tình cảm của người viết. Mặc dù vậy, biểu cảm trực tiếp, biểu cảm gián tiếp không đối lập nhau, không tách rời nhau mà cần được bổ sung cho nhau để giúp cho biểu cảm sâu sắc tinh tế hơn. 2. Đặc điểm tâm sinh lí cơ bản của học sinh Trung học cơ sở. Học sinh THCS có tuổi đời ứng với tuổi thiếu niên nên còn có tên gọi khác là tuổi thiếu niên. Về cơ thể, học sinh THCS không có gì khác so với cuối năm tiểu học. Các em chỉ lớn vọt lên ở các năm tiếp theo. Đây là thời gian xảy ra rất nhiều biến đổi khác nhau ở cơ thể trẻ. Sự hình thành nhân cách được hoàn thiện.Về thể chất, các em tăng nhanh về chiều cao và trọng lượng cơ thể, các dấu hiệu sinh dục phụ xuất hiện. Tuy nhiên, người lớn phải ý thức rằng, những phát triển trong cơ thể lúc này diễn ra chưa đồng bộ với diện mạo to cao bên ngoài.Như vậy, các em vẫn chưa là người lớn thực thụ về tất cả các chức năng trong cơ thể. Mặt khác, sự thay đổi trong lĩnh vực động cơ nhân cách cũng diễn ra cùng với động cơ học tập, như cầu giao tiếp bạn bè, việc lĩnh hội các chuẩn mực và môi trường thiếu niên cũng bắt đầu diễn ra.Liên quan tới việc hình thành tính tích cực nhân cách trong giai đoạn này là việc đẩy nhanh tính chất mạnh mẽ trong hình thành các đặc điểm nhân cách ở trẻ. Chính sự đẩy nhanh tốc độ cả về cơ thể lẫn nhân cách là bước chuyển từ trạng thái trẻ em sang người lớn. Các em có nhu cầu khẳng định bản thân với mọi người xung quanh.Vì vậy, khi giảng dạy giáo viên cần nắm vững đặc điểm tâm sinh lí học sinh để đạt được mục tiêu giáo dục. 3. Một số phương pháp cơ bản trong giảng dạy phần Làm văn ở Trung học cơ sở Tập làm văn là một trong ba phân môn của môn Ngữ văn ở trường Trung học Cơ sở. Đây là một phân môn khô, khó đối với cả giáo viên và học sinh. Vì vậy khi giảng dạy, người giáo viên cần nắm vững đặc trưng của phân môn cũng như phải sử dụng phương pháp giảng dạy phù hợp, hiệu quả. Tùy theo kiểu bài lí thuyết hay thực hành mà sử dụng phương pháp giảng dạy khác nhau để bài dạy dễ hiểu, phát huy được tính tích cực của học sinh. Đối với kiểu bài lí thuyết, giáo viên có thể sử dụng một số phương pháp cơ bản sau: Kết hợp các phương pháp quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp; phương pháp dạy học dựa vào tình huống giao tiếp; phương pháp diễn dịch, giải thích, phân tích khái niệm; phương pháp củng cố, khắc sâu bằng sơ đồ, bảng biểu…. Đối với các tiết thực hành, giáo viên có thể sử dụng phương pháp làm bài tập, phương pháp củng cố, khắc sâu... 4. Thực trạng viết đoạn văn biểu cảm của học sinh: Qua một số năm giảng dạy bộ môn Ngữ Văn, theo khảo sát, tôi nhận thấy một bộ phận các em học phân môn Tập làm văn còn yếu mà đặc biệt là cách dựng đoạn văn của học sinh còn rất lúng túng. Thường thì thời lượng quá ngắn mà kiến thức nhiều, nên học sinh không thể tìm hiểu kĩ các đoạn văn mẫu. Phần lớn học sinh hiểu sơ sài về mặt lí thuyết, vì thế xác định đề bài, chủ đề và bố cục đoạn văn càng bối rối: việc rèn kĩ năng viết được tiến hành trong các tiết phân tích đề, dàn ý và dựng đoạn, liên kết đoạn từ thấp đến cao, từ một tiêu đề, một ý, một đoạn văn đến nhiều đoạn, cuối cùng là một văn bản hoàn chỉnh. Khi viết còn chưa hiểu kĩ đề bài nên hay bị sai lệch. Việc phân phối thời gian, số lượng câu cho các đoạn, các ý lớn, ý nhỏ chưa rõ ràng, cụ thể. Cho nên, có nhiều trường hợp viết thừa hoặc thiếu chưa xác định cụ thể đề tài, chủ đề của đoạn văn. Quá trình lập luận, trình bày chưa chặt chẽ, lô gíc và sinh động. Chưa biết vận dụng nhiều phương pháp liên kết trong một đoạn văn hoặc nhiều đoạn văn. Vì thế các đoạn văn thường hay đơn thuần, nhàm chán. Qua Đề kiểm tra chất lượng học kì I - Môn Ngữ Văn - Năm học 20112012(Đề của Phòng Giáo dục và đào tạo) Câu 4: Từ hai bài thơ “tĩnh dạ tứ” và “Hồi hương ngẫu thư”hãy phát biểu cảm nghĩ về quê hương. Khảo sát thực tế bài làm của học sinh khối 7 tôi thấy rằng : Trên 10% số học sinh chưa biết viết đoạn văn biểu cảm. Số học sinh có khả năng dựng đoạn và xử lí yêu cầu của đề bài trên 50%. Số liệu cụ thể như sau Phân loại Lớp 7A (40hs) 7B (40hs) 7C (37hs) 7D (43hs) Giỏi SL % 1 2.5 4 12.5 5 13.5 13 30.2 Cộng: 160hs 23 14.4 Khá SL 15 22 22 19 % 37.5 55 59.5 44.2 78 48.8 Trung bình SL % 16 40 9 22.5 6 16.2 10 23.3 41 25.6 yếu, kém SL % 8 20 5 12.5 4 10.8 1 2.3 18 11.3 Bài làm của học sinh là kết quả của quá trình tiếp thu lí thuyết và rèn luyện các kĩ năng viết văn của học sinh và là sự vận dụng tổng hợp các năng lực tư duy, trình độ, vốn sống, vốn ngôn ngữ và cả những cảm xúc và rung động thẩm mĩ. Cho nên, việc rèn luyện các kĩ năng cho học sinh là cả quá trình lâu dài, việc tiến bộ của các em cũng chậm (không như các môn khoa học tự nhiên). Vì vậy, giáo viên không nên nóng vội mà phải rèn luyện cho học sinh tính kiên trì và giáo viên cũng cần kiên trì khi dạy cho học sinh. Những tình trạng viết đoạn văn ở THCS như trên là do nhiều nguyên nhân. Điều ta cần nói trước là nguyên nhân khách quan: nó phụ thuộc vào tư tưởng lập nghiệp của học sinh sau này như thi vào các trường Cao đẳng, Đại học Ngữ văn ít hơn các môn khác. Và điều quan trọng nhất là cơ chế thị trường thực dụng, con người khô khan, kênh thông tin văn hoá nghệ thuật đa dạng, nhiều loại hình cuốn hút học sinh. Hơn thế nữa phụ huynh lại định hướng cho con em mình theo khuynh hướng trên. Và ngoài ra nó còn phụ thuộc vào nguyên nhân chủ quan là môn Tập làm văn khó học, trừu tượng, học sinh không thích học, khó trở thành giỏi văn. Hơn thế nữa nội dung, chương trình trong SGK còn quá tải, trình độ giáo viên chưa đáp ứng, chất liệu của môn Ngữ văn bị giảm suốt vì đưa nhiều thể loại văn bản Nhật dụng, văn bản Chính luận, văn bản Nghị luận vào, coi nhẹ giảng bình, giáo viên giao nhiều bài tập, khó được điểm cao. Trên đây là tình trạng viết văn, dựng đoạn văn của học sinh THCS và nó cũng có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động. Cho nên chúng ta càng quan tâm nhiều hơn nữa trong việc dạy một tiết Tập làm văn, đặc biệt là dạy một tiết dựng đoạn văn trong văn bản. 5. Rèn kỹ năng viết đoạn văn biểu cảm Rèn các kĩ năng làm văn nói chung và viết đoạn văn biểu cảm nói riêng không chỉ xuất phát từ mục đích, yêu cầu của môn học (mang tính thực hành tổng hợp cao) trong nhà trường THCS mà còn là trách nhiệm, nhiệm vụ của người thầy giáo trong chương trình thay sách giáo khoa hiện nay. Điều quan trọng nhất khi viết đoạn văn biểu cảm là học sinh nắm vững các thao tác, cách thức trình bày đoạn văn biểu cảm, để từ các kĩ năng Tập làm văn phát triển thành kĩ xảo, thói quen làm văn. Để thực hành những điều nói trên đây, chúng ta hãy thử kiểm chứng bằng một ví dụ cụ thể sau: Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao”: “Đêm qua ra đứng bờ ao, Trông cá cá lặn, trông soa sao mờ. Buồn trông con nhện chăng tơ, Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ? Buồn trông chênh chếch sao mai, Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ ? Đêm đêm tưởng giải ngân hà, Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn. Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.” Trên đây là một bài văn biểu cảm về một bài ca dao. Vì vậy, đề văn biểu cảm bao giờ cũng nêu ra được đối tượng biểu cảm và định hướng tình cảm cho bài viết. Xác định rõ các bước làm văn biểu cảm: Tìm hiểu đề, tím ý, lập dàn ý, viết các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài. Để tiến hành rèn luyện các kĩ năng Tập làm văn, trước hết học sinh phải xác định ý cho đoạn văn. 5.1. Xác định ý cho bài văn biểu cảm. Giáo viên định hướng cho học sinh xác định các vấn đề sau: + Đối tượng biểu cảm trong đề bài trên ? + Mục đích biểu cảm ? + Cảm xúc, tình cảm trong các trường hợp . + Tình cảm, cảm xúc phải chân thật, trong sáng có sức thuyết phục. + Lời văn, hơi văn, mạch văn phải phù hợp, gợi cảm. Trước hết chúng ta hình dung cụ thể đối tượng biểu cảm ở đây là : Bài ca dao. Bài ca dao ấy nói về lòng thương nhớ và tình cảm thuỷ chung của nhân vật trữ tình khi xa quê hương. Hình thành được cảm xúc tình cảm của mình sau khi đọc xong bài ca dao. Lời văn, giọng văn phải bọc lộ cảm xúc, tình cảm chân thành khi đọc hiểu bài dao: Bài ca dao thấm thía bao nỗi buồn thương tha thiết, mong chờ, nhớ trông… Quá trình tìm hiểu đề là quá trình xác định ý cho bài văn biểu cảm. ý của bài văn nằm ngay trong từ ngữ, hình ảnh: Đêm qua, đứng bờ ao, trông, buồn trông, buồn trông( mức độ tăng dần), rồi: sao ơi, sao hỡi, tưởng, nhớ ba năm, Đà mòn, dạ chẳng mòn; trong kết cấu của bài ca dao…. Vấn đề là giáo viên tổ chức hướng dẫn như thế nào để học sinh phát hiện ra các ý chính của bài mà đề yêu cầu. Có như vậy việc tìm ý, triển khai ý mới trở thành kĩ năng ở các em. Tránh tình trạng khi viết đoạn lại không trúng với ý mình đã xác lập, viết lan man, từ ngữ nghèo nàn không gọi ra được cảm xúc, tình cảm của người viết. Chẳng hạn theo yêu cầu của đề văn trên đây, giáo viên tổ chức cho các em xác định được các ý chính: + Nỗi cô đơn, buồn vắng, chờ mong. + Cảnh vật với nỗi nhớ cố hương. + Sự gắn bó thuỷ chung của người lữ khách đối với gia đình và quê hương. + Nỗi lòng của nhân vật trữ tình trong bài ca dao và cảm xúc, tình cảm của tâm hồn con người. Như vậy, chúng ta đã xác định các ý trong bài văn biểu cảm và mỗi ý trên đây có thể được xây dựng bằng một hoặc hai đoạn văn. 5.2. Xác định câu chủ đề. Từ những ý đã được xác định trên đây, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tập viết các câu chủ đề. Đây là khâu quan trọng trong việc tạo lập đoạn văn. Vì có viết được câu chủ đề thì mới có thể triển khai ý của đoạn văn và lựa chọn nội dung trình bày của đoạn văn. Trước hết, chúng ta xác định câu chủ đề mang tính khái quát cho toàn bài văn: Bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao” diễn tả bao nỗi buồn thương nhớ, cô đơn và lòng chung thuỷ của người lữ khách đối với quê nhà. Ta xác định câu chủ đề cho từng đoạn văn như sau: Câu chủ đề 1: Tâm trạng của người lữ khách luôn lẻ loi, trống vắng, chờ trông cứ vương vấn mãi không thôi. Câu chủ đề 2: Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình diễn ra triền miên. Câu chủ đề 3: Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương, nhớ – tấm lòng thuỷ chung đối với quê nhà. Câu chủ đề 4: Tấm lòng thuỷ chung toả sáng trong bài ca và tâm hồn con người. Từ đó, giáo viên định hướng cho các em viết các đoạn văn bằng việc lựa chọn các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ liên kết v.v.. 5.3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ, ngữ khi xây dựng đoạn văn. Cũng như các kiểu văn bản khác, bài văn biểu cảm là một thể thống nhất về hình thức, hoàn chỉnh về nội dung. Trong đó, đoạn văn có một vai trò hết sức quan trọng trong việc cấu thành một văn bản biểu cảm hoàn chỉnh. Vì vậy, các câu, các đoạn trong văn bản phải liên kết với nhau một cách chặt chẽ. Rèn kĩ năng viết đoạn văn và việc sử dụng các cách liên kết là một thao tác không thể thiếu được. Các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài có thể được viết theo các cách như sau. 5.4. Cách viết đoạn văn biểu cảm. Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm một cách khái quát yêu cầu của các đoạn văn mở bài, đoạn văn thân bài, đoạn văn kết bài. Đoạn văn mở bài: Khái quát được cảm xúc, tình cảm của người viết khi đọc bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao”, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất của mình. Đoạn thân bài: Triển khai mạch cảm xúc, tình cảm của người viết bằng việc sử dụng những từ ngữ gợi cảm xúc, tình cảm. Lần lượt nêu lên những suy nghĩ của riêng mình về những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man, dàn đều mà nên xoáy sâu vào các trọng tâm, trọng điểm. Phải đi “a” qua “b, c, d”. Đoạn kết bài: Nêu lên những cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Tránh dài dòng, trùng lặp, đơn điệu. Thao tác cơ bản: Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà rất cụ thể. Phải chỉ ra được yêu thích, thú vị… ở chỗ nào, tại sao lại yêu thích, thú vị? Nghĩa là phải phân tích, trích dẫn. Có lúc phải khen chê. Khen, chê chính là viết lời bình. Giáo viên qua những bài giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách sẽ giúp các em làm quen dần cách bình văn, biến thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết được lời bình hay, sâu sắc thì bài cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ. Có lúc phải biết liên tưởng so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ đến hiện tượng khác tức là liên tưởng. Viết lời bình, so sánh, liên tưởng là thao tác cơ bản trong văn biểu cảm. 5.4.1.Cách viết đoạn mở bài trong văn biểu cảm. Trước hết phải nói rằng mở bài hay nhất, biểu cảm hay nhất là đạt hai yêu cầu sau: Tính khái quát. Tính định hướng. Từ đó, ta có thể trình bày một đoạn văn mẫu (đoạn mở bài) để học sinh học tập, bắt chước(bắt chước nhưng không ghi chép nguyên mẫu), rồi vận dụng cách bài ấy cho bài của mình. Chẳng hạn, khi viết đoạn văn mở bài cho đề bài trên ta có thể viết như sau: Từ lúc lọt lòng, khi còn nằm trên nôi, ta đã được nghe những lời ru ngọt ngào, xúc động của bà, của mẹ: à ơi, “ Anh đi anh nhớ quê nhà”. Lời ru ấy cứ giăng mắc mãi lòng ta. Bài ca dao “ Đêm qua ra đứng bờ ao” còn là một kỉ niệm không phai mờ trong tâm trí tôi từ thuở bé thơ. Lớn lên, tôi vẫn thường ru em như thế: “Đêm qua ra đứng bờ ao, Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. Buồn trông con nhện chăng tơ, Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ? Buồn trông chênh chếch sao mai, Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ ? Đêm đêm tưởng giải ngân hà, Chuôi sao tinh đẩu đã ba năm tròn. Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.” Đoạn văn trên được viết theo lối biểu cảm trực tiếp: biểu lộ cảm xúc, tình cảm của người viết thông qua việc sử dụng các từ ngữ: ta đã được nghe… không phai mờ trong tâm trí tôi từ thuở bé thơ… 5.4.2. Cách viết đoạn thân bài Quá trình viết đoạn văn thân bài, giáo viên lưu ý học sinh: Giọng văn, hơi văn biểu cảm không gò bó, khô khan, đảm bảo được các yêu cầu diễn đạt, dùng từ, đặt câu, lựa chọn các đặc điểm, nội dung trình bày của đoạn văn. Nghĩa là tuỳ thuộc vào mạch cảm xúc của người viết mà có cách lựa chọn cho thích hợp. Từ đề bài trên đây, ta có thể viết các đoạn văn thân bài như sau( lưu ý mỗi đoạn văn được viết ra phải xuất phát từ các ý đã tìm được ở phần trên). Đoạn văn 1: Thao thức, lẻ loi, chỉ biết ra đứng bờ ao, nơi vắng vẻ ở cuối sân, ngõ sau hay bờ ao. Cứ trông gần, trông xa, nhưng nào thấy, vì “cá lặn, sao mờ” tự bao giờ. Các điệp từ ( trông, cá, sao) gợi lên trong lòng lữ khách sự buồn vắng, chơi vơi… “ Đêm qua ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ” Nỗi niềm ấy mới chỉ diễn ra “đêm qua”, còn đầy vơi trong lòng. Giữa đêm khuya trống vắng, không một người thân thương, chỉ còn biết “buồn trông” và khẽ thốt lên: “Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi, nhện hỡi nhện chờ mối ai ?” Nhện cỏn con bé tí. Nhện sao thấu hiểu nỗi buồn nhớ cô đơn của kẻ xa quê hương. Đêm đã về khuya, sao mai đã “chênh chếch” nằm nghiêng nghiêng trên bầu trời. Rồi “sao mờ” sắp tàn canh. Vẫn chỉ một mình li khách cô đơn và trơ trọi. Lại“buồn trông” lên bầu trời, khi hỏi “sao mai” để trang trải lòng mình: “ Buồn trông chênh chếch sao mai, Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ ? ” Nỗi buồn nhớ quê hương, người thân không sao kể xiết ! Sau lời cảm thán “nhện ơi, nhện hỡi?”, “sao ơi, sao hỡi?” là những tiếng khẽ thở dài, cất lên, những giọt lệ rưng rưng rơi xuống. Đó là tâm trạng lẻ loi, trống vắng, chờ trông cứ vương vấn mãi không thôi. Câu in đậm trong đoạn văn trên là câu chủ đề (còn gọi là câu chốt) đứng ở vị trí cuối đoạn có tác dụng khái quát cảm xúc tâm trạng của người lữ khách được diễn giải ở các câu trên. Câu chốt này chính là câu chủ đề mà ta đã xác định ở phần trên. Đoạn văn 2: Nỗi nhớ quê nhà của nhân vật trữ tình cứ diễn ra triền miên . Không chỉ mới “đêm qua” mà diễn ra trong “đêm đêm”. Không chỉ một tháng, một năm mà là đã “ba năm tròn”, một thời gian dài. Không chỉ “buồn trông” mà là“tưởng”, là “ nhớ”, day dứt triền miên, không nguôi. Chữ " tưởng" là một nét tâm trạng buồn nhớ, ngóng trông vô cùng da diết: “Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm rồi”. Đến đoạn văn này câu chủ đề lại đặt ở đầu đoạn để nêu lên “nỗi nhớ” mang tính khái quát nhất, hàm xúc nhất cho toàn đoạn văn. Đoạn văn thứ ba: Hai câu cuối là hình ảnh tương phản rất đặc sắc: “đá mòn” với “dạ chẳng mòn”: “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ.” Lời thơ thấm thía bao nỗi buồn thương nhớ và cô đơn - đó là tấm lòng thương nhớ, thuỷ chung đối với quê nhà. Như vậy, mô hình cơ bản của đoạn văn biểu cảm là diễn dịch và qui nạp. Nó phù hợp với mạch cảm xúc, tình cảm của người viết. Luyện viết đoạn văn biểu cảm ở yêu cầu không khó khăn lắm là như cách trình bày trên. Tuy nhiên, để viết được đoạn văn theo các cách trên, thì người viết phải bám sát các ý của bài, rồi luyện viết với từng ý chính đã được xác định và các câu chủ đề đã được xác lập ban đầu. 5.4.3.Cách viết đoạn văn kết bài. Đoạn văn kết bài nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Vì vậy, để có được một bài văn hoàn chỉnh không thể không viết đoạn kết bài. Từ câu chủ đề đã xác định được như ở trên, ta có thể viết đoạn văn kết bài như sau: Ca dao là một tấm lòng. “Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ” là tấm lòng của nhân dân, của những ai xa gần, của ông tôi, bà tôi, mẹ tôi, chị em tôi… Tấm lòng son sắt thuỷ chung đối với gia đình, quê hương luôn toả sáng trong bài ca dao và tâm hồn con người. Tóm lại, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn trong bài văn biểu cảm là thực hiện các thao tác tìm hiểu đề, tìm ý, xây dựng câu chủ đề- để từ đó định hướng cho việc xây đựng từng đoạn văn. Cứ tập đi tập lại như thế ta sẽ thành thạo. Không phải chỉ thành thạo dựng đoạn độc lập mà thành thạo và nhạy cảm trong dựng đoạn của bài văn biểu cảm. Từ việc “Tập làm” đến việc “làm văn” là một quá trình đi từ việc rèn luyện kĩ năng cần thiết đến kĩ xảo (thói quen, thành thạo)– Không khó nhưng cũng không đơn giản chút nào nếu cả thầy và trò không chuyên tâm và không yêu thiết tha một tác phẩm văn học. Và thao tác cuối cùng trong một giờ luyện viết đoạn văn là : Luyện “nhận xét văn người, sửa văn mình”. Một số cách luyện tập viết văn biểu cảm ở đây không phải là tất cả nhưng là cách cơ bản, chúng ta nên cố gắng thực hành. Trước khi thực hành đề bài các em đọc kĩ phần dẫn giải, miêu tả về các cách ấy, tiếp nhận về mặt lí thuyết rồi bắt tay vào làm theo sáng tạo. Trong khâu tiến hành nếu thấy có gì chưa hợp lí với mình thì cần có sự điều chỉnh hoặc sáng tạo thêm. 6. Tiến hành thực nghiệm Để kiểm chứng kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm của học sinh tôi tiến hành các bước thực nghiệm sau: - Chọn đối tượng học sinh đại trà ở hai lớp: 7B và 7C (Đủ các đối tượng: giỏi, khá, TB, yếu kém). - Về cơ sở vật chất: Phòng học thông thoáng, có đủ bàn ghế, điện lưới để phục vụ Dạy - Học. - Sự chuấn bị của giáo viên ở 2 lớp: + Ở lớp 7B: Tôi tổ chức ôn tập các đơn vị kiến thức về kiểu loại biểu cảm. + Ở lớp 7C: Tôi tổ chức cho các em rèn luyện cách viết các đoạn văn biểu cảm. - Sự chuẩn bị của học sinh: + Sách giáo khoa, vở ghi, vở nháp, vở bài bập, các tài liệu có liên quan đến bài học: Cách cảm thụ các dạng Tập làm văn - Lớp 6,7 - Về thời gian: Dạy - Học 3 tiết/lớp. Bố trí học 2 buổi sáng (Ngoài giờ học chính khoá). - Ra đề: Yêu cầu của đề bài phải mang tính vừa sức, tính khoa học, chính xác, phù hợp với đối tượng học sinh lớp 7. Đề bài1: Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh. (Lớp 7B) Đề bài2: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh. (Lớp 7C) * QUY TRÌNH DẠY - HỌC Ở LỚP 7B - THỰC HIỆN CÁC BƯỚC SAU: Hoạt động 1: Khởi động bằng việc kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của các em và GV chọn một bài văn biểu cảm cho HS đọc trước lớp rồi xác định các phần trong bài làm của người viết - Trình bày các ý chính trong mỗi phần: Mở bài, Thân bài, kết bài. Hoạt động 2: GV tổ chức cho HS ôn tập các đơn vị kiến thức đã học về văn Biểu cảm. Cụ thể: I. Khái niệm văn Biểu cảm. II. Đặc điểm của văn Biểu cảm. III. Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm. Hoạt động 3: GV tổ chức cho người học viết các đoạn văn biểu cảm theo yêu cầu của người dạy. Đối tượng biểu cảm là một số tác phẩm thơ, hoặc đoạn thơ. Hoạt động 4: GV cho lớp tiến hành thảo luận và nhận xét, đánh giá các đoạn văn của HS. Hoạt động 5: GV củng cố kiến thức và tiến hành khảo sát bằng đề bài sau: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí minh. Hoạt động 6: GV thu bài và dặn dò HS. Ở LỚP 7C - THỰC HIỆN CÁC BƯỚC SAU: Hoạt động 1: GV tổ chức cho HS nắm lại các đơn vị kiến thức sau: I. Khái niệm văn Biểu cảm. II. Đặc điểm của văn Biểu cảm. III. Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm. Hoạt động 2: Tổ chức rèn luyện các kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm: 1. Xác định ý cho bài văn Biểu cảm. 2. Xác câu chủ đề cho mỗi đoạn văn. 3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ ngữ khi xây dựng đoạn văn. 4. Cách viết đoạn văn Biểu cảm: 4.1. Cách viết đoạn văn Mở bài. 4.2 .Cách viết đoạn văn Thân bài. 4.3. Cách viết đoạn văn Kết bài. Hoạt động 3: GV củng cố cách viết đoạn văn Biểu cảm và tiến hành khảo sát bằng đề bài sau: Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh. Hoạt động 4: GV thu bài và dặn dò HS. Phân Giỏi Khá Trung bình Yếu, kém loại Lớp 7B (40hs) 7C (37hs) SL % SL 5 13 12.5 10 30.2 17 % SL % SL % 25 45.9 19 6 47.5 16.2 6 1 15 2.7 Nhận xét chung qua 2 kết quả trên Qua quá trình Dạy - Học và tiến hành khảo sát thực nghiệm theo phương pháp tích cực, chúng tôi nhận thấy một số điểm sau: Đối với việc tổ chức Dạy - Học ở lớp 7B - khi chưa vận dụng triệt để phương pháp tích cực theo chuyên đề thay SGK THCS và các bước tiến hành như đã trình bày trên đây chúng ta thấy: Số bài khá, giỏi chiểm tỉ lệ quá thấp. Số bài điểm yếu, kém vẫn chiếm tỉ lệ lệ cao. Rõ ràng nếu không có sự nghiên cứu, đầu tư các cách dạy học, ôn luyện cho HS thì hiệu quả thực hành viết đoạn văn trong văn bản của các em là rất thấp. Nếu không tổ chức các buổi ôn tập một cách bài bản, khoa học đúng theo phương pháp đổi mới thì sẽ tạo cho các em sự hứng thú, say mê, tích cực trong giờ làm văn. Ngược lại khi đã vận dụng triệt để các bước dạy học làm văn (như đã thực hiện ở lớp 7C) thì học sinh hoàn toàn chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng các kĩ năng làm văn vào quá trình xây dựng đoạn văn - tạo lập văn bản. Và tất yếu HS sẽ thích học phân môn TLV. Hiệu quả dạy học sẽ cao hơn. Qua đây chúng ta thấy: Thời lượng dành cho luyện tập viết đoạn văn trong tiết dạy chính khoá là quá ít. Vì vậy, HS chưa được rèn luyện nhiều để viết đoạn, tạo lập văn bản. Điều cốt lõi là làm sao đó trên mỗi trang giáo án, mỗi tiết dạy học thực hành – rèn kĩ năng làm văn cho học sinh đều thể hiện tính nghiêm túc của người dạy và những nét tình cảm nghề nghiệp, tình yêu con trẻ, những dấu ấn cảm xúc cá nhân trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, soạn giảng. * MỘT VÀI ĐOẠN VĂN TIÊU BIỂU: 1. “Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non ? Trăng bao nhiêu tuổi trăng tròn Núi bao nhiêu tuổi núi còn trơ trơ ?" ( Ca dao) Bài ca dao “ Trăng bao nhiêu tuổi trăng già”, được viết bằng thơ lục bát và câu hỏi tu từ. Trăng và núi là hai ẩn dụ. Sự đối đáp ở đây không phải là câu đố về thiên nhiên ( núi, trăng) như có người đã nhầm tưởng. Mà sự giao, ướm hỏi ( ướm duyên) rất tình tứ, tế nhị của trai gái làng quê ngày xưa. Mộtk cách tỏ tình rất duyên dáng và biểu cảm. 2. “Trưa về đến sau đồi Gọi con như mọi bận Mà không nghe trả lời Thì mẹ ơi đừng giận Nhìn vở bài toán đố Con làm còn dở dang Bỏ quên bên cửa sổ Đừng bảo con không ngoan Sân nhà đầy lá rụng Mẹ đừng trách con lười Thấy áo con đẫm máu Mẹ đừng khóc mẹ ơi ! Giặc Mĩ nó nhằm con Mà bắn vào tim mẹ Đừng khóc con mẹ nhé Khóc sao hả căm thù”. ( Nguyễn Lê) Bài thơ “Mẹ” của Nguyễn Lê nói lên nỗi đau đớn và cà căm thù của người mẹ có đứa con ngoan bị máy bay Mĩ bắn chết . Vở bài toán đố còn dở dang con để lại bên cửa sổ; Chiếc áo đẫm máu của con… như những vật kí thác đau thương. Hồn con hiện về nói với mẹ, an ủi mẹ. Con vốn rất ngoan ngoãn, nhưng nay con không thể nào quét sân giúp mẹ được nữa rồi…Giặc Mĩ băn chêt con là chúng nó đã băn vào tim mẹ. “Đừng khóc con mẹ nhé”, vì khóc con “ sao hả căm thù” mẹ ơi ! Một tứ thơ rất độc đáo nói lên nỗi lòng đau thương con và căm thù giặc Mĩ của bà mẹ Việt Nam. Nhà biểu lộ niềm cảm thương đau đớn đối với những em thơ gần xa đã bị giặc Mĩ giết hại một cách tàn ác. 3. Đêm đã về khuya, không gian yên tĩnh. chỉ có suối trong thanh như tiếng hát từ xa vọng lại. Trăng sáng vằng vặc ôm trùm những ngọn cây. Bóng hoa in trên mặt đất tạo nên những chùm hoa lung linh. Giữa cảnh khuya lộng lẫy yêu kiều ấy có một người chưa ngủ, đó là Bác kính yêu. Bác chưa ngủ không phải để ngắm cảnh đẹp mà vì lòng còn nặng nỗi lo toan việc nước…”. 4. "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” Ngọn lửa “ chờn vờn sương sớm” là ngọn lửa thực trong lòng bếp, bập bùng nhen lên mỗi sớm mai. Nhưng ngọn lửa “ ấp iu nồng đượm” là ngọn lửa của tình bà chăm sóc cưu mang theo trình tự thơ, ngọn lửa chập chờn, bập bùng, hình tượng thơ cứ tỏ dần, tỏ dần: Bên bếp lửa là dáng hình của bà qua nắng mưa, năm tháng. ( Bài làm của học sinh)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng