Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp ...

Tài liệu Skkn phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.

.DOC
26
1866
80

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Qua quá trình giảng dạy trong nhà trường Tiểu học, nhất là một số năm gần đây, tôi thường xuyên được nhà trường phân công nhiệm vụ chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4, tôi thấy vốn kiến thức về Từ và Câu của các em còn hạn chế. Các em nắm bắt khái niệm còn mơ hồ , dẫn đến nhiều sai sót, nhầm lẫn trong quá trình làm bài. Với suy nghĩ: Làm thế nào để các em dễ dàng phát hiện ra kiến thức mà không bị nhầm lẫn? Tôi đã quyết định đi sâu tìm hiểu và xây dựng đề tài: Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4. II. Mục đích nghiên cứu Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cách hiệu quả nhất. III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và thời gian thực hiện đề tài 1. Đối tượng: 32em học sinh lớp 4D. 2. Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu tình hình học phân môn Luyện từ và câu trong môn Tiếng việt lớp 4. Thực hành xác định phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Đề xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học sinh dạng bài này. 3. Thời gian thực hiện đề tài: Năm học 2011- 2012. . IV. Phương pháp nghiên cứu. 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận (đọc tài liệu). 2. Phương pháp phân tích tổng hợp. 3. Phương pháp điều tra,thống kê. 4. Phương pháp thực nghiệm, kiểm chứng. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 1 5. Phương pháp đàm thoại, gợi mở. 6. Phương pháp thực hành. 7. Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm. V. Tiến trình nghiên cứu. 1. Trong quá trình giảng dạy, tôi tiếp xúc, gần gũi với học sinh và hiểu tình trạng giải quyết làm các bài tập Luyện từ và câu học sinh trong lớp . 2. Đề ra phương hướng để nâng cao chất lượng làm các bài tập Luyện từ và câu có hiệu quả hơn. 3. Dạy thực nghiệm, áp dụng trên lớp đối chứng, phân tích các kết quả bằng số liệu thống kê. B. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ. Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình. Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 2 II. Cơ sở thực tiễn. Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho các Giáo viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải không ít những khó khăn. Bởi đây là chương trình thay sách lớp 4 mới. Cùng tồn tại với nó là từ ngữ và ngữ pháp của chương trình cải cách đều đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên và ngay bản thân tôi. Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập, giảng dạy trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy của mình. Vì điều kiện, khả năng nghiên cứu có hạn tôi xin trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài “Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”. III. Thực trạng dạy – học các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. 1. Đối với chương trình sách giáo khoa. Số tiết Luyện từ và câu của sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình thành kiến thức là một số các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương pháp tổ chức cho một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành. 2. Đối với giáo viên. - Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn. - Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh ngại học phân môn này. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 3 - Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh. - Một số giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh, giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt. - Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển bồi dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những hạn chế. 3. Đối với học sinh. Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn “Luyện từ và câu” nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này. Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu...Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều. Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài. Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác, nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn. Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy...Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 4D bằng bài tập sau: Đề bài: Cho đoạn văn sau: Biển luôn luôn thay đổi tùy theo màu sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng thẳm xanh, như dâng cao lên chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ. Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lùng, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng. a. Tìm từ ghép trong các từ in nghiêng ở đoạn văn trên, rồi xếp vào hai nhóm: từ ghép có nghĩa tổng hợp và từ ghép có nghĩa phân loại. b.Tìm từ láy trong các từ in nghiêng ở đoạn văn trên, rồi xếp vào ba nhóm: từ láy âm đầu; từ láy vần; từ láy cả âm và vần. Qua khảo sát ở lớp tôi có 32 học sinh, kết quả khảo sát như sau: Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 4 Giỏi SL 4 % 12,5 Khá SL 6 % 18,7 Trung bình SL % 15 46,9 Yếu SL 7 % 21,9 Điều đáng nói ở đây là có nhiều em chưa biết xác định từ ghép, từ láy, trong quá trình làm học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ. Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía: Người dạy và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên, để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý của học sinh vào hoạt động học. Đặc biệt là gây hứng thú cho các em khi học phân môn Luyện từ và câu. 4. Một số dạng bài tập “Luyện từ và câu” điển hình. + Phân tích cấu tạo của tiếng. + Tìm các từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ nói về chủ đề. + Giải nghĩa từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ. + Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao. + Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp. + Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được + Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó. + Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn. + Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó. + Viết thêm trạng ngữ cho câu. + Xác định bộ phận chính ( CN, VN ) , bộ phận phụ (TN ) trong câu… IV. Biện pháp nghiên cứu. Với đặc trưng của môn “Luyện từ và câu” cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, nhu cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học của học sinh trường tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và đi sâu vào một số vấn đề sau: 1. Nắm vững kiến thức cần ghi nhớ ở mỗi bài. 2. Nghiên cứu kĩ nội dung cần giảng dạy. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 5 3. Tổ chức giảng dạy theo trình độ học tập của học sinh. 4. Cung cấp một số mẹo để học sinh dễ nhớ bài. 5. Thiết kế trò chơi để củng cố bài và gây hứng thú học tập cho học sinh. 6. Tổ chức đánh giá kết quả học tập của học sinh theo đúng chuẩn KTKN của môn học. Còn đối với học sinh, trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau: 1. Đọc thật kỹ đề bài. 2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm. 3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài. 4. Kiểm tra đánh giá. Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn luyện kỹ năng làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Muốn học sinh làm bài một cách có hiệu quả, trước hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh. Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng. Có thể theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức đó là phương pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh. Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung các chủ điểm mà phân môn “ Luyện từ và câu” cần cung cấp. - Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được: Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố hán việt; rèn luyện khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm ; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành ngữ tục ngữ. - Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từ học sinh được: Tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong thơ, tìm hiểu phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm hiểu được: Có 2 cách để tạo từ phức: 1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau là từ ghép. 2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau đó là từ láy. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 6 - Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về danh từ, động từ, tính từ gắn bó với các tình huống sử dụng. Cần lưu ý: + Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho. + Thêm vào các từ rất, quá, lắm...vào trước hoặc sau tính từ. + Tạo ra phép so sánh. Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng các kiểu câu tuỳ theo nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp. Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện: 1. Thái độ khen, chê. 2. Sự khẳng định, phủ định 3. Yêu cầu, mong muốn... - Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong giao tiếp. Cụ thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự. Câu hỏi: 1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được hỏi. 2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. Câu khiến: 1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự 2. Muốn cho lời yêu cầu, được đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù hợp và thêm vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp... 3. Có thể dùng câu hỏi, kiểu câu nếu yêu cầu đề nghị. V. Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Nội dung kiến thức và kĩ năng cần học trong phân môn “Luyện từ và câu” được rèn luyện thông qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên. 1. Đối với dạng bài tập mở rộng vốn từ. Ví dụ: Tìm các từ ngữ: - Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại. - Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương. - Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại. - Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 7 Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho học sinh làm việc ở lớp. Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ... Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được, đặt câu với một trong số các từ em vừa tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại ý kiến đúng. Qua việc thảo luận trong nhóm các em được đưa ra ý kiến của mình . Ngoài ra, các em còn được tích lũy vốn từ qua bạn hoặc giáo viên cung cấp thêm. Liên hệ giữa bài học với thực tế. Ví dụ: a/ Em hiểu như thế nào về nghĩa của câu tục ngữ sau: Chọn bạn mà chơi, chọn nơimà ở. b/ Viết 2-3 câu góp ý với một người bạn vì chơivới một số bạn hư nên học hành sút kém. Trong lời góp ý của em có dẫn câu tục ngữ trên. 2. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ – dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy. Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây. - Ngay - Thẳng - Thật Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động não thu n ạp r ất nhi ều từ, từ quá trình học sinh, mỗi nhóm hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật). Từ Từ láy Từ ghép Ngay Ngay ngáy Ngay thẳng, ngay đơ... Thẳng Thẳng thắn Ngay thẳng, thẳng tắp... Thật Thật thà Sự thật, chân thật... Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân. Khi chữa bài, giáo viên cần khen ngợi, biểu dương các nhóm tìm được nhiều đáp án để kích thích các em động não nhiều hơn. * Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép: Giáo viên củng cố kiến thức: - Từ là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu. Khi dùng từ phải biết dùng từ có nghĩa. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 8 - Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy. Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ: + Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa... + Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ.. Một số em còn nhầm lẫn giữa từ láy và từ ghép. Tôi đã chọn thêm một số bài tập để các em luyện tập. Ví dụ: Các từ in đậm trong hai đoạn văn dưới đây là từ ghép hay từ láy? Vì sao? a/ Nhân dân ghi nhớ công ơn Chử Đồng Tử, lập đền thờ ở nhiều nơi bên sông Hồng. Cũng từ đó hằng năm, suốt mấy tháng mùa xuân, cả một vùng bờ bãi sông Hồng lại nô nức làm lễ, mở hội để tưởng nhớ ông. (Theo Hoàng Lê ) b/ Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người. (Thép Mới ) Trong hai đoạn văn trên: - Các từ ghép là: nhân dân, bờ bãi ( đoạn a ); dẻo dai, chí khí ( đoạn b ). Bởi vì các tiếng trong từng từ có quan hệ với nhau về nghĩa. Các từ này có hình thức âm thanh ngẫu nhiên giống từ láy, nhưng không phải là từ láy. - Các từ láy là: nô nức (đoạn a ); mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp ( đoạn b ). Bởi vì các tiếng trong từ có quan hệ với nhau về âm ( lặp lại phụ âm đầu ). Sau khi học xong khái niệm về từ ghép và từ láy, tôi đã cho học sinh làm một số bài tập tổng hợp để rèn kĩ năng nhận biết từ ghép có nghĩa phân loại, từ ghép có nghĩa tổng hợp, các kiểu từ láy ( láy âm, láy vần, láy tiếng ). Ví dụ: Cho đoạn văn sau: Núi đồi, làng bản chìm trong biển mây mù. Trước bản, rặng đào đã trút hết lá. Trên những cành khẳng khiu đã lấm tấm những lộc non và lơ thơ những cánh hoa đỏ thắm. Lá thông vi vu một điệu đàn bất tuyệt. Xen vào giữa những đám đá tai mèo, những nương đỗ, nương mạch xanh um, trông như những ô bàn cờ. Chốc chốc một điệu hát Hmong lại vút lên trong trẻo. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 9 a/ Tìm từ ghép trong các từ in đậm, rồi xếp thành hai loại: Từ ghép có nghĩa tổng hợp và từ ghép có nghĩa phân loại. b/ Tìm từ láy trong các từ in đậm, rồi xếp thành ba loại: Từ láy âm đầu, từ láy vần, từ láy cả âm đầu và vần. Với bài tập này, tôi yêu cầu học sinh làm bài cặp đôi, một cặp làm vào giấy khổ to. Sau đó chữa bài, thống nhất cả về đáp án và cách trình bày. a/ Từ ghép: - Từ ghép có nghĩa tổng hợp: núi đồi, làng bản. - Từ ghép có nghĩa phân loại: cánh hoa, đá tai mèo, xanh um. b/ Từ láy: - Từ láy âm đầu: khẳng khiu, vi vu, trong trẻo. - Từ láy vần: lấm tấm, lơ thơ. - Từ láy cả âm đầu và vần: chốc chốc. 3. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ. Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó với cuộc sống gần gũi của học sinh. Ví dụ1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là danh từ chung hay danh từ riêng? vì sao? Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ, tên. Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng. Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở vạch danh từ chung. Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép “suy” để học sinh áp dụng vào bài của mình. Ngoài ra, cần cho học sinh rèn luyện kĩ năng xác định danh từ chung và danh từ riêng. Chẳng hạn cho học sinh làm bài tập sau:  Đọc đoạn văn sau: Gà Rừng và Chồn là đôi bạn thân nhưng Chồn vẵn ngầm coi thường bạn. Một hôm, Chồn hỏi Gà Rừng: - Câu có bao nhiêu trí khôn? - Mình chỉ có một thôi. a/ Tìm các danh từ chung và các danh từ riêng trong đoạn văn trên. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 10 b/ Dựa vào đâu mà em nhận biết được các danh từ riêng trong đoạn văn? c/ Qua câu chuyện trên, em có suy nghĩ gì về tình bạn? Yêu cầu học sinh làm bài cá nhân, sau đó chữa bài và chốt đáp án. a/- Danh từ chung: bạn, hôm, trí khôn. - Danh từ riêng: Gà Rừng, Chồn. b/ Để nhận biết được danh từ riêng, ngoài việc nắm vững định nghĩa ( danh từ riêng là tên riêng của sự vật ), em còn phải căn cứ vào các đặc điểm sau của danh từ riêng: - Được viết hoa. - Nếu sự vật là con vật hoặc vật vô tri thì sự vật đó phải được nhân hóa ( có những biểu hiện như con người ), phải là nhân vật trong câu chuyện. Danh từ đó là tên riêng của nhân vật. Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau: Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt Nhà vua: Để làm gì ? Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước. Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước lớp. Lưu ý có 2 từ “dùi” từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác như sau:  Tìm động từ ( trong các từ in đậm ) ở từng cặp câu dưới đây: a/ - Nhân dân thế giới mong muốn có hòa bình. - Những mong muốn của nhân dân thế giới về hòa bình sẽ thành hiện thực. b/ - Đề nghị cả lớp im lặng. - Đó là một đề nghị hợp lí. c/ - Bố mẹ hi vọng rất nhiều ở con. - Những hi vọng của bố mẹ ở con là có cơ sở. d/ - Yêu cầu mọi người giữ trật tự. - Bài toán này có hai yêu cầu cần thực hiện. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 11 Cho học sinh thảo luận cặp đôi, sau đó gọi học sinh nêu ý kiến và chốt đáp án đúng. Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch chân trong đoạn văn sau: Hoa cà phê thơm đậm và ngọt lên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa. Nhà thơ Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn của cà phê đã phải thốt lên. Hoa cà phê thơm lắm em ơi Hoa cùng một điệu với hoa nhài Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng. Như miệng em cười đâu đây thôi... Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học sinh ;các em đã hiểu . Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của cá từ gạng chân cụ thể : Hoà cà phê thơm như thế nào ? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh tìm (trả lời cá nhân theo phương pháp động não): Thơm – lắm Trong – ngà Trắng – ngọc Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này. Sau đó, cho học sinh tìm thêm ở một số trường hợp khác: đẹp lắm xinh quá tím ngắt đỏ rực rất gần Khi học xong phần từ loại có thể cho các em làm bài tập tổng hợp để rèn kĩ năng xác định từ loại. Ví dụ: Tìm danh từ, động từ, tính từ trong đoạn văn sau: Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 12 Trước mặt Minh, đầm sen rộng mênh mông. Những bông sen trắng, sen hồng khẽ đu đưa nổi bật trên nền lá xanh mượt. Giữa đầm, bác Tâm đang bơi thuyền đi hái hoa sen. Bác cẩn thận ngắt từng bông, bó thành từng bó, ngoài bọc một chiếc lá rồi để nhè nhẹ vào lòng thuyền. 4. Củng cố,khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu. Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học sinh biết đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu. a. Câu kể. Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để: a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về. b) Tả chiếc bút em đang dùng. c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn. d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt. Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm... Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học sinh trong lớp nhận xét bổ sung. Sau đó cho học sinh nêu nhận xét sự khác nhau trong các cău kể trên. Nội dung của các câu kể trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui... Giáo viên hướng dẫn mẫu: + Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật + Bày tỏ ý kiến – yêu mến, gắn bó như thế nào? + Nói lên niềm vui – vui sướng như thế nào khi được điểm tốt. Phần này giáo viên cần củng cố thêm cho học sinh về các kiểu câu kể: - Câu kể Ai làm gì? - Câu kể Ai thế nào? - Câu kể Ai là gì? Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào? a) Cho mượn cái bút! b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút! Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 13 c) Lan ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được không? Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự lịch sự trong giao tiếp. Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành lời yêu cầu lịch sự. Ngoài ra, giáo viên thường xuyên theo dõi, hướng dẫn các em thực hành nói lời yêu cầu, đề nghị lịch sự trong giao tiếp hàng ngày, trong sinh hoạt , học tập ở tất cả các môn học. b. Câu hỏi: Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể: Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi cụ già có thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao? Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn dừng lại khi thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu. - Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp lời bàn tán sôi nổi: - Chắc là cụ bị ốm? - Hay là cụ đánh mất cái gì? - Chúng mình thử hỏi xem đi? Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi: - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không? Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải xác định câu nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học sinh so sánh. Các câu các em hỏi nhau:- Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ? - Chắc là cụ bị ốm - Hay cụ đánh mất cái gì? Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già: - Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không? Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 14 Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất phù hợp trong trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ đánh mất cái gì... sẽ làm tổn thương đến ông cụ (chẳng may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy). Qua bài tập này củng cố khắc sâu cho học sinh về cần đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác. Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã dướng dẫn các em phải đặt nó trong văn cảnh cụ thể. Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống như trong bài tập trên ở ngoài thực tế. Chẳng hạn như sau: a/ Trong các câu hỏi dưới đây, câu nào thể hiện được phép lịch sự: - Em lấy giúp chị cốc nước được không? - Nam ơi, cho chị xin cốc nước được không? - Ngồi đấy mà không lấy cho người ta cốc nước à? b/ Em hãy đặt một câu hỏi thể hiện được phép lịch sự. Nói rõ tình huống mà em đặt là tình huống nào. Ngoài ra, ở phần này cũng cần khắc sâu cho học sinh cách sử dụng câu hỏi vào mục đích khác. Ví dụ: Các câu hỏi dưới đây được dùng để làm gì? a/ Có phá hết các vòng vây đi không? b/ Các chú có biết đền thờ ai đây không? c/ A Cổ hả? Lớn tướng rồi nhỉ? d/ Các cậu có thấy ai không ăn mà sống được không? Trong các câu hỏi trên: a/ Dùng để đề nghị. b/ Dùng để hỏi. c/ Dùng thay lời chào. d/ Dùng để khẳng định. c. Câu khiến - Dạng bài tập cho mảng kiến thức này gồm: Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 15 - Chuyển các câu kể thành câu khiến. - Đặt câu khiến phù hợp với các tình huống. - Đặt câu khiến theo yêu cầu có “hãy” trước động từ “đi” hoặc “nào” sau động từ “xin” hoặc “mong” trước chủ ngữ - Nêu tình huống có thể dùng câu khiến nói trên. Ví dụ 1: Chuyển các câu kể thành câu khiến - Nam đi học. - Thanh đi lao động. - Ngân chăm chỉ. - Giang phấn đấu học giỏi. Với bài tập này trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu: - Nam đi học! -Nam phải đi học! - Nam hãy đi học! Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: Thêm cac từ “đi”, “phải”, “hãy” ứng với lời yêu cầu ở mức nặng –nhẹ tuỳ thuộc vào mỗi lời yêu cầu. - Nam đi học đi ! (yêu cầu nhẹ nhàng) - Nam phải đi học! ( yêu cầu bắt buộc) - Nam hãy đi học đi! ( yêu cầu mang tính ra lệnh) Sau đó tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm ( 3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét. Tôi chốt lại học sinh: Muốn đặt câu khiến có thể dùng một trong các cách sau: Thêm các từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước động từ... và cuối câu dùng dấu chấm than (!). Cùng phương pháp tổ chức này tôi cho học sinh làm ví dụ 2. Ví dụ 2: Đặt câu khiến cho những yêu cầu dưới đây: a. Câu khiến có hãy ở trước động từ. b. Câu khiến có đi hoặc nào ở trước động từ. c. Câu khiến có xin hoặc mong ở trước chủ ngữ. Phần này học sinh không còn bỡ ngỡ về cách đặt câu khiến. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 16 a. Bạn hãy làm bài tập đi! b. Mong các em làm bài tập thật tốt! d. Câu cảm: (câu cảm thán) Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng, thán phục, đau xót, ngạc nhiên...) của người nói. Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm, thật...Khi viết câu cảm cuối câu thường có dấu chấm than (!). Ví dụ 1: Đặt câu cảm cho các tình huống sau: a. Cô giáo ra một bài toán khó, cả lớp chỉ một bạn làm được. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự thán phục. b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu bỗng nhiên tới chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng. Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò trong tình huống, một bạn nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung. a. Ôi, bạn giỏi quá! b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn! Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cá nhận để các bạn nhận xét. Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộ lộ cảm xúc gì? a. Ôi, bạn Nam đến kìa! b. Ồ, bạn Nam thông minh quá! c. Trời, thật là kinh khủng! Theo tôi phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân: - B1: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm. - B2: Tìm cảm xúc của mỗi câu. - B3: Rút ra kết luận chung về câu cảm. 5. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu. Dạng bài tập: - Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 17 - Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu. Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu: a................, em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình b................, em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu. c................., hoa đã nở. Theo tôi, vì phần này tôi chưa trực tiếp giảng dạy nhưng ở chương trình lớp 4 cũ nó không có những chi tiết cụ thể rõ ràng như vậy nên việc hình thành kiến thức khó khăn hơn. Còn đối với dạng bài tập này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh yếu): Em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình tại đâu? Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể. Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản. Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc. Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống: a).............., xã em vừa đào một con mương. b).............., chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện thật tốt. c)..............., em phải năng tập thể dục. Giáo viên cần hướng dẫn h/s đến việc hiểu: Mục đích của đào mương để làm gì? Quyết tâm..........tốt để dành được gì? Tập thể dục có lợi gì? Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập: Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau - Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài đầy đủ. - Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã sáng tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng. Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ “bằng, với” và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì? Nên bài này tôi chi cho học sinh dùng bút chì gạch chân trạng ngữ cá nhân và nêu miệng trước lớp, theo tôi học sinh sẽ không khó khăn gì?. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 18 Như vậy mức độ khó của bài tập không phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường gài thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận. Ví dụ4: Với dạng bài mở rộng vốn từ ý chí – nghị lực. Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí, nghị lực lên đã vượt qua nhiều thử thách, đạt được thành công. Với học sinh khá, giỏi tôi cho học sinh phân tích yêu cầu đề bài sau đó viết ngay vào nháp. Với học sinh trung bình và yếu tôi hướng dẫn học sinh sử dụng các từ ngữ thuộc chủ đề ý chí – nghị lực đã học để viết. Hỏi học sinh về người em định viết (học sinh yếu tôi còn hỏi về người em định viết có những phẩm chất gì). Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng cao chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy. Một điều tôi cũng rất quan tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em làm bài có thể tốt nhưng cách trình bày bố cục bài làm của học sinh còn là cả một vấn đề cần chấn chỉnh. Một yếu tố quan trọng góp phần làm nên sự thành công trong tiết học đó là yếu tố tâm lí, làm thế nào để các em tiếp thu bài một cách thoải mái, chủ động, không gò ép. Chính vì thế, tôi đã thường xuyên thiết kế trò chơi trong các tiết học, để củng cố kiến thức và thay đổi không khí giờ học bớt căng thẳng, các em hứng thú, tiếp thu bài tốt hơn. Ngoài ra, hình thức tổ chức hoạt động theo nhóm cũng đem lại hiệu quả đáng kể. Các em có sự tương tác lẫn nhau, giúp đỡ nhau trong học tập. VI. Kết quả Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ chức cho học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Trải qua một quá trình ôn tập cùng thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát để Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 19 xem sự chuyển biến của học sinh sau khi đã được hoạt động sôi nổi trong giờ Luyện từ và câu cụ thể ra sao. Đề bài: Đọc thầm bài “Về thăm bà” và trả lời câu hỏi sau: 1) Trong bài “Về thăm bà” từ nào cùng nghĩa với từ “hiền” 2) Câu “Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như thế” có mấy động từ, tính từ? a. Một động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ - Tính từ b. Hai động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ - Tính từ c. Hai động từ, 1 tính từ. Các từ đó là: - Động từ - Tính từ 3) Câu “Cháu đã về đấy ư ?” được dùng làm gì? a. Dùng đề hỏi. b. Dùng để yêu cầu, đề nghị. c. Dùng thay lời chào. 4) Trong câu “ Sự im lặng làm Thanh mãi mới cất được tiếng gọi khẽ” bộ phận nào là chủ ngữ? a. Thanh b. Sự yên lặng c. Sự yên lặng làm Thanh. Kết quả thu được: Tổng số học sinh trong lớp 4D có 32 em. Cụ thể: Giỏi SL 8 % 25 Khá SL 12 % 37,5 Trung bình SL % 11 34,4 Yếu SL 1 % 3,1 Căn cứ vào kết quả khảo sát cuối năm cũng như trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy: - Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả. Ngêi thùc hiÖn : NguyÔn ThÞ Ph¬ng Anh - Trêng TiÓu häc Khai Th¸i 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng