Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi việt nam hiện đại trong chương trình ngữ văn 1...

Tài liệu Skkn rèn kỹ năng cảm thụ văn xuôi việt nam hiện đại trong chương trình ngữ văn 12

.PDF
23
137
102

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: RÈN KỸ NĂNG CẢM THỤ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 Lĩnh vực/Môn : Ngữ văn Cấp học : THPT Tên tác giả : Nguyễn Đức Điệp Đơn vị công tác : Trường THPT Lưu Hoàng Chức vụ : Bí thư Đoàn trường NĂM HỌC: 2018 – 2019 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................................... 2 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................................. 2 II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ....................................................................................... 2 III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU...................................................................................... 3 IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.......................................................... 3 V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................................................. 3 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ....................................................................................................... 4 I. CƠ SỞ KHOA HỌC ..................................................................................................... 4 1. Cơ sơ lý luận ................................................................................................................... 4 2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................................ 4 II. THỰC TRẠNG CẢM THỤ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI.......................... 5 1. Về phía giáo viên ............................................................................................................ 5 2. Về phía học sinh ............................................................................................................. 6 III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG CẢM THỤ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 ....................................................................... 7 1. Kĩ năng đọc diễn cảm ..................................................................................................... 7 1.1. vai trò của đọc diễn cảm……………………………….………………………..……7 1.2. Các yêu cầu của viêc đọc diễn cảm ............................................................................. 7 1.2.1. Đọc đúng .................................................................................................................. 8 1.2.2. Đọc hay ..................................................................................................................... 8 2. Kĩ năng tìm hiểu về tác giả ............................................................................................. 8 3. Kĩ năng tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác ............................................................................ 11 4. Tìm hiểu đề tài, chủ đề ................................................................................................. 11 4.1. Đề tài ......................................................................................................................... 11 4.2. Chủ đề ........................................................................................................................ 12 5. Kĩ năng tìm hiểu nhan đề tác phẩm .............................................................................. 12 6. Kĩ năng tìm hiểu tình huống truyện .............................................................................. 13 7. Kĩ năng tìm hiểu kết cấu truyện ................................................................................... 14 8. Kĩ năng so sánh, liên hệ ................................................................................................ 15 9. Kĩ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại xuất phát từ hình tượng nhân vật ......... 16 9.1. Nhân vật văn học và vị trí của nó trong tác phẩm ..................................................... 11 9.2. Loại hình nhân vật văn học ....................................................................................... 11 9.3. Các phương thức, phương tiện và biện pháp thể hiện nhân vật ................................ 11 10. Xác định mức độ các đơn vị kiến thức trong tác phẩm vă xuôi ................................. 17 IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM .................................................................................. 19 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................................... 20 I. KẾT LUẬN .................................................................................................................. 20 II. KHUYẾN NGHỊ ........................................................................................................ 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Mỗi sáng tác nghệ thuật đều là một phát hiện sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ, họ gửi vào đó những cảm nhận, trăn trở và thông điệp về cuộc đời. Văn học cũng là một đứa con tinh thần của nhà văn song phải cùng với bạn đọc thì các từ, ngữ, câu, chữ chết cứng mới thực sự được cựa, quậy, có linh hồn và đi vào cuộc sống. Nhà thơ Mosac từng quan niệm: “Tác phẩm thực ra chỉ được tạo thành bởi những kí hiệu câm lặng, những ngôn ngữ chết, cho nên bản thân nó chưa có giá trị gì, nếu có cũng chỉ là đôi chút. Cái quan trọng là vai trò của người đọc. Chính bạn đọc sẽ tạo nên giá trị cho tác phẩm…”; Ông cũng khẳng định: “không có bạn đọc thì không chỉ có sách của chúng ta mà cả những tác phẩm của Hôme, Đăngtơ, Puskin, Đôxtôiepxki… tất cả chỉ là đống giấy chết”. Bởi vậy nhân tố độc giả có những đặc điểm riêng và có vai trò đặc biệt trong đời sống văn học. Tuy nhiên, trong trường THPT, độc giả ở đây là các em học sinh, khả năng cảm thụ các tác phẩm văn học còn nhiều hạn chế. Cho nên, trong việc giảng dạy thì việc rèn luyện kỹ năng cảm thụ tác phẩm văn học nói chung, cảm thụ tác phẩm văn xuôi nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng của từng giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn. Kĩ năng này, giúp học sinh lĩnh hội sâu sắc, chủ động, tự tin trước các vấn đề đã được đặt ra từ yêu cầu về việc khai thác các giá trị của tác phẩm. 2. Trong chương trình Ngữ văn THPT lớp 12, số lượng các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại được đưa vào giảng dạy với số lượng cao. Có 15/18 tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại ( chiếm 83% ). 3. Hiện nay, ở học sinh, việc cảm thụ tác phẩm văn học còn nhiều hạn chế do học sinh chưa biết cách khai thác tác phẩm, chưa tìm đường đi vào thế giới nghệ thuật bí ẩn trong từng tác phẩm. Do vậy thông thường cảm nhận của học sinh mang tính trực cảm, cảm tính, thiếu kỹ năng tạo nên chuỗi logic của hệ thống kiến thức trong tác phẩm, học sinh chưa hình thành kỹ năng cảm thụ. Với những lí do thiết yếu nêu trên cùng với thực tiễn trong quá trình giảng dạy, tôi mạnh dạn đề xuất “Rèn kĩ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giúp các em học sinh lớp 12 rèn luyện kỹ năng cảm thụ tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại. Bồi dưỡng cách nghĩ, cách cảm nhận trong sáng cho học sinh thông qua các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại. Qua đó nhằm giúp các em khơi dạy niềm đam mê, hứng thú với môn Ngữ văn từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn trong trường THPT. 2/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu cơ sở khoa học bao gồm sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc đề xuất “Rèn kĩ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12”. Nghiên cứu, điều tra thực trạng hứng thú và cách cách cảm thụ văn xuôi ở học sinh của các lớp mình giảng dạy. Áp dụng và đề xuất các kĩ năng cảm thụ văn xuôi hiện đại. IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 12. Học sinh khối 12 thuộc 2 lớp 12a1, 12a4. Phạm vi thời gian thực hiện: trong năm học 2018 – 2019. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp điều tra: Điều tra khảo sát thực trạng dạy học của giáo viên, thực trạng cảm nhận văn học của học sinh. Phương pháp so sánh, đối chiếu: So sánh đối chiếu kết quả học tập của học sinh trước và sau khi triển khai đề tài để rút ra kết luận khoa học. Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm: Phân tích thực trạng, tác dụng tích cực của các giải pháp để tổng kết thành kinh nghiệm. 3/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ KHOA HỌC 1. Cơ sơ lý luận Theo đại từ điển tiếng Việt “cảm thụ là nhận biết một cách tinh tế bằng cảm tính”. Tác giả Mạnh Hưởng cho rằng : Cảm thụ văn học chính là sự cảm nhận những giá trị nổi bật, những điều sâu sắc, tế nhị và đẹp đẽ nhất của văn học thể hiện trong tác phẩm hay một bộ phận của tác phẩm. Cảm thụ văn học là đọc hiểu các tác phẩm văn chương ở mức độ cao nhất. Cảm thụ văn học có nghĩa là không chỉ nắm bắt thông tin mà còn phải thẩm thấu được thông tin, đồng thời phân tích, đánh giá được khả năng sử dụng ngôn từ của tác giả, tạo được mối giao cảm đặc biệt giữa tác giả với bạn đọc và có thể truyền thụ cách hiểu đó cho người khác. Người có năng lực cảm thụ văn học là khi đọc (nghe) một câu chuyện, một bài thơ… không những hiểu mà còn phải có xúc cảm, tưởng tượng và thật sự gần gũi, “nhập thân” với những gì đã đọc… Đọc có suy ngẫm, tưởng tượng (hay liên tưởng) và rung cảm thực sự chính là người đọc biết cảm thụ văn học. Đúng như nhà văn Anh Đức đã tâm sự: Khi đọc, tôi không chỉ thấy dòng chữ mà còn thấy cảnh tượng ở sau dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi đi rất xa, và hiểu ra lắm điều thú vị. Phương thức chiếm lĩnh đối tượng văn học chủ yếu là tình cảm, bằng những xúc động mang tính trực quan, bằng sự tham gia của yếu tố vô thức ... Cảm thụ đặc biệt cần đến sự tinh tế, nhạy cảm của tâm hồn, cần đến vốn sống, vốn văn hoá, sự trải nghiệm của độc giả. Đấy là một bước quan trọng, là cơ sở không thể thiếu để quá trình tiếp nhận văn học diễn ra. Hiểu và cảm thụ văn bản nghệ thuật thuộc hai mức độ nông sâu khác nhau: chúng ta có thể gọi hiểu là việc chạm tới nội dung bề mặt của ngôn từ nghệ thuật (còn gọi là hiển ngôn), còn cảm thụ là việc hiểu sâu sắc với những xúc động, trước những gì mà ngôn từ gợi ra để nhận thức được chiều sâu ý nghĩa của văn bản (còn gọi là hàm ngôn). 2. Cơ sở thực tiễn Trong guồng quay phát triển đến chóng mặt của xã hội, con người như sống vội hơn, ít có những khoảng lặng cho tâm hồn. Chính lối sống, lối suy nghĩ hiện đại ngày nay đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc dạy và học môn Ngữ văn. Đặc biệt, sự phân luồng các trường Đại học, sự phân hóa các ngành nghề trong xã hội đã khiến cho việc lựa chọn học môn Ngữ văn của các em học sinh chỉ là môn thứ yếu. Thực trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cảm thụ các tác phẩm văn chương nói chung và các tác phẩm văn xuôi nói riêng. Chính vì thế tâm thế của học sinh với môn học ngay từ đầu đã không mấy hứng thú. Với mục đích chỉ cần nắm nội dung cơ bản và cấu trúc bài làm để phục vụ các kì thi. Cho nên các em thụ động trong học tập, không khí giờ học nhàm chán. Về phía giáo viên: hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phải đổi mới phương pháp dạy học. Trong giảng dạy, các thầy cô đã phát huy tính tích cực, 4/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa chủ động. Học sinh được bày tỏ ý kiến, tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn, được thực hành giao tiếp nhiều hơn. Tài năng sư phạm của người dạy được dành nhiều hơn cho việc học sinh tự tìm hiểu cảm thụ tác phẩm. Tuy nhiên, một thực tế khó thay đổi, ăn sâu vào trong nhận thức và thành thói quen của không ít giáo viên, việc tiếp nhận và đổi mới phương pháp còn chậm. Giáo viên còn làm việc quá nhiều, chú trọng cung cấp nhiều thông tin kiến thức cho học sinh. Chính điều này đã làm cho học sinh rơi vào thế bị động trong việc tiếp thu kiến thức, không tạo điều kiện cho các em suy nghĩ sáng tạo, độc lập. Dần dần đã làm tê liệt hứng thú và khả năng tư duy sáng tạo của học sinh trong các giờ đọc hiểu các tác phẩm văn xuôi. II. THỰC TRẠNG CẢM THỤ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1. Về phía giáo viên Các giáo viên yêu nghề, có trách nhiệm với nghề luôn luôn trăn trở về bài dạy của mình. Luôn tự học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ. Tiếp cận với các phương pháp dạy học mới để đáp ứng mục tiêu giáo dục. Các thầy cô đã chú trọng đổi mới phương pháp day học để khởi dậy niềm hứng thú với văn học trong học sinh. Song còn không ít giáo viên cũng đã có nỗ lực trong đổi mới phương pháp, nhưng hiệu quả chưa cao. Do thói quen phương phương pháp truyền thụ đã thành lối mòn, việc đổi mới gặp nhiều khó khăn. Nhiều giờ dạy cốt sao chỉ truyền đạt hết kiến thức theo kiểu dập khuân, máy móc. Bởi văn xuôi có khối lượng kiến thức khá nhiều, nhiều tình tiết, sự việc, các mối quan hệ của nhân vật, tâm lý nhân vật...Việc cung cấp hết kiến thức đã là một vấn đề đối với người dạy. Chính thế các giờ học văn xuôi trở nên áp lực đối với học sinh. Giáo viên còn hạn chế về kỹ năng tổ chức giờ học. Hoạt động này cần được chuẩn bị kỹ lưỡng từ khâu thiết kế bài giảng đến xác định phương pháp, xây dựng hệ thống câu hỏi trong thiết kế hoạt động dạy học phù hợp cho từng tác phẩm. Không có mẫu số chung cho khâu này. Mỗi giáo viên đều có sở trường, năng lực, cách cảm thụ riêng. Mỗi tác phẩm là của một tác giả khác nhau viết nên và ra đời trong những bối cảnh khác nhau. Việc đồng bộ hóa phương pháp dạy học hay sao chép giáo án của nhau không chỉ khiến việc dạy học sa vào tình trạng hời hợt, khuôn sáo, chiếu lệ mà còn dễ dẫn đến sự chán ngán, không thích học văn của học sinh. Thói quen lười biếng, thụ động của người học, thậm chí của cả người dạy, đang thực sự làm cùn mòn, thủ tiêu cảm hứng học văn. Phần đông người học ngày càng xa rời thói quen đọc sách, để cho văn hóa nghe - nhìn lấn lướt là một thực trạng đáng báo động. Một bộ phận không nhỏ những giáo viên dạy văn cũng ngày càng ít đọc, không chịu cập nhật thông tin, chẳng quan tâm gì đến xu thế trào lưu văn học trong và ngoài nước, xa lạ với việc tham khảo những tư liệu liên quan, chỉ “cày xới”, lặp lại những gì có trong sách giáo khoa, phụ thuộc hoàn toàn vào sách hướng dẫn. 5/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa Bên cạnh đó là thói quen “định hướng cảm thụ” của giáo viên khiến trò ỷ lại, dựa dẫm trong quá trình tiếp cận tác phẩm. Hầu hết các tác phẩm văn học đều là những văn bản tiêu biểu về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Lâu nay, trong quá trình dạy học, thay vì giáo viên nên tổ chức cho học sinh tiếp nhận từ góc nhìn của chính các em, phân tích các giá trị theo cảm thức của chính trái tim các em thì giáo viên thường “nói hộ”, “cảm thụ hộ” cho học sinh. Lâu dần thành quen, dẫn đến tình trạng tiếp thu một chiều mà không có thói quen phản biện. Chính vì vậy, có quá nhiều cách cảm thụ theo “lối mòn” cho những tác phẩm văn học từ thế hệ này sang thế hệ khác khiến học sinh chán ngán. 2. Về phía học sinh Khi được điều tra khảo sát về hứng thú học tập môn Ngữ văn nói chung và các tác phẩm văn xuôi nói riêng, các em tỏ vẻ không mấy yêu thích. Phần vì xu thế xã hội trong việc chọn ngành nghề. Phần vì không có thời gian để đọc những tác phẩm dài như vậy. Sau khi dạy bài “Rừng xà nu” xong, tôi không khỏi trăn trở vì tiết dạy của mình, vì hứng thú học và cách tiếp cận của học sinh. Tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát bằng phiếu về mức độ hứng thú học tập và bài kiểm tra về sự cảm nhận nội dung và nghệ thuật của tác phẩm ở 2 lớp 12A1 (sĩ số: 41 học sinh) và 12A7 (sĩ số 32 học sinh). Kết quả cụ thể như sau: Hứng thú học tập: (Bảng 1) Có hứng thú Bình thường Không có hứng thú Tổng số học sinh Số lượng % Số lượng % Số lượng % 73 14 19,18 19 26,03 40 54,79 Kết quả kiểm tra khảo sát (Mức độ đề phù hợp với đối tượng học sinh trung bình, đề bài: Em hãy cảm nhận giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành) (Bảng 2) Giỏi Lớp Khá Yếu Trung bình Kém SL % SL % SL % SL % SL % 12A1 3 7,31 8 19,51 20 48,78 8 19,51 2 4,79 12A7 0 0 5 15,63 15 46,88 9 28,12 3 9,37 Nhìn vào kết quả khảo sát trên, ta nhận thấy: Tỷ lệ học sinh hứng thú với môn Ngữ văn còn thấp, chỉ chiếm 19,18%, kết quả bài kiểm tra khảo sát không cao, tỷ lệ học sinh khá giỏi ít, học sinh có điểm yếu kém còn nhiều. Nhiều bài làm máy móc theo bài giảng của giáo viên, còn nặng về kể lại tác phẩm. Viết bài văn nghị luận cảm thụ nhưng thiên về dạng văn tự sự hơn. 6/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa Thực tế này sẽ là những khó khăn, thách thức lớn đối với giáo viên và học sinh. Vấn đề đặt ra là giáo viên cần phải có các biện pháp để tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ đọc hiểu tác phẩm văn xuôi và từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên và chất lượng học tập của học sinh. III. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG CẢM THỤ VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 12 1. Kĩ năng đọc diễn cảm 1.1. Vai trò của đọc diễn cảm Đọc diễn cảm là một phương pháp dạy học quen thuộc trong trường phổ thông ở nước ta mấy thập kỉ qua. Ươm mầm từ truyền thống ngâm vịnh, bình văn, bình thơ của người Việt Nam qua các thời đại, đọc diễn cảm nhanh chóng trở thành một phương pháp hữu ích trong cảm thụ và truyền thụ văn chương trong nhà trường. Thực trạng vấn đề đọc tác phẩm của học sinh hiện nay cho thấy: đa số học sinh đều ngại đọc tác phẩm, nhất là những tác phẩm văn xuôi dài. Các em soạn bài, chuẩn bị bài mà không cần đọc tác phẩm mà chỉ dựa vào sách tham khảo, sách “Để học tốt Ngữ văn” rồi chép toàn bộ nội dung trả lời của các câu hỏi có trong phần hướng dẫn học bài để đối phó với các thầy cô giáo khi lên lớp, cho dù không biết tác phẩm đó như thế nào. Do vậy việc đọc trước, đọc kĩ tác phẩm là điều bắt buộc đối với học sinh vì qua đó bước đầu học sinh cảm nhận và hiểu được tác phẩm. Nhà khoa học sư phạm người Nga E. V. Iadôvixki, trong cuốn Đọc diễn cảm - Phương tiện giáo dục thẩm mĩ, đã viết: “Khi trình bày bài thơ, truyện ngắn hay truyện cổ tích, học sinh dường như tái tạo lại những chi tiết do tác giả xây dựng, làm sinh động chúng nhờ sự giúp đỡ của những tư tưởng, tình cảm, liên tưởng của bản thân, tức là chuyển đến người nghe tâm trạng, xúc cảm của tác giả hoặc nhân vật đã được làm giàu có bởi kinh nghiệm riêng. Và dù cho kinh nghiệm đó còn hạn chế và nhỏ bé đến đâu đi chăng nữa, nó bao giờ cũng đem lại cho sự trình bày của học sinh đặc điểm tươi mát và sự độc đáo không lặp lại”. Như vậy, đọc diễn cảm không chỉ đòi hỏi người đọc phải là một bạn đọc tích cực, năng động mà còn là hoạt động nuôi dưỡng và phát triển sự cảm thụ sáng tạo của con người. Đọc diễn cảm chứa đựng khả năng phát triển tính tích cực, sáng tạo ở người đọc - học sinh. Sự sáng tạo trong tiếp nhận văn học ở người đọc không chỉ thể hiện ở cách đọc “tri âm” mà còn thể hiện ở cách đọc “kí thác”. Đồng thời với việc truyền đi tiếng nói của nhà văn, người đọc “thổi” vào tác phẩm một luồng sinh khí mới mang hơi thở của thời đại và hoàn cảnh sống riêng tư. Những nghiên cứu khoa học về đọc diễn cảm ở người đọc nói chung và bạn đọc học sinh nói riêng đều cho biết: đọc diễn cảm không chỉ là phương thức thể hiện sự cảm thụ văn học tươi mới và sáng tạo mà còn là dạng hoạt động kích thích sự sáng tạo trong tiếp nhận văn chương. 7/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa Nhờ đọc diễn cảm, chúng ta thấy một không gian yên ả, thanh bình, tĩnh lặng vừa cổ kính, hoang sơ, vừa tươi mới đầy sự sống: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô, nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” (Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân)... Tất cả chỉ hiện ra trong nội quan của người đọc. Hình ảnh sông Đà hiện nên hoang dại mà trữ tình hơn nhờ đọc diễn cảm. Nói cách khác người đọc chỉ trông thấy nó bằng “con mắt thứ ba”. Đi qua “cây cầu đọc diễn cảm”, người đọc bước vào thế giới diệu kì vừa quen vừa lạ của văn chương. Theo tâm lí học cảm thụ, âm vang của giọng đọc đã kích thích quá trình tri giác, tưởng tượng và tái hiện hình ảnh ở người đọc, đưa người đọc vào thế giới của tác phẩm, tạo nên trạng thái tâm lí cần có khi đọc sách hay xem nghệ thuật mà người ta quen gọi là “nhập thân”. 1.2. Các yêu cầu của việc đọc diễn cảm 1.2.1. Đọc đúng Đọc đúng kí tự ngôn ngữ, ngữ điệu, nhịp điệu, giọng điệu trong tác phẩm. Ngữ điệu, nhịp điệu phải có sự thay đổi phù hợp với mạch tâm trạng và diễn biến tâm tư của nhân vật. 1.2.2. Đọc hay Đọc diễn cảm đòi hỏi người nghe, người đọc - học sinh phải tích cực, sáng tạo, phát huy cao độ vai trò chủ thể cảm thụ. Đọc diễn cảm không đơn thuần là đọc đúng ngữ âm, ngữ pháp, đọc sáng rõ, mạch lạc, đọc trôi chảy một văn bản ngôn từ mà quan trọng hơn là kết hợp giữa khả năng diễn cảm, truyền cảm trong giọng đọc với việc bắt trúng cái “giọng” của nhà văn để làm bật ra ý nghĩa của câu chữ. Bàn về đọc diễn cảm của học sinh trong giờ học văn, các nhà khoa học ngữ văn Liên Xô cũng đã lưu ý: “Khi một học sinh đọc trước lớp, học sinh đó cần phải hiểu một cách rõ ràng rằng: mình đọc để truyền đạt cho người nghe những ý nghĩ, những rung động và tình cảm tác giả đã đem vào tác phẩm, cũng như để thể hiện thái độ của mình đối với tác phẩm”. Đọc diễn cảm là truyền đến người nghe cái tình điệu của nhà văn trong tác phẩm và thái độ, tình cảm của người đọc về cái văn bản ngôn từ ấy. Muốn vậy, giáo viên đôi khi phải là người định hướng giọng điệu cho học sinh, thậm chí còn đọc diễn cảm một số đoạn văn mẫu để học sinh được đắm mình trong không gian của tác phẩm. Rèn được kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh đã góp phần không nhỏ trong việc cảm thụ tác phẩm. 2. Kĩ năng tìm hiểu về tác giả Phần tiểu dẫn trong sách giáo khoa có vai trò như cánh của khép mở ban đầu để dẫn bạn đọc đi vào thế giới nghệ thuật mà ở đó có biết bao sự kí mã của 8/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa nhà văn. Trong đó các thông tin về tác giả có thể góp phần định hướng độc giả trong việc cảm thụ văn học. Giáo sư Phan Trọng Luận cho rằng: “Tất cả những gì nhà văn sáng tác đều có cội nguồn trực tiếp ở những sự kiện trong cuộc sống riêng tư của anh ta, ở tâm tư tình cảm của nhà văn đó” Mọi tác phẩm đều xuất phát từ những rung động, những trải nghiệm, hiểu biết của nhà văn mà có. Do vậy cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại không thể không tìm hiểu những nét chính trong cuộc đời nhà văn. Đặc biệt là những yếu tố ảnh hưởng đến tác phẩm của họ. Tìm hiểu về tác giả bao gồm những phương diện sau: Họ tên, bút danh, ngày tháng năm sinh, quê quán, nơi sinh, ngày tháng năm mất, nơi mất. Chi tiết về hoàn cảnh xuất thân, gia đình riêng, những thăng trầm trong cuộc đời, những đặc điểm về cá tính tác giả. Trong thực tế, nhiều giáo viên chưa thực sự chú ý điều này, khai thác phần tác giả vẫn trong sự độc lập với các sáng tác, chưa gắn với tác phẩm đang tìm hiểu. Còn thiên về cung cấp thông tin. Giáo viên nên rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác các thông tin quan trọng ảnh hưởng đến sáng tác, định hướng cho việc cảm thụ nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Ví dụ:. khi cảm nhận tác phẩm Người lái đò sông Đà, cần phải định hướng cho học sinh tìm hiểu về tác giả Nguyễn Tuân với các nội dung sau: Tiểu sử và con người Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã suy tàn. Quê ông ở làng Nhân Mục (thường gọi nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.Thân sinh của nhà văn là cụ Nguyễn An Lan. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Tuân “đã được nuôi trong nền văn hóa cổ truyền của dân tộc, với những phong tục nề nếp, với cách ăn ở vui chơi từ một thời xưa đang tàn dần và biến đổi, ngổn ngang vì sự xâm nhập của văn minh máy móc và hàng hóa từ phương Tây ào đến”. Hoàn cảnh gia đình và môi trường ấy đã có ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng, cá tính và sáng tác của nhà văn sau này. Nguyễn Tuân tuy quê ở Hà Nội nhưng từ nhỏ ông đã theo gia đình sống nhiều năm ở các tỉnh và thành phố miền Trung như Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa. Chính hoàn cảnh sống của gia đình đã tạo điều kiện cho ông ngay từ thời niên thiếu đã được “xê dịch” qua nhiều nơi. Những vùng đất nói trên, đặc biệt là Thanh Hóa (nơi lâu nhất), đã để lại nhiều dấu ấn trong những trang viết về đề tài “chủ nghĩa xê dịch” của ông. Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung, đến năm 1929 thì bị đuổi học và không được nhận vào bất cứ công sở nào vì tham gia vào một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên người Pháp nói xấu người Việt Nam. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng và tham gia kháng 9/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa chiến, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Năm 1950, ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội. Quá trình sáng tác và thành tựu văn học: Thời kì trước Cách mạng Tháng Tám 1945: sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba đề tài “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một thời”, và đời sống trụy lạc. Cá tính cùng với tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc của Nguyễn Tuân đã khiến ông tìm lối thoát trong cái thú giang hồ, xê dịch. “chủ nghĩ xê dịch” trở thành một đề tài quen thuộc trong các sáng tác trước cách mạng của Nguyễn Tuân, xuyên suốt qua các tác phẩm: Một chuyến đi, Thiếu quê hương, Tùy bút I, Tùy bút II. Thời kì sau Cách mạng tháng Tám 1945: Nguyễn Tuân đến với cách mạng và kháng chiến, hăng hái đi thực tế, dùng ngòi bút để ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu và trong lao động sản xuất. Nếu như nhân vật trung tâm trong tác phẩm trước cách mạng là những ông Nghè, ông Cử, ông Tú, những con người tài hoa bất đắc chí, thì giờ đây, hình tượng chính trong sáng tác của ông là nhân dân lao động và chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, những con người bình thường mà vĩ đại: Đường vui(1949), Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (tập I – 1955, tập II – 1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),.. đánh dấu những chặng đường mới của Nguyễn Tuân trên con đường nghệ thuật gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất nước. Phong cách nghệ thuật: Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo. Môi trường, hoàn cảnh sống và cá tính của Nguyễn Tuân thời kì trước cách mạng đương nhiên đưa ông đến con đường nghệ thuật lãng mạn chủ nghĩa. Nguyễn Tuân là một cây bút tài hoa và uyên bác. Tài hoa trong việc dựng người, dựng cảnh, tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật, trong những so sánh, liên tưởng táo bạo, bất ngờ với những hình ảnh đẹp đầy gợi cảm; uyên bác trong việc vận dụng những kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để làm phong phú và giàu có thêm khả năng diễn tả của nghệ thuật văn chương. Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ, có lối sống tự do phóng túng và sự ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như một điều tất yếu. Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy của ngôn ngữ văn xuôi hiện đại. Ông có một kho từ vựng phong phú, có khả năng tổ chức câu văn xuôi giàu giá trị tạo hình, có nhạc điệu và biết “co duỗi nhịp nhàng”. Nguyễn Tuân là nhà văn có giọng điệu riêng. Giọng văn của Nguyễn Tuân vừa trang nhã, cổ kính, vừa sắc sảo, hiện đại. Tất cả các yếu tố trên đều được thể hiện rõ trong tác phẩm Người lái đò sông Đà. Ở phần này, giáo viên chỉ gợi, tạo tâm thế và định hướng cho học sinh cảm nhận tác phẩm. 10/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa 3. Kĩ năng tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác Mọi tác phẩm ra đời đều gắn với hoàn cảnh sáng tác nhất định. Do vậy, học sinh không thể cảm thụ hết các tầng nghĩa sâu xa của một tác phẩm nếu không nắm chắc được hoàn cảnh sáng tác. Hoàn cảnh sáng tác có thể được chia làm hai loại: Hoàn cảnh trực tiếp (hoàn cảnh hẹp): tác phẩm văn xuôi ra đời dựa vào một dấu ấn riêng trong cuộc đời tác giả. Hoàn cảnh gián tiếp (hoàn cảnh rộng): là bối cảnh xã hội, thời đại chi phối đến việc sáng tác tác phẩm. Ví dụ: Trong tác phẩm Vợ nhặt – Kim Lân: Hoàn cảnh chung để nhà văn sáng tác nên “Vợ nhặt”. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ nhặt”: Nguồn cảm hứng sáng tác của Kim Lân là nạn đói năm Ất Dậu năm 1945 với hai triệu người chết đói. Điều kì lạ trong những năm đói, sự tối tăm ấy cận kề bên miệng vực của cái chết thì những con người Việt Nam không nghĩ đến cái chết mà luôn hướng về sự sống, tình thương. Đó là khát vọng sống mạnh mẽ, là chất kỳ diệu của con người Việt Nam khơi nguồn cảm hứng để Kim Lân sáng tác nên truyện ngắn đặc sắc này. Hoàn cảnh riêng: Truyện ngắn “Vợ nhặt” được viết ngay sau cách mạng tháng Tám thành công với tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” nhưng bị dang dở do cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, mãi đến năm 1954, Kim Lân mới có điều kiện quay trở lại cốt truyện cũ nhưng ông thay đổi ý định ban đầu là không viết tiểu thuyết nữa mà rút ngắn lại thành truyện ngắn. Hoàn cảnh ra đời đã mang lại giá trị tư tưởng lớn cho tác phẩm: Truyện ngắn “Vợ nhặt” viết về những con người năm đói. Qua đó, nhà văn Kim Lân muốn khẳng định: những người dân lao động ở nước ta dù cận kề bên cái chết, dù sống trong hoàn cảnh bi thảm đến đâu thì họ vẫn là những con người khao khát tình thương, khao khát tổ ấm gia đình và hướng tới tương lai tươi sáng. 4. Tìm hiểu đề tài, chủ đề 4.1. Đề tài Đề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn lựa chọn miêu tả, thể hiện, tạo thành chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm, đồng thời là sơ sở để từ đó đặt ra vấn đề mà mình quan tâm. Có thể nói đề tài là khái niệm trung gian giữa thế giới hiện thực được thẩm mĩ hoá trong tác phẩm và bản thân đời sống. Các hiện tượng đời sống có thể liên kết với nhau thành loại theo mối liên hệ bề ngoài giữa chúng. Cho nên, có thể xác định đề tài văn học theo giới hạn bề ngoài của phạm vi hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: Đề tài thiên nhiên, loài vật, sản xuất, cải cách ruộng đất, chiến đấu, kháng chiến... Việc lựa chọn đề tài bước đầu bộc lộ khuynh hướng và ý đồ sáng tác của tác giả. Chính vì vậy, trước khi đọc hiểu chi tiết tác phẩm, giáo viên nên định hướng để học sinh phát hiện ra đề tài của tác phẩm là gì. 11/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa Ví dụ: Các sáng tác của Kim Lân thường xoay quanh đề tài chính đó là đề tài người nông dân nghèo. Với đề tài trên, nhà văn thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mình đối với cuộc sống, con người. 4.2. Chủ đề Chủ đề là vấn đề cơ bản, vấn đề trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra qua nội dung cụ thể của tác phẩm văn học. Nếu khái niệm đề tài giúp ta xác định: Tác phẩm viết cái gì? Thì khái niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi: Vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì? Vì vậy chủ đề và tư tưởng là hạt nhân cơ bản của nội dung tác phẩm. Như vậy, trong việc cảm thụ văn xuôi, nếu giáo viên không hướng dẫn học sinh vào chủ đề của tác phẩm thì trong quá trình cảm thụ, học sinh dễ có nhiều liên tưởng dàn chải, không đi sâu vào nội dung trọng tâm. Trong nhà trường phổ thông đôi khi học sinh chỉ được tiếp xúc với một đoạn trích trong tác phẩm (vì văn bản của văn xuôi khá dài). Khi đó học sinh cảm thụ đoạn trích cũng phải bám sát chủ đề tác phẩm vì đoạn trích bao giờ cũng nằm trong một chỉnh thể. Mỗi đoạn trích có một vai trò nhất định trong việc làm sáng rõ chủ đề tác phẩm nên không thể tách biệt đoạn trích ra khỏi chỉnh thể nghệ thuật của toàn bài. Khi dạy về tác phẩm Vợ nhặt, giáo viên định hướng để học sinh phát hiện chủ đề: tác phẩm phản ánh đời sống của những con người bần cùng, lương thiện, trong cảnh đói kém khủng khiếp do bọn thực dân phong kiến gây ra. Họ đã cưu mang, đùm bọc lấy nhau và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn mà cách mạng đem lại. 5. Kĩ năng tìm hiểu nhan đề tác phẩm Nhan đề tựa như cái khung của thế giới nghệ thuật. Đặt nhan đề là một nghệ thuật, đòi hỏi sự lao động nghiêm túc, nhiều khi tiêu tốn lượng thời gian không nhỏ. Nếu nghệ sĩ thận trọng trong từng khâu sáng tác, thì thường sáng tạo được nhan đề độc đáo, hấp dẫn độc giả. Việc đặt nhan đề không bao giờ nằm ngoài tầm nhìn cuộc sống và con người của tác giả. Việc đặt nhan đề có liên hệ với thị hiếu thẩm mỹ của độc giả. Theo PGS. Nguyễn Đăng Na, nhìn vào nhan đề sẽ “hiểu nỗi lòng người sinh thành ra nó, hiểu nội dung chủ yếu của tác phẩm và hiểu khát vọng sáng tạo của tác giả”. Đôi khi nhan đề thực hiện chức năng khu biệt thế giới nghệ thuật này với thế giới nghệ thuật kia; từ nhan đề người tiếp nhận đã có thể bước đầu hình dung ra đặc điểm lời văn, và cấu trúc tác phẩm. Nhan đề gắn chặt với tìm tòi của tác giả, ở một vài trường hợp như bằng chứng về những đóng góp cụ thể của nhà văn trong lao động nghệ thuật. Độc giả không biết đến nhan đề, hoặc không xuất phát từ nhan đề - hiệu quả giao tiếp có thể giảm đi khá nhiều. Nhan đề thường giữ vị trí quan trọng như những tín hiệu chỉ dẫn con đường đi vào nghệ thuật của tác phẩm 12/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa Việc đặt nhan đề nói riêng và quá trình sáng tạo tác phẩm nói chung, có quan hệ mật thiết với vốn sống, kỉ niệm sâu sắc của tác giả. Trường hợp, Nguyễn Trung Thành viết “Rừng xà nu” là như vậy. Cái đêm ngồi viết truyện, nhà văn nhớ về cuộc chia tay của mình với Nguyễn Thi tại khu rừng xà nu bát ngát, vạm vỡ phía tây Thừa Thiên. Hình ảnh đầu tiên đến dưới ngòi bút tác giả, chảy ra tự nhiên thành mạch truyện mênh mang là một rừng xà nu hùng vĩ. Nếu không có sự từng trải, không được sống trong không khí tráng ca của thời đại chống Mỹ, chắc chắn Nguyễn Trung Thành không có “Rừng xà nu”. Nhan đề tác phẩm ghi lại cái ngọn nguồn của ý đồ nghệ thuật. Ngay nhan đề của câu chuyện đã gợi ra một tình huống độc đáo, hấp dẫn và giàu ý nghĩa gây sự chú ý cho người đọc. Khi dạy về tác phẩm Vợ nhặt, giáo viên phải hướng dẫn học sinh thấy được ý nghĩa của nhan đề. Nói đến “vợ” là nói đến một phần quan trọng trong cuộc đời của người đàn ông. Ấy thế mà có điều thiêng liêng hệ trọng ấy lại trở thành điều rẻ rúm tầm thường. “Nhặt” – một động từ chỉ hành động ngẫu nhiên không chủ tâm khi lấy một vật gì đó từ dưới đất lên hoặc vì quá nhỏ hoặc không còn giá trị như nhặt cọng rơm, cọng cỏ ở ngoài đường. Như vậy, tên truyện gợi ra một ý nghĩa sâu xa đối với bạn đọc: Đem đến cho người đọc cảm nhận ấn tượng bi thảm về nạn đói khủng khiếp có một không hai trong lịch sử của nước ta và người đọc cảm nhận tình cảnh thê thảm của những người nông dân nghèo Việt Nam trong nạn đói 1945. Nhan đề “Vợ nhặt” gián tiếp tố cáo xã hội thực dân phong kiến đặc biệt là bọn phát xít Nhật đã gây ra nạn đói 1945 đẩy người lao động Việt Nam vào thảm cảnh bi cùng. Đồng thời qua nhan đề “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân còn khẳng định vẻ đẹp của tình người những người lao động ở nước ta dù rơi vào thảm cảnh nào thì họ vẫn là những con người giàu lòng yêu thương, khao khát tổ ấm gia đình và hướng tới tương lai tươi sáng. 6. Kĩ năng tìm hiểu tình huống truyện Tình huống truyện là cái tình thế xảy ra truyện, là khoành khắc được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Qua đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, tính cách hay thân phận của mình góp phần thể hiện sâu sắc chủ đề, tư tưởng tác phẩm. Sáng tạo tình huống truyện là một trong những vấn đề then chốt của nghệ thuật viết truyện ngắn. Vì vậy, với một tác phẩm văn xuôi (đặc biệt là truyện ngắn) nhà văn thường dụng công xây dựng những tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn. Có 3 loại tình huống truyện thường được các tác giả chú tâm xây dựng: tình huống hành động, tình huống tâm trạng, tình huống nhận thức. Thấy được tầm quan trọng của tình huống truyện, giáo viên hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh kĩ năng nhận diện tình huống và phân tích giá trị của tình huống trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm. Phần lớn những tác phẩm được trích giảng trong chương trình THPT đều là những tác phẩm có cốt truyện độc đáo. Thông qua cốt truyện các tác giả muốn chuyển tải tới người đọc những vấn đề về nhân sinh trong cuộc sống. Việc tìm 13/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa hiểu về nhân vật hay các giá trị nội dung tác phẩm sẽ thuận lợi và thấu đáo hơn khi chúng ta khai thác tình huống trong truyện. Truyện “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm rất độc đáo về tình huống. Đó là Tràng – một anh nhà nghèo hình thức thô kệch, tính tình ngờ nghệch lại là dân ngụ cư giữa lúc đói kém mà lấy được vợ, hơn nữa lại là vợ theo. Tình huống bất thường đó gây sự chú ý ngạc nhiên tới những người xung quanh và ngay cả bản thân Tràng. Bởi đói khát, người như Tràng nuôi thân chẳng xong lại còn đèo bòng. Và không chỉ lạ mà nó còn là sự đan xen giữa mừng và lo, vui và buồn. Hạnh phúc đặt trên bối cảnh thê lương ảm đạm của nạn đói năm 1945 trong gia đình Tràng trước cái đói quay đói quắt. Tình huống đó sẽ chi phối tới sự phát triển của truyện và cách thức xây dựng các nhân vật. Như vậy bắt đầu từ việc khai thác tình huống khi tiếp cận tác phẩm mà giáo viên có thể dẫn dắt học sinh phân tích nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ. Các lớp nghĩa của truyện sẽ được sáng tỏ cùng các giá trị hiện thực và nhân đạo. Chủ đề tác phẩm về bài ca cuộc sống: Bên lề cái chết con người ta vẫn mơ ước vẫn khát vọng là ý nghĩa cơ bản mà nhà văn Kim Lân chuyển đến bạn đọc. 7. Kĩ năng tìm hiểu kết cấu truyện Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo. Để xây dựng nên chỉnh thể đó, nhà văn phải suy nghĩ tổ chức các yếu tố của tác phẩm sao cho có nghệ thuật nhất: cái gì tả trước, cái gì tả sau, chi tiết nào tô đậm, chi tiết nào chấm phá, sắp xếp các sự kiện, các chương, hồi như thế nào…cách tổ chức như vậy gọi là kết cấu của tác phẩm. Kết cấu tác phẩm không chỉ là liên kết các hiện tượng, con người. Mối quan tâm lớn nhất của nhà văn là làm sao sắp xếp tài liệu để cho cái chính yếu được nổi bật lên, cái quan trọng gây được ấn tượng mạnh mẽ. Kết cấu truyện thể hiện quá trình vật lộn của nhà văn với tài liệu sống, để biểu hiện một chân lý khái quát. Nó cũng phản ánh quá trình tư duy của nhà văn. Kết cấu luôn luôn là phần tổ chức hình tượng nghệ thuật và khái quát tư tưởng, cảm xúc. Chẳng hạn khi đọc hiểu tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, giáo viên gợi mở để học sinh phát hiện ra kết cấu đặc biệt của tác phẩm: Kết cấu đầu cuối tương ứng: Mở đầu tác phẩm là những tai họa mà cả những cây xà nu cổ thụ và những cây con phải gánh chịu dưới làn mưa đại bác của kẻ thù: “ cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương”. Hình ảnh những cây rừng xà nu bị tàn phá ở đoạn đầu tác phẩm là biểu tượng cho sự đau thương mất mát của con người, tuy nhiên, đoạn cuối tác phẩm lại khiến ta thấy thấp thoáng ẩn hiện sau mỗi cây xà nu là sự gan góc, sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, sức mạnh không ngừng lớn lên của người dân Tây Nguyên. Kết cấu truyện lồng trong truyện: Truyện ngắn này có hai mạch truyện lồng ghép vào nhau. Chuyện bắt đầu từ một lần về thăm làng Xô-man của Tnú sau ba năm xa làng đi bộ đội giải phóng. Trong đêm ấy, quây quần quanh bếp lửa, cả dân làng được nghe cụ Mết kể lại câu chuyện bị tráng về cuộc đời Tnú và chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô-man. Quá khứ của Tnú là quá khứ của 14/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa một đời người, một thế hệ dân làng đau thương, khổ nhục dưới bàn tay của kẻ thù. Chuyện về Tnú là tình tiết chính và cũng là cốt lõi của câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xôman. Số phận Tnú là số phận cá nhân của một con người nhưng gắn liền với số phận của cộng đồng. Bi kịch của Tnú là bi kịch của cộng đồng, là nỗi đau chung của những người dân mất nước. Cách xây dựng kết cấu này làm cho câu truyện mang đậm tính sử thi hùng tráng. Kết cấu đan xen giữa hiện tại và quá khứ: Ở phần đầu và phần cuối của truyện là thời gian hiện tại gần với sự việc Tnú về thăm làng chỉ một đêm và sáng hôm sau lại ra đi. Phần giữa – cũng là phần chính của truyện, chủ yếu tái hiện những sự việc thuộc thời gian quá khứ. Nhưng đôi lúc mạch kể quay lại với thời gian hiện tại bằng việc miêu tả cảnh dân làng nghe cụ Mết kể chuyện về Tnú. Cách phối hợp các lớp thời gian như vậy làm cho truyện vừa mở ra được nhiều sự kiện, biến cố, tái hiện được cả một giai đoạn lịch sử một cách ngắn gọn. Kết cấu cốt truyện độc đáo này giúp nhà văn có thể thay đổi được không gian, thời gian nghệ thuật một cách linh hoạt, làm tăng thêm tính trữ tình cho câu truyện, đồng thời cũng làm cho câu truyện trở nên linh hoạt, sinh động và hấp dẫn. 8. Kĩ năng so sánh, liên hệ Kĩ năng này thường được đánh giá cao trong quá trình cảm thụ bởi giúp cho tác phẩm được tìm hiểu ở cả tầng rộng và bề sâu. Tuy nhiên kĩ năng này đòi hỏi học sinh phải có khả năng tư duy mở rộng. Kĩ năng so sánh có hiệu lực không nhỏ trong việc góp phần cảm thụ văn xuôi nói chung và văn xuôi Việt Nam hiện đại nói riêng. Kĩ năng này giúp học sinh có cái nhìn thông suốt tiến trình vận động và phát triển văn xuôi Việt Nam qua phép so sánh nét tương đồng và tương phản giữa các tác giả. Tuy nhiên, để rèn luyện cho học sinh thao tác, kĩ năng phân tích so sánh cần lưu ý: Xác định mục đích so sánh: làm nổi bật đối tượng cảm thụ (tác phẩm văn xuôi, đoạn trích). Qua đó hiểu sâu sắc dụng ý nghệ thuật của nhà văn trong cách lựa chọn, sắp xếp, tổ chức văn bản văn xuôi. Nắm vững kĩ năng so sánh: không được lấy nội dung so sánh thay thế cho việc cảm thụ tác phẩm. So sánh không phải là mục đích, so sánh chỉ là phương tiện, con đường đi vào tác phẩm. Liên hệ so sánh ngoài tác phẩm văn xuôi không được làm đứt mối với đường dây của chủ đề tư tưởng tác phẩm. Liên tưởng so sánh mở rộng vấn đề là một thao tác cần thiết trong cảm thụ văn xuôi, nhưng đã liên tưởng thì ít nhiều cũng mang tính chủ quan. Do vậy, nếu vượt quá giới hạn sẽ biến việc cảm thụ văn xuôi thành việc bình luận thiếu căn cứ. Lựa chọn cách thức so sánh: So sánh tương đồng: khi vấn đề trong tác phẩm văn xuôi đang khai thác có điểm gần gũi với một tác phẩm khác của cùng tác giả hoặc khác tác giả. So sánh tương phản: so sánh ý từ tác phẩm văn xuôi này với tác phẩm văn xuôi 15/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa khác có sự trái ngược về tư tưởng hoặc cách thức thể hiện. Ví dụ so sánh tương đồng: Khi cảm nhận về hình ảnh chị Chiến trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi, có thể liên hệ đến nhân vật Mai trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành để thấy sự tương đồng ở vẻ đẹp tâm hồn và tinh thần cách mạng của người con giái Việt Nam thời đánh Mĩ. Ví dụ so sánh tương phản: Cùng viết về đề tài người nông dân nhưng nếu truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã xây dựng được bi kịch của một con người vừa bị tước đoạt về nhân hình và nhân tính, không được xã hội công nhận là con người. Tác giả không tìm thấy lối thoát cho nhân vật, để cho nhân vật lại rơi vào vòng bi kịch luẩn quẩn, chưa nhìn thấy tương lai tươi sáng của dân tộc. Còn Kim Lân lại thấy được tinh thần lạc quan, tương lai tươi sáng của nhân vật và dân tộc qua hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Sự khác nhau này xuất phát từ điều kiện lịch sử xã hội lúc ấy. Như vậy kỹ năng so sánh giúp học sinh có cơ sở khai thác sâu hơn về nội dung và nghệ thuật tác phẩm. 9. Kĩ năng cảm thụ văn xuôi Việt Nam hiện đại xuất phát từ hình tượng nhân vật 9.1. Nhân vật văn học và vị trí của nó trong tác phẩm Nhân vật văn học là con người, có thể là loài vật hay cây cỏ được nhân cách hóa, được miêu tả trong tác phẩm văn học bằng những phương tiện văn học. Nhân vật văn học có tên riêng (Đẩu, Phùng...). Nhưng cũng có nhân vật không tên như Người đàn bà hàng chài, lão đàn ông trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, ẩn dụ vì vậy không thể đồng nhất nó với con người thật trong đời sống. Nhân vật văn học là phương tiện để nhà văn khái quát các tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng. Nhà văn sáng tạo nên nhân vật là để khái quát những quy luật cuộc sống con người, gửi gắm những ước ao, kì vọng về con người. Vì vậy đọc tác phẩm, cần tìm hiểu hết nội dung đời sống và nội dung tư tưởng thể hiện trong nhân vật. 9.2. Loại hình nhân vật văn học Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và nhân vật phụ. Dựa vào đặc điểm của tính cách, việc truyền đạt lí tưởng của nhà văn, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Dựa vào thể loại văn học, có có nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch. Dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được chia thành nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách và nhân vật tư tưởng. 16/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa 9.3. Các phương thức, phương tiện và biện pháp thể hiện nhân vật Hiện thực đời sống con người luôn phong phú nên nhân vật văn học có nhiều loại hình, chính vì vậy các phương thức thể hiện nhân vật rất đa dạng. Văn học đa dạng đến đâu, các phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật đa dạng đến đó. Nhưng ở đây, người viết chỉ đưa ra những phương thức, phương tiện chung nhất. Nhân vật được miêu tả bằng chi tiết, văn học dùng chi tiết để miêu tả chân dung, ngoại hình, tả hành động, tâm trạng, quá trình tâm lý của nhân vật đồng thời qua chi tiết hoàn cảnh sống, thiên nhiên quanh nhân vật cũng được thể hiện. Nhân vật còn được thể hiện qua mâu thuẫn, xung đột, sự kiện, từ đó nhân vật bộc lộ phẩm chất sâu kín nhất của mình. Nhân vật có thể được miêu tả một cách trực tiếp nhưng cũng có thể miêu tả gián tiếp qua sự cảm nhận của mọi người xung quanh đối với nhân vật, qua môi trường mà nhân vật sống. Nhân vật còn thể hiện bằng các phương tiện kết cấu, phương tiện ngôn ngữ và bằng các phương thức miêu tả riêng của thể loại. Vì vậy trong một tác phẩm văn xuôi đặc biệt là tác phẩm tự sự (Truyện ngắn, tiểu thuyết) để phân tích, tìm hiểu nhân vật và thấy được tư tưởng của tác giả gửi gắm trong từng nhân vật thì người cảm thụ cần lưu ý một số vấn đề sau: Trước hết cần phải xác định loại hình nhân vật trong tác phẩm: Đâu là nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện và phản diện. Xác định phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật, người cảm thụ cần rút ra được tính cách nhân vật, quá trình tâm lí, số phận (tùy theo từng tác phẩm) và quan trọng hơn, người đọc phải thấy được qua nhân vật và hệ thống nhân vật đó, nhà văn muốn khái quát những gì về vẻ đẹp và số phận con người về hiện thực đời sống, về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật, phong cách nghệ thuật của nhà văn. Trong quá trình cảm nhận, có thể liên hệ so sánh nhân vật trong tác phẩm đang tìm hiểu nhân vật trong các tác phẩm khác có cùng đề tài, chủ đề, để thấy được sự tương đồng hay khác biệt giữa các nhân vật. Từ đó có thể so sánh hiện thực đời sống xã hội trong từng tác phẩm, từng giai đoạn lịch sử và tư tưởng, phong cách nghệ thuật của từng nhà văn. 10. Xác định mức độ các đơn vị kiến thức trong tác phẩm vă xuôi Nhận biết - Nêu thông tin về tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, thể loại. Thông hiểu Vận dụng Vận dụng thấp - Lý giải được mối - Viết đoạn văn quan hệ giữa hoàn giới thiệu về tác cảnh sáng tác với giả, tác phẩm. việc xây dựng cốt 17/20 Vận dụng cao - Liên hệ, so sánh các phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm cùng Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa truyện, thể hiện nội dung, tư tưởng cảu tác phẩm. đề tài, thể loại, phong cách… - Giải thích được ý nghĩa nhan đề. - Nhận biết được - Phân tích được - Khái quát được ngôi kể, trình tự giọng kể, ngôi kể. đặc điểm phong kể. cách của tác giả từ tác phẩm. - Cách cảm nhận riêng, những phát hiện sáng tạo về văn bản. - Nắm được cốt truyện, nhận ra đề tài, cảm hứng chủ đạo. - Lý giải sự phát - Khái quát được triển của cốt đặc điểm của thể truyện, sự việc, loại từ tác phẩm. mối quan hệ giữa các sự việc. - Cảm thụ, phám phá giá trị của một văn bản mới cùng thể loại. - Xác định được hệ thống nhân vật: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính diện, nhân vật phản diện… - Giải thích, tích đặc ngoại hình cách, số nhân vật. phân - Trình bày cảm - Vận dụng tri thức điểm nhận về tác đọc hiểu văn bản để tính phẩm. tạo lập văn bản theo phận yêu cầu. - Đánh giá khái quát về nhận vật. - Đưa ra những ý kiến riêng về tác phẩm, vận dụng vào cuộc sống. - Phát hiện tình - Hiểu được ý - Thuyết minh - Chuyển thể văn huống truyện. nghĩa của tình về tác phẩm. bản (đóng kịch, vẽ huống. tranh….) - Nghiên cứu khoa học, làm dự án. - Chỉ ra được các chi tiết nghệ thuật đặc sắc và đặc điểm nghệ thuật của thể loại truyện. - Lý giải ý nghĩa và tác dụng cảu các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết nghệ thuật, câu văn, các biện pháp tu từ. Từ việc xác định mức độ các đơn vị kến thức trong trong tác phẩm văn xuôi hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 12, giáo viên phân loại học sinh và tổ chức hướng dẫn cho học sinh đọc hiểu phù hợp với đối tượng. Căn cứ và trình độ, cách cảm của học sinh mà giao nhiệm vụ cho các em. Từ đó góp phần toạ hứng thú học tập ở học sinh và nâng cao kĩ năng cảm thụ các tác phẩm văn 18/20 Nguyễn Đức Điệp – Trường THPT Lưu Hoàng – Huyện Ứng Hòa xuôi Việt Nam hiện đại lớp 12 nói riêng và các tác phẩm thuộc thể loại văn xuôi nói chung. IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM Với những nỗ lực và các giải pháp được triển khai, đề tài đã mang lại những kết quả nhất định. Bên cạnh việc thu hút sự hứng thú học tập, phát huy tính tích cực và tự giác của học sinh thì còn mang lại hiệu quả thiết thực trong việc giúp các em đạt kết quả tốt hơn, nâng cao về chất lượng chung. Để đánh giá hiệu quả của đề tài, tôi đã khảo sát bằng phiếu thăm dò ý kiến ở những lớp mà mình đã triển khai. Kết quả cụ thể như sau: Hứng thú học tập: (Bảng 3) Có hứng thú Bình thường Không có hứng thú Tổng số học sinh Số lượng % Số lượng % Số lượng % 73 38 52,05 23 31,51 12 16,44 Đối chiếu kết quả thu được sau khi áp dụng đề tài so với kết quả khảo sát thực trạng trước khi áp dụng đề tài ở bảng 1, ta nhận thấy: tổng số học sinh được khảo sát: 73 em, ở 2 lớp: 12A1, 12A4. Số học sinh có hứng thú với môn Ngữ văn tăng từ 14 em lên 38 em; số học sinh không có hứng thú giảm từ: 40 còn 20 em. Có thể kết quả chưa cao, song với một trường mà đầu vào học sinh điểm thấp, phần lớn các em là học sinh yếu kém, chưa xác định được mục tiêu học tập, nhiều học sinh còn chưa chăm ngoan, chán nản thì kết quả như vậy cũng là một điều đáng ghi nhận. Khi học sinh có hứng thú học thì các em sẽ nỗ lực cố gắng hơn. Tôi đã khảo sát học sinh bằng một bài thi khảo sát, mức độ đề phù hợp với trình độ học sinh trung bình với nội dung đề là cảm nhận giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (Cấu trúc và mức độ như đề điều tra, khảo sát thực trạng). Kết quả thu được như sau: Giỏi Lớp Khá Yếu Trung bình Kém SL % SL % SL % SL % SL % 12A1 9 21,95 18 43,90 13 43,71 1 2,44 0 0 12A4 5 12,96 10 24,39 11 26,83 6 14,62 0 0 Nhìn vào kết quả kiểm tra khảo sát, so với kết quả điều tra thực trạng, chúng ta nhận thấy: số lượng học sinh đạt điểm khá, giỏi đã tăng lên, số học sinh yếu kém đã giảm đi. Điều đó có nghĩa là năng lực cảm thụ giá trị tác phẩm văn xuôi của học sinh đã tốt hơn. Các bài viết của học sinh đã có những kiến giải sâu sắc, sự tích cực chủ động trong việc giải mã nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại. 19/20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng