Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo GDCD-GDNGLL Skkn phát triển năng lực tự học cho học sinh thpt thông qua dạy học môn gdcd lớp...

Tài liệu Skkn phát triển năng lực tự học cho học sinh thpt thông qua dạy học môn gdcd lớp 12

.PDF
45
2970
140

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH Mã số…… SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12 (Qua khảo sát tại Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Tp. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai) Người thực hiện: NGUYỄN THỊ BÍCH HỒNG Lĩnh vực nghiên cứu: Phương pháp giảng dạy môn GDCD Năm học: 2011- 2012 1 SƠ YẾU LÝ LỊCH KHOA HỌC I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN: 1 . Họ và tên: Nguyễn Thị Bích Hồng 2. Sinh ngày 03 tháng 02 năm 1982 3. Nữ 4. Long bình - Biên Hoà – Đồng Nai 5. Điện thoại: 01686079363 6. Chức vụ: Giáo viên 7. Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO : - Trình độ chuyên môn: Cử nhân - Năm nhận bằng: 2005 - Chuyên nghành đào tạo: GDCD III: KINH NGHIỆM KHOA HỌC : - Sơ đồ hoá kiến thức môn giáo dục công dân lớp 11 - Vận dụng các tình huống pháp luật thực tế vào giảng dạy môn GDCD lớp 12 2 M ỤC L ỤC 1. Lý do chọn đề tài………………………………………… Trang 3 2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài………………… Trang 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài……………….. Trang 6 4. Phương pháp nghiên cứu ……………………………….. Trang 6 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………….. Trang 6 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ………………. Trang 7 B. NỘI DUNG……………………………………………… Trang 7- 34 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12…………………………………………Trang 7- 20 1.1. Một số vấn đề chung về tự học…………………………Trang 7- 14 1.2. Thực trạng của việc dạy học môn GDCD lớp 12 ở Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Biên Hòa, Đồng Nai…………… Trang 14- 19 Chương 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH, BIÊN HÒA, ĐỒNG NAI…………………………………… Trang 21- 34 2.1. Động cơ hóa hoạt động học tập của học sinh………… 21- 26 2.2. Tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận lớp…………………………………………………………… Trang 26- 28 2.3. Vận dụng các tình huống pháp luật thực tế …………. Trang 28-31 2.4. Hướng dẫn HS chọn lọc tư liệu, tình huống liên quan đến nội dung bài học qua các kênh thông tin đại chúng hoặc qua thực tế đời sống phù hợp với bộ môn………………………………………………. Trang 31- 33 C. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HS THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12………………………… Trang 35- 37 D. KẾT LUẬN ………………………. … E. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 3 Trang 38- 39 A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Con người dù sống hay làm việc ở bất cứ môi trường nào cũng phải hội đủ năng lực đạo đức, kiến thức sáng tạo và tinh thần tự chủ, ý chí vươn lên để tồn tại và phát triển. Với xu thế hiện nay thì các yếu tố này đòi hỏi chúng ta phát huy triệt để mới có thể đáp ứng và hội nhập với xu thế thời đại - xu thế toàn cầu hóa. Vì vậy, yêu cầu mỗi cá nhân phải làm chủ tri thức, năng động, sáng tạo, cần khai thác chất xám, phát huy ý thức tự học, tự hoàn thiện bản thân để vươn lên. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nêu rõ “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi kiểm tra theo hướng hiện đại. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống, lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội” [13; 216]. Trong hệ thống giáo dục và đào tạo bậc THPT, môn GDCD giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong việc trang bị các giá trị chuẩn mực đạo đức, bước đầu xây dựng nền tảng hệ thống quy định pháp luật cơ bản. Thông qua nội dung bài học trong chương trình nhằm xây dựng lối sống, giáo dục nhân cách, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Qua đó giúp các em xác định được trách nhiệm của bản thân trong việc thực hiện các đường lối,chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước. Mặt khác, mỗi học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học để đánh giá các vấn đề xảy ra trong cuộc sống thực tiễn, lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp với các hành vi xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tại các trường THPT nói chung và trường THPT chuyên nói riêng, môn GDCD chưa được quan tâm đúng mức, từ người quản lý, giáo viên bộ môn, học sinh đến phụ huynh chưa thấy được tầm quan trọng, vai trò và vị trí của môn GDCD thậm chí cho rằng đây là môn học phụ, môn học bổ trợ hoặc đồng nhất môn học này với môn chính trị hay thuần túy là dạy đạo đức, nhất là đối với học sinh trường chuyên, nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội. Môn GDCD bậc THPT lượng kiến thức cần truyền tải cho HS rất nhiều, nội dung kiến thức tổng hợp mang tính khái quát và tính trừu tượng cao nhưng với lượng thời gian 1 tiết 4 /tuần nên việc giảng dạy chỉ mới đảm bảo truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa.Vì vậy, muốn phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh cần phải hình thành và xây dựng thói quen tự học để tự lĩnh hội tri thức. Trong thời đại “bùng nổ thông tin” với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự tăng nhanh chóng và thường xuyên của khối lượng thông tin tri thức nên việc dạy học không còn giới hạn trong phạm vi truyền đạt kiến thức mà thông qua hoạt động dạy- học nhằm tăng cường rèn luyện phương pháp, thái độ và nhận thức để tự định hướng, tự cập nhật làm giàu tri thức của mình đáp ứng yêu cầu của xã hội. Nói đến phương pháp học vấn đề cốt lõi là phương pháp tự học đây là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Để rèn luyện cho học sinh có được kỹ năng, phương pháp, thói quen tự học, biết vận dụng các kiến thức đã học, biết tự lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong cuộc sống thực tiễn. Đặc biệt đối với học sinh trường chuyên năng lực tư duy, óc suy diễn và sự tưởng tượng đánh giá rất cao. Do đó GV phải có phương pháp dạy phù hợp để phát huy hết năng lực tư duy của học sinh, chú trọng gợi mở, hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự học, đào sâu kiến thức. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12” (qua khảo sát tại Trường PHPT chuyên Lương Thế Vinh, Tp. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai), làm sáng kiến kinh nghiệm của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT không phải là một vấn đề mới, mà từ trước đến nay có rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các chuyên gia và nhiều GV đề cập ở những góc độ khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ những năm 1950 của thập kỷ XX, khi nói về công tác huấn luyện và học tập đã nhấn mạnh “Phải nâng cao và hướng dẫn tự học”. Người khuyên “ Không phải có thầy thì học, không thầy thì đùa, phải biết tự động học tập”. Năm 1997 trong cuộc hội thảo về công tác huấn luyện mang tên “Nghiên cứu và phát triển tự học, tự đào tạo” đã thu hút được được sự quan tâm của nhiều giáo 5 sư và những nhà nghiên cứu đầu ngành. Ngay sau đó tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 2-1998 ra riêng một số báo đặc biệt đăng tải một số bài tiêu biểu trong hội thảo. Cũng trong năm 1998, Nhà xuất bản Giáo dục cho ra mắt cuốn “Tự học, tự đào tạo, tư tưởng chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam”, của Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học, GS. Nguyễn Cảnh Toàn và GS. Nguyễn Như Ý chịu trách nhiệm xuất bản. Năm 1999 có cuốn sách “tự học là một nhu cầu của thời đại” của Nguyễn Hiến Lê; “tôi tự học” của Nguyễn Duy Cần và Thu Giang; “Luận bàn về kinh nghiệm tự học” của GS. Nguyễn Cảnh Toàn… Những cuốn sách là tài liệu quý, đã đúc kết nhiều kinh nghiệm quý báu trong quá trình học hỏi vươn lên của các tác giả. Nguyễn Cảnh Toàn là một người thầy vô cùng tâm đắc và luôn trăn trở với vấn đề tự học đã cho ra đời hai cuốn sách quý giá “Học và dạy cách học”, Nxb Giáo dục và tuyển tập tác phẩm “Tự giáo dục, tự học” tập 1 và tập 2, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, do Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây xuất bản năm 2001. Cuốn sách là những lời tâm sự, đúc kết các phương pháp tự học có hiệu quả và những thành công của Giáo sư về vấn đề tự học. Các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường trong cuốn sách “Quá trình dạy- tự học” đã khẳng định năng lực tự học của HS dù còn đang phát triển vẫn là nội lực quyết định của bản thân người học. Giáo viên là tác nhân hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo cho HS. “Tự học như thế nào?” của Rubakin với bản dịch của Nguyễn Đình Côi, xuất bản 1982, giúp chúng ta tự học tập, nâng cao kiến thức tự học của mình. Lê khánh Bằng đã dịch từ nguyên văn tiếng Anh “Phương pháp dạy học và dạy cách học ở đại học” được Trường Đại học Sư phạm Hà Nội lưu hành 2001. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều khẳng định tự học có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người là nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng dạy và học, là yếu tố cơ bản để người học lĩnh hội tri thức, kỹ năng và hình thành thái độ. Những giáo trình, tài liệu, công trình nghiên cứu về lý luận tự học nói chung khá phong phú và đã định hướng mục tiêu tầm quan trọng và những kinh nghiệm về tự học. Nhưng những công trình nghiên 6 cứu về phát triển năng lực tự học của học THPT nói chung và năng lực tự học môn GDCD của học sinh trường chuyên chưa nhiều. Do vậy, trong nội dung sáng kiến kinh nghiệm này một mặt tác giả kế thừa những vấn đề lý luận về tự học nói chung của các tác giả mặt khác cố gắng phân tích, triển khai áp dụng vào một vấn đề mới hơn, có ý nghĩa thực tế hơn, liên quan trực tiếp đến chuyên môn và nghiệp vụ của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12.Từ đó, đề ra một số giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển năng lực tự học cho học THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12 nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học . - Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng như các ngành khoa học xã hội, ngoài ra tôi đặc biệt sử dụng kết hợp một số phương pháp sau : - Phương pháp điều tra xã hội học; - Phương pháp phỏng vấn; - Phương pháp tổng hợp, phân tích và thống kê; - Phương pháp thực nghiệm sư phạm… 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Do địa bàn Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh rộng, nhiều lớp nên tôi lựa chọn 4 lớp khối 12 để tiến hành điều tra, khảo sát, thực nghiệm và vận dụng các giải pháp. 7 5.1. Phạm vi nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của các giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học và thực trạng tự học môn GDCD lớp 12 ở Trường THPT Chuyên Lương Thế Vinh, Tp. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai. Đề ra một số phương pháp nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT thông qua dạy một số bài cụ thể của môn GDCD lớp 12. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Nếu xác định được năng lực tự học và những biểu hiện của năng lực tự học môn GDCD lớp 12, đồng thời căn cứ vào mục tiêu của dạy học môn GDCD trong trường THPT hiện nay thì đề tài có thể đề xuất được giải pháp có luận cứ khoa học đảm bảo tính khả thi, có hiệu quả góp phần nâng cao năng lực tự học cho học sinh THPT. Đề tài có thể xem như là một tư liệu tham khảo cho giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học. B. NỘI DUNG Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH THPT THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12. 1.1. Một số vấn đề chung về tự học 1.1.1. Các quan niệm về tự học Tự học là một nội dung vừa có tính truyền thống vừa có tính thời sự phổ biến không chỉ ở nước ta mà còn là vấn đề của nhiều nước. Ngay từ xa xưa, Khổng Tử đã ý thức được tầm quan trọng của việc tự học đối với mỗi con người. Theo ông học không chỉ ở trường mà còn học ở bạn bè, học ở mọi nơi mọi chổ, học ở mọi người bằng ý chí và nghị lực và niềm say mê là cách tự học của Khổng Tử. Ông đã chỉnh lý một số sách cổ kinh điển của nho gia như: Kinh thi, Kinh thư, kinh lễ… Có được thành tựu này là do ông luôn có tinh thần tự học hỏi, tự bồi dưỡng và quan trọng hơn là ông biết cách tự học. Bác Hồ là tấm gương lớn của tự học, Người đã đến với chủ nghĩa cộng sản bằng con đường tự học và sự tự học của Người gắn chặt với mục tiêu lý tưởng mà Người 8 đã vạch ra. Đặc biệt, Bác rất chú trọng sự thực hành trong tự học và luôn coi thư viện là trường học lớn của mình. Người dạy “học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tiễn. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, đã biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam 21. 7. 1956). Người cho rằng tự học chính là sự nổ lực của bản thân người học, sự làm việc của bản thân người học một cách có kế hoạch trên tinh thần tự động học tập. Nguyễn Kỳ cho rằng “Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị trí của người tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, vào vị trí của người tự nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho mình, nhận biết vấn đề, thu thập xử lý thông tin, tái hiện kiến thức cũ, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, xử lý tình huống, thực nghiệm các giải pháp, kết quả, kiến thức mới mình đã tự lực tìm ra, tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc học” [31; 15]. Khi nghiên cứu các biện pháp tổ chức hoạt động tự học tác giả Nguyễn Thị Tính cho rằng: “Tự học là một quá trình, trong đó dưới vai trò chủ đạo của GV, người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, thông qua các hoạt động trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh phán đoán …) và cả các hoạt động thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị đồ dùng học tập). Tự học gắn liền với động cơ, tình cảm và ý chí… của người học để vượt qua chướng ngại vật hay vật cản trong học tập nhằm tích lũy kiến thức cho bản thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại, biến những kinh nghiệm này thành kinh nghiệm và vốn sống của bản thân người học” [37; 23]. Phan Trọng Luân cho rằng “học là công việc của cá nhân. Học là công việc của bản thân người học”. Ông cho rằng một trong các mục đích quan trọng của dạy học là dạy cách học. [34; 8]. Trong cuốn sách “Tự học như thế nào”, Rubakin cho rằng tự học là một quá trình so sánh đối chiếu và đáp, đó là sự so sánh giữa lý thuyết và thực hành, giữa sách vở và thực tế cuộc sống, từ đó rút ra cho mình một tri thức riêng đầy sáng 9 tạo.Trong quá trình tự học con người không hoàn toàn phụ thuộc vào cuộc sống mà cần phải cải tạo cuộc sống sao cho ngày càng cao hơn. Nguyễn Cảnh Toàn, người đã giành nhiều tâm huyết vào vấn đề tự học, ông đã đưa ra một quan niệm về tự học có thể xem hoàn chỉnh “Tự học là tự mình dùng các giác quan để thu thập thông tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh cho được một lĩnh vực hiểu biết nào đó, một kỹ năng nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng rồi biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái mới cũng có thể coi là hình thức tự học cao cấp” [43; 407]. Nhìn chung, các tác giả đều quan niệm rằng, tự học là học với sự độc lập và tích cực, tự giác ở mức độ cao. Tự học là quá trình mà trong đó chủ thể người học tự biến đổi mình, tự biến đổi các giá trị của mình, tự làm phong phú giá trị của mình bằng các thao tác tư duy và ý chí, nghị lực và sự say mê học tập của cá nhân. Tổng hợp các quan điểm của các tác giả, chúng tôi cho rằng có thể phân biệt các hình thức tự học sau đây: Thứ nhất, tự học của HS diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của GV với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật ở trên lớp. Với hình thức này việc tự học của HS chịu sự định hướng và điều khiển của GV nhằm đạt được mục tiêu của giờ dạy đã xác định từ trước. Lúc này việc tự học của HS có đầy đủ các yếu tố: GV, bạn, SGK, tài liệu… Trong môi trường lớp học truyền thống hiệu quả tự học lúc này phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật điều khiển của GV, tuy nhiên với từng HS vẫn có các hoạt động riêng, sự sáng tạo riêng và do đó hiệu quả học tập cũng rất khác nhau. Kết quả của quá trình tự học này là sự thống nhất biện chứng giữa sự hướng dẫn của GV và sự tự giác học tập của HS. Thứ hai, tự học của HS diễn ra ngoài phạm vi lớp học nhằm đáp ứng yêu cầu của môn học đã được học trong nhà trường. Với hình thức này, HS chỉ có tài liệu liên quan đến các môn học dưới sự hướng dẫn trước của GV. Tuy nhiên, HS phải tự tổ chức việc học tập của mình ở nhà nhằm ôn tập, hệ thống hóa, làm các bài tập, rèn 10 luyện các kỹ năng, kỹ xảo …theo yêu cầu của GV, đáp ứng chính các yêu cầu của bản thân người học nhằm lĩnh hội tri thức các môn học. Thứ ba, tự học nhằm đáp ứng yêu cầu hiểu biết riêng, bổ sung và mở rộng, nâng cao các kiến thức trong chương trình đào tạo ở nhà trường, thậm chí họ có thể tìm hiểu về những tri thức không quy định nhằm mở mang hiểu biết của mình. Với hình thức này người học hoàn toàn chủ động lựa chọn kiến thức cần bổ sung, lựa chọn tài liệu cần đọc, tự mình sắp xếp các tri thức học được vào hệ thống tri thức mà mình đang có. Đây là mức độ tự học rất cao vì HS tự mình tổ chức toàn bộ các hoạt động của quá trình tự nhận thức của mình. Từ đó cho thấy năng lực tự học của HS THPT có những đặc trưng sau: - Người học phải tự đề ra cho mình phương pháp học từ đầu cho đến kết thúc quá trình học và đóng vai trò mấu chốt bằng sự hứng thú, tham gia tích cực và có trách nhiệm trong suốt quá trình học. Trong tự học tính độc lập, chủ động càng có vai trò quan trọng và được coi là công cụ đắc lực không có gì thay thế giúp cá nhân tích lũy kinh nghiệm, tri thức khoa học, hoàn thiện nhân cách. - Tiếp theo học sinh luôn phải rèn luyện cho bản thân có ý thức tự giác trong học tập và hứng thú đối với các kiến thức mà mình đang tiếp thu. Điều này sẽ giúp người học tham gia tích cực và biết tiếp tục quá trình học bằng cách tạo ra một hình thức phù hợp với tính cách của mình. Như vậy, khi thực sự trở thành chủ thể học cũng có nghĩa là ngươì học đã tự giác xác định được động cơ, mục đích học tập. Người học tiến hành việc học dựa trên trách nhiệm cá nhân và sự điều khiển của ý chí thì hoạt động học trở thành quá trình tự học, tự giác chủ động, có phong cách và phương pháp cá nhân. - Trong hoạt động tự học khả năng lựa chọn cao, rộng rãi về cả nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức học tập. Sự lựa chọn này luôn hướng đến sự phù hợp giữa người học và điều kiện bên ngoài. - Tự học mang tính cá nhân rất cao, tự học phải dựa trên chính tiềm năng của người học và dựa trên ý thức trách nhiệm của người học. Mỗi người có một phương pháp học tập khác nhau, cách tổ chức học tập khác nhau và ý chí cá nhân khác nhau nên hiệu quả tự học cũng khác nhau. 11 Tóm lại, tự học là một quá trình con người vượt qua hoàn cảnh và vượt qua chính mình, biết tự vận dụng tất cả từ ý chí nghị lực, tư duy, nhân cách, tâm hồn, mục đích sống đến khát vọng của bản thân để vượt qua mọi khó khăn nhằm chiếm lĩnh tri thức của nhân loại. Hoạt động tự học được diễn ra trong mọi thời điểm từ tự học ở nhà, tự học ở trường và tự học cả bên ngoài xã hội. Kết quả của việc tự học được đánh giá bởi chính hiệu suất và hiệu quả công việc của từng người, phụ thuộc vào khả năng tiếp thu, hoàn cảnh và thời gian từng người. Nhìn chung mọi người đều nhằm mục đích biết được càng nhiều kiến thức càng tốt để nâng mình lên đến một trình độ cao, phục vụ cho cuộc sống của mình tốt hơn. 1.1.2. Năng lực tự học của học sinh THPT Năng lực là một vấn đề khá trừu tượng, cho đến nay vẫn có nhiều cách tiếp cận và diễn đạt khác nhau: Phạm Minh Hạc thì cho rằng “năng lực là một tổ hợp đặc điểm tâm lý của một người, tổ hợp này vận hành theo một mục đích nhất định tạo ra kết quả của một hoạt động nào đấy” [18; 145]. Theo Đặng Thành Hưng “năng lực được cấu thành từ các bộ phận như: tri thức về hoạt động hay quan hệ đó; kỹ năng tiến hành hoạt động hay xúc tiến ứng xử với quan hệ đó; những điều kiện tâm lý để tổ chức và thực hiện tri thức và kỹ năng nào đó trong một cơ cấu thống nhất và theo một định hướng rõ ràng. Tương ứng là ba dạng năng lực chuyên biệt: năng lực biết, năng lực làm, năng lực biểu cảm” [19; 25-27]. Xavier Roegiers cho rằng: Năng lực là sự tích hợp các kỹ năng tác động một cách tự nhiên lên các nội dung trong một loại tình huống cho trước để giải quyết những vấn đề do tình huống đặt ra. Nhưng nhìn chung các tác giả đều thống nhất: cấu trúc của năng lực là tổng hợp nhiều kỹ năng thực hiện những hoạt động thành phần có liên hệ chặt chẽ với nhau; năng lực tồn tại và phát triển thông qua hoạt động; năng lực chỉ nảy sinh và quan sát được trong hoạt động giải quyết những yêu cầu mới mẻ và do đó nó gắn liền với tính sáng tạo. Năng lực của mỗi người là có sự khác nhau về mức độ. 12 Tự học trong nhà trường THPT trên thực tế vẫn còn là một vấn đề chưa được thực hiện một cách thường xuyên và phổ biến, mặc dù giáo dục hiện đại đã được đề cập đến từ lâu nay. Không thể phủ nhận trong trường THPT vẫn có những học sinh say mê học hỏi và luôn có ý thức tự học nhưng chưa nhiều. Trong xu thế xã hội ngày càng phát triển, vấn đề tự học trong nhà trường lại càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Tự học cần phải trở thành một trong những kỹ năng quan trọng số một của giáo dục, năng lực trong mỗi cá nhân HS. Bản thân người học cần phải làm quen với vấn đề tự học, hình thành một năng lực tự học để sau này có điều kiện học tiếp nữa hay không vẫn có thể tự học hỏi để trau dồi tri thức và thích nghi với thời đại. Cho nên, vấn đề tự học của HS THPT là một vấn đề cần thiết mang tính chiến lược. Tự học của HS THPT cũng như tự học của HS nói chung là tổng hợp của nhiều năng lực. Mục đích tự học của HS là hoàn thành tốt những phần nào đó trong nhiệm vụ học tập của mình mà không có thầy bên cạnh. Như vậy, tự học của HS THPT luôn gắn với năng lực chủ động, tích cực, HS phải tự nghiên cứu tài liệu, tự mình phát hiện kiến thức, tự mình nắm bắt một phần kiến thức. HS phải thường xuyên tự tìm tòi những tài liệu liên quan đến bài học để có sự so sánh, đối chiếu, tự biết vận dụng chuyển hóa kiến thức bài học dưới sự định hướng và dẫn dắt của GV. Năng lực tự học của HS THPT mới chỉ dừng lại ở mức độ thấp, nhưng đây lại là cơ sở vô cùng quan trọng cho việc hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu ở mức độ cao sau này. Nhà trường sẽ là nơi tạo dựng một nền móng vững chắc cho kinh nghiệm tự học, tự nghiên cứu thuần thục của một nhà khoa học sau này. - GV là người hướng dẫn, tổ chức cho HS tự nghiên cứu tìm ra kiến thức và tự thể hiện mình trong lớp học, GV là một trọng tài cố vấn. Kết luận trong các cuộc tranh luận đối thoại (HS – HS – GV – GV) để khẳng định kiến thức do HS tìm ra và GV là người kiểm tra đánh giá kết quả tự học của HS. - HS tự đánh giá, tự kiểm tra lại sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi, hợp tác với bạn bè và dựa vào kết luận của GV, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện 13 đồng thời tự rút kinh nghiệm về cách học, cách xử lý tình huống, cách giải quyết vấn đề của mình. Trong quá trình tự học, HS luôn tự chủ, năng động và sáng tạo, biết học hỏi và đánh giá, biết so sánh và đối chiếu, biết kiểm nghiệm và xử lý tình huống. Quan trọng hơn là HS phải biết tự tìm cho mình một cách tự chiếm lĩnh tài liệu. Song song với việc phát huy tối đa nội lực của học sinh trong quá trình tự học, vai trò của GV vô cùng quan trọng. Nếu như việc tự học ngoài xã hội, người học có quyền chọn kiến thức để tự học và tự học một cách tự do. Thì tự học trong nhà trường có tính chất định hướng, GV có trách nhiệm hướng dẫn các em từ cách tự mình nghiên cứu SGK đến việc điều chỉnh kiến thức mà các em thu nhận được để có được lượng kiến thức chính xác nhất. Qua đó, GV hình thành và phát triển năng lực tự học cho HS với những cách suy nghĩ, tìm tòi để có thể tự đặt vấn đề, tự giải quyết vấn đề và tự nghiên cứu. Những định hướng của GV còn có tác dụng phát huy tính năng động, tự giác và lòng say mê học hỏi trong quá trình học tập của HS. Như vậy, tự học của HS THPT không đòi hỏi mức độ cao như tự học của các nhà nghiên cứu, mà chủ yếu dựa vào bài học cụ thể trong SGK, những tài liệu có liên quan đến bài học để đối chiếu, so sánh, mở rộng làm cho quá trình nhận thức của HS mang tính chủ động và có tính chất nghiên cứu. Mục đích tự học của HS THPT giúp các em hiểu sâu sắc, trọn vẹn bài học bằng chính năng lực của mình và biết vận dụng kiến thức thành kinh nghiệm của bản thân. 1.2. Thực trạng của việc dạy học môn GDCD lớp 12 ở Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Biên Hòa, Đồng Nai 1.2.1. Những thuân lợi của việc phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12 ở Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Biên Hòa, Đồng Nai Theo một khảo sát về khoảng cách IQ- EQ giành cho HS trường chuyên do Viện nghiên cứu giáo dục – Đại học sư phạm TP. HCM thực hiện cho thấy: HS các trường chuyên có điểm mạnh về năng lực tư duy, trong đó óc suy diễn và sự tưởng tượng được đánh giá rất cao mà theo HS do thường vận dụng các năng lực này trong việc học. Hơn nữa, HS trường chuyên có khả năng làm việc dưới áp lực rất 14 cao, có nhiều cảm thông với người khác, có sự rõ ràng và quả quyết trong việc làm của mình và có nhận thức cá nhân cao. HS trường chuyên có khả năng nhận thức được bản thân, đây là một kỹ năng không dễ có đối với HS THPT. Đối với HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, đa số các em ngoan, chăm chỉ và năng lực học tập rất cao (75,78% HS đạt học lực khá giỏi (năm học 2010- 2011). Thi đua nhau học tập là truyền thống của HS trường chuyên, phần lớn các em có tinh thần tự giác học tập, chịu khó vươn lên, có tinh thần ham học hỏi. Được học dưới mái trường có bề dày về thành tích, có nhiều HS vượt khó học giỏi, các em xác định được mục tiêu và phương pháp học tập của mình. Sự nỗ lực cố gắng của các em vừa để khẳng định năng lực của bản thân vừa góp phần làm nâng cao thương hiệu của nhà trường. Để xứng đáng với danh hiệu HS trường chuyên của tỉnh Đồng Nai- nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội, ngoài giờ học trên lớp các em giành rất nhiều thời gian cho tự học, tự nghiên cứu. Đây chính là nền tảng để GV giảng dạy các bộ môn phát triển thêm năng tự học cho các em bằng nhiều phương pháp khác nhau. Nhất là môn GDCD lớp 12, môn học gắn liền với đời sống thực tế của các em, nên nhiều HS rất quan tâm nhưng do thời gian học môn chuyên, hầu như các em không còn thời gian để tìm hiểu, để nghiên cứu. Nếu GV có phương pháp phù hợp sẽ phát triển được năng lực tự học của HS ở môn học này. Cùng với sự lớn mạnh của nhà trường GV Tổ GDCD- CN không ngừng nâng cao trình độ vươn lên tự khẳng định chất lượng, làm tốt công tác giảng dạy, rèn luyện đạo đức, lối sống cho HS, góp phần đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Với sự cố gắng của bản thân cộng với sự quan tâm, động viên và sự đầu tư của Tỉnh cũng như nhà trường, đội ngũ GV bộ môn GDCD của Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh ổn định về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Những yếu tố này là điều kiện để chúng tôi nâng cao chất lượng giảng dạy, tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, tạo điều kiện để chúng tôi chính hóa môn học phụ ở trường chuyên. Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh là nơi thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo bàn về đổi mới và vận dụng các phương pháp dạy học, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực phát hiện, bồi dưỡng HS giỏi. Bên cạnh đó nhà 15 trường đã tiến hành tập đợt cho HS nghiên cứu khoa học, có nhiều công trình khoa học được bảo vệ thành công tại hội đồng khoa học nhà trường và của Bộ Giáo Dục như: Công trình nghiên cứu trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của HS THPT, dự thi tại Singapore trường đã đạt giải nhì, hay công trình nghiên cứu của HS lớp chuyên sinh về việc sử dụng nước mưa nhân tạo đã đạt giải nhất do Bộ GD- ĐT tổ chức …Cơ sở vật chất vật chất của trường khá đầy đủ thuận tiện cho việc dạy - học theo nhóm hoặc ứng dụng CNTT trong dạy học. Như vậy, có thể khẳng định Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh là một trong những nơi có điều kiện tốt nhất để đổi mới và vận dụng các phương pháp dạy học mới vào giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy học hiện nay. 1.2.2. Những khó khăn của việc phát triển năng lực tự học cho học sinh THPT thông qua dạy học môn GDCD lớp 12 ở Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh, Biên Hòa, Đồng Nai Ở trường THPT nói chung và trường chuyên nói riêng, tất cả các môn học, tất cả các thầy cô giáo đều có nhiệm vụ giáo dục đạo đức và kỹ năng sống cho học sinh bên cạnh việc dạy học kiến thức của từng môn. Môn GDCD với vị trí đặc thù của mình là “giữ vai trò chủ chốt trong việc giáo dục cho HS ý thức và hành vi của người công dân góp phần hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần thiết của người công dân trong xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Môn DGCD có vai trò quan trọng trong việc phát triển tâm lực và nội lực của sự phát triển nhân cách HS. Do vậy, môn GDCD góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo HS thành những người lao động mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế phát triển chung của thời đại” [32; 18]. Với vai trò và tầm quan trọng như vậy nhưng hiện nay, môn GDCD chưa được phát huy hết vai trò và vị trí của mình trong trường THPT và nhất là trường chuyên. HS chưa ý thức được vai trò của môn học, “xem nhẹ” môn GDCD biểu hiện rõ rệt. : Theo tìm hiểu thì hầu như học sinh chưa bao giờ dành một qũy thời gian trên 30 phút để học môn GDCD và cũng ít có HS đọc SGK hoặc soạn bài trước ở nhà. Trong giờ học thật hiếm có HS giơ tay phát biểu ý kiến, GV đưa ra câu hỏi và chỉ định thì HS mới 16 miễn cưỡng đứng lên trả lời qua loa theo SGK. Sự tìm tòi, đọc thêm tài liệu liên quan đến bài học cũng chỉ có những HS giỏi hoặc khi được giao cụ thể. Các em cho biết nhiều khi thấy một số vấn đề lý thú nhưng không biết tìm tài liệu nào? ở đâu? cách khai thác như thế nào? Lỗi này phải chăng do thiếu sót của đội ngũ GV chúng ta. Các em không biết nên ghi những gì trong chuỗi lời giảng của GV hoặc GV đọc nhanh quá các em không kịp chép. Học theo cách này các em nắm được kiến thức trong SGK còn khó, thì làm sao mà các em còn hứng thú để tìm tòi, học hỏi nghiên cứu sâu hơn bài học của mình để mở rộng kiến thức, còn đâu cơ hội để đưa ra một phương pháp học, hình thành một thói quen tự học, để tự đào tạo mình, tự phát triển. Tôi thiết nghĩ, nếu như HS học môn GDCD mà cũng giành thời gian và tâm huyết như các môn học chuyên thì hiệu quả tác động của môn GDCD đối với các em sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Vì HS của chúng ta ngày nay rất thông minh và nhạy bén, có lẽ do chúng ta chưa gợi được hứng thú học tập của các em, chưa tạo được tâm thế hứng khởi cho họ trong giờ học, chưa kích thích sự tích cực, năng động trong tư duy của các em để phát huy hết khả năng sáng tạo và kinh nghiệm của mình trong tiếp nhận tri thức. Thực ra, không có sự phân biệt chính phụ đối với các môn học trong trường phổ thông. Tuy nhiên, do tâm lý học để thi nên thông thường các môn thi bao giờ cũng được coi là môn chính. Còn những môn học không thi thì cho là môn học phụ, do đó việc dạy và học khó có hứng thú và đạt hiệu quả thực tế mà chỉ là nghĩa vụ. Hơn nữa, mục tiêu học tập của học sinh THPT hiện nay là vượt qua hai kỳ thi tốt nghiệp và đại học mà môn GDCD lớp 12 không thi tốt nghiệp, nội dung lại không liên quan đến kỳ thi đại học nên HS ít đầu tư nghiên cứu nhất là HS trường chuyên. Nội dung chương trình môn GDCD còn quá nặng về lý thuyết, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của người học. Các phương tiện hỗ trợ dạy học GDCD ở trường chuyên hầu như không có, phần lớn do GV phải sáng tạo.Tài liệu tham khảo cho HS và GV giảng dạy còn hạn chế. Hơn nữa đây là môn học có tính thời sự cao nên việc cập nhật tài liệu gặp nhiều khó khăn cho cả người dạy lẫn người học. Thời gian gần đây, quan điểm đổi mới phương pháp dạy học đã có tác động mạnh mẽ đến các cấp học trong nhà trường, đặc biệt là cấp THPT. GV bộ môn GDCD cũng có những thay đổi đáng kể trong phương pháp giảng dạy nhưng chưa thương 17 xuyên và chưa có chuyển biến đáng kể. GV khi lên lớp thường có sự chuẩn bị thông qua thiết kế giáo án nhưng giáo án mới chỉ dừng lại là một đề cương nội dung bài học cần truyền đạt. Dựa vào SGK và sách hướng dẫn, GV làm công việc tóm tắt những nội dung chính cần truyền đạt cho HS. Những hoạt động của HS qua từng nội dung bài học, từng chủ đề hình như không có mặt trong giáo án. Với thiết kế giáo án như vậy, GV là chủ thể hoạt động, HS là khách thể bị động, GV thông qua khối lượng kiến thức đã chuẩn bị truyền thụ lại cho HS như một cuộc chạy đua với thời gian, kết thúc giờ học là kết thúc bài học. Thiết kế giáo án, kết hợp với phương pháp giảng dạy ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của HS. Với cách dạy truyền thụ một chiều làm cho HS không thể hứng thú và phát huy hết năng lực, kinh nghiệm hiểu biết sẵn có của mình cũng như lòng say mê học hỏi và thực tế sẽ diễn ra là thái độ không coi trọng giờ học, thái độ này không chỉ tồn tại ở HS mà còn có trong ý thức của một số GV giảng dạy môn học này. Chính điều này mà dẫn đến một thực trạng là có những HS học xong lớp 12 mà không nhớ nỗi khái niệm pháp luật là gì? Bản thân mình có những quyền tự do cơ bản nào? Nói gì đến việc trách nhiệm của bản thân đối với Nhà nước với xã hội như nội dung bài đã học. Một lý do khác ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập nói chung và môn GDCD nói riêng là vấn đề học thêm của HS. Chứng kiến việc học thêm của các em, chúng ta thấy có nhiều điều bất cập, trong có vấn đề “tự học”. Trước đây, khi HS học ở nhà nhiều hơn thì bây giờ ngược lại, thời gian học ở trường, ở lớp nhiều hơn ở nhà. Các em bận rộn với chuyện đi học thêm, thời gian gần như lấp kín. Chúng ta tự hỏi không biết HS của chúng ta, học bài, ôn bài, làm bài tập vào thời gian nào? Hiện nay trên thị trường có rất nhiều tài liệu tham khảo, nhiều kênh thông tin phong phú, phục vụ cho môn học nhưng vì thời khóa biểu học thêm của các em kín hết ngày làm gì còn thời gian để các em tự học, tự nghiên cứu. Theo xu thế chung của thời đại hiện nay nên đa số các em chọn cho mình môn tự nhiên để học ra trường dễ kiếm việc làm và lương cao hơn khi chọn lĩnh vực xã hội để học. Đây cũng là thực trạng của xã hội Việt Nam hiện nay, khi mà lĩnh vực tự nhiên, Ngân hàng Tài chính, Kinh tế…mọi người đổ xô vào học vào nghiên cứu thì lĩnh vực xã hội lại trầm lắng làm ảnh hưởng đến sự phát triển cân bằng của xã hội. 18 Thực tế, chỉ một số ít học sinh chuyên trở thành nhà Toán học, nhà Vật lý hay nhà Văn ….phần lớn sẽ trở thành người lao động có trình độ cao của đất nước. Do vậy, học chuyên không chỉ nhằm mục đích đi thi, làm nhà nghiên cứu … mà quan trọng là để các em có năng lực giải quyết những vấn đề trong thực tiễn, vấn đề xã hội của mỗi cá nhân. Cho nên để xứng đáng là học sinh trường chuyên các thầy cô giáo và HS phải phấn đấu làm sao vừa “hồng” lại vừa “chuyên” thi mới xứng đáng là nơi cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội hôm nay. Như vậy, qua quá trình khảo sát, phỏng vấn, điều tra việc dạy học theo hướng phát triển năng lực tự học cho HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh cho thấy: Nhìn chung HS của trường chưa có nhận thức đầy đủ về vai trò, bản chất, ý nghĩa của tự học, tự nghiên cứu đối với môn GDCD. Vì thế, việc giành thời gian và sử dụng các biện pháp tự học cho môn học này chưa được chú trọng, chủ yếu tập trung học kỹ để chuẩn bị cho thi và kiểm tra. Một trong những khó khăn dẫn tới thực trạng trên là do HS thiếu các kỹ năng tự học, chưa có cách học, chưa có đủ tài liệu và các phương tiện hỗ trợ học tập. Đặc biệt, do GV chưa thực sự quan tâm đến việc phát triển năng lực tự học cho các em, chưa phát huy hết vai trò tích cực, sáng tạo của HS trong quá trình dạy học. Chính vì vậy, năng lực tự học môn GDCD lớp 12 của HS Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh còn hạn chế, dẫn đến kết quả học tập chưa tương xứng với trình độ và khả năng của các em. Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn học, GV cần đánh thức tiềm năng của các em, tạo cho các em điều kiện để phát triển, tạo cho HS niềm tin tự khẳng định mình trong học tập cũng như trong cuộc sống. Đây là trách nhiệm vô cùng nặng nề và lớn lao của người GV nói chung và GV giảng dạy môn GDCD nói riêng.Việc phát triển năng lực tự học cho HS THPT trong giờ GDCD vẫn còn là một vấn đề khó khăn và dường như mới mẻ đối với cả HS và GV. Thay đổi một quan miệm cũ đã trở thành một thói quen trong nếp nghĩ quả là một công việc khó khăn nhưng nếu không thay đổi sẽ trở thành lạc hậu, bảo thủ. Quan niệm của mỗi GV có đóng góp vô cùng quan trọng đối với việc xác định mục đích giảng dạy và phương pháp giảng dạy môn GDCD. Đã đến lúc mỗi GV môn GDCD đặt cho mình một câu hỏi dạy như thế nào? Thay thế câu hỏi dạy cái gì? 19 Chuyển đổi từ việc cung cấp tri thức cho HS sang việc phát triển năng lực tự học cho HS để tự đào tạo. Kết luận chương 1. Việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tự học, các đặc trưng của hoạt động tự học, xác định được cấu trúc năng lực tự học của HS THPT, làm rõ mối quan hệ giữa hoạt động dạy và vấn đề phát triển năng lực tự học là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp nhằm phát triển năng lực tự học nói chung và năng lực tự học môn GDCD nói riêng. Bản chất của tự học là quá trình người học cá nhân hóa việc học nhằm thỏa mãn các nhu cầu tự học, tự nghiên cứu, tự giác tiến hành các hoạt động học tập để thực hiện có hiệu quả mục đích và nhiệm vụ học tập. Tự học môn GDCD lớp 12 mang đặc thù của bộ môn lý luận chính trị, với những kiến thức khó, trừu tượng và mang tính pháp lý rất cao. Cho nên đòi hỏi người học phải không ngừng nâng cao ý thức tự học cả trên lớp và ở nhà để chiếm lĩnh được tri thức một cách sâu sắc hơn. Trong quá trình dạy học, phương pháp dạy học của GV có ảnh hưởng lớn đến vấn đề phát triển năng lực tự học của HS, cụ thể ảnh hưởng đến các yếu tố như: động cơ, mục đích học tập, hứng thú học tập, tính tích cực nhận thức, phương pháp tự học, tính tự giác, tích cực trong học tập của HS. Nhưng trong quá trình tìm hiểu, điều tra thực trạng dạy học môn GDCD lớp 12 ở Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh chúng tôi thấy rằng, HS của trường có năng lực tự học rất tốt nhưng các em hầu như chưa nhận 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan