Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học lớp 5 trong trường...

Tài liệu Skkn sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học lớp 5 trong trường tiểu học

.PDF
15
1731
67

Mô tả:

A ĐẶT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN: Chúng ta vững bước tiến vào thế kỉ XXI, thế kỉ của khoa học tiên tiến và hiện đại. Vì vậy đòi hỏi con nguời có tri thức đáp ứng kịp thời những đồi hỏi ngày càng cao của đất nước nhằm công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo đúng định hướng của Đảng ta: “ Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung... phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh , đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn nâng cao chất lượng giáo dục, tạo sự chuyển biến vững chắc của giáo dục đưa giáo dục nước nhà vững bước tiến vào thế kỉ XXI. Năm học 2017 - 2018 với tinh thần chỉ đạo của ngành giáo dục tiếp tục phong trào: “ Đổi mới phương pháp giảng dạy ”. Đồng thời để góp phần thực hiện một trong những nhiệm vụ chiến lược của sự phát triển kinh tế xã hội của Đảng ta từ 2017- 2020. Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự đào tạo, coi trọng thực hành ngoại khoá làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét học vẹt, học chay. Theo quan điểm dạy học theo hướng tích cực, tính vừa sức, theo đối tượng học sinh. Do vậy đòi hỏi tất cả các môn học trong nhà trường đều phải trang bị cho các em những kiến thức cơ bản trong đó có môn khoa học . Môn khoa học lớp 5 trong chương trình Tiểu học 2000 đến nay đề cập đến những vấn đề thuộc 3 chủ đề cơ bản: - Con người và sức khoẻ . - Vật chất và năng lượng. - Thực vật và động vật. - Môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Thế giới này bao gồm những vật không sống ( còn được gọi là thế giới vô sinh như áng sáng, nhiệt, nước, không khí... và những vật không sống còn được gọi là thế giới hữu sinh hay các sinh vật như động vật , thực vật, con người ...Chương trình môn khoa học lớp 5 không chỉ dừng lại ở nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản ban đầu về thế giới tự nhiên mà còn giúp học sinh vận dụng những kiến thức đó vào thực tế hằng ngày. 5 Để đạt được những điều đó, đòi hỏi mỗi giáo viên phải biết lựa chọn cho mình những phương pháp giảng dạy thích hợp với từng nội dung bài dạy, từng đối tượng học sinh. Đối với môn khoa học trong chương trình tiểu học ngoài những phương pháp dạy học được đề cập đến ở các sách giáo viên như quan sát, hỏi đáp, thảo luận, điều tra..... Trong đó chủ đề Vật chất và năng lượng chủ yếu sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh. Trong chương trình khoa học lớp 5 có nhiều bài sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh . Phương pháp thí nghiệm chứng minh thường dùng để dạy các bài học nghiên cứu về các sự vật, hiện tượng, các quá trình diễn ra trong thế giới tự nhiên. Đó là một trong những phương pháp đặc trưng để cùng kênh chữ chỉ đạo, hướng dẫn học sinh, giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức. II.CƠ SỞ THỰC TIỄN: Qua thực tế giảng dạy trong trường Tiểu học phần khoa học. Qua dự giờ và học tập các kinh nghiệm của các đồng nghiệp trong nhà trường nhiều giáo viên do không biết lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp . Nhiều học sinh còn lúng túng trong học tập nhất là không biết cách làm các thí nghiệm nên nhiều tiết dạy đã không đạt được đích cuối cùng là truyền thụ kiến thức trọng tâm cho học sinh, bài giảng không sâu dàn trải hoặc bị :“ cháy giáo án ” nhiều tiết dạy không đảm bảo được thời gian không gây được hứng thú học tập cho học sinh. Dẫn đến tình trạng học sinh nắm bài máy móc , thụ động, chất lượng học tập chưa cao. Việc sử dụng các phương tiện dạy học trực quan, các dụng cụ, vật liệu, các điều kiện thí nghiệm... trong giờ giảng trên lớp đã được một số giáo viên chú trọng song vẫn còn nhiều giáo viên coi nhẹ việc sử dụng các phương tiện trực qua này. Nhiều giáo viên sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh chỉ là giáo viên nói, học sinh không được thực hành. Nó chỉ là cộng cụ để minh hoạ cho bài giảng và những vấn đề thầy đưa ra mà chưa chú ý đến việc khai thác các kiến thức từ các phương tiện này để phát triển tư duy cho học sinh cũng như phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong bài dạy và học khoa học trong trường Tiểu học. 6 Việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường là một trong những việc làm quan trọng góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài cho đất nước. Chính vì vậy thực tế cũng có nhiều giáo viên trăn trở, suy tư, chưa hài lòng với thực tại về chất lượng giờ dạy nên đã ngày đêm miệt mài nghiên cứu tìm những sáng kiến mới, những phương pháp mới, phương pháp hay nhằm đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc thù bộ môn và quá trình nhận thức của học sinh. Giúp các em học tập một cách nhẹ nhàng và có hiệu quả là một trong những yêu cầu cấp thiết của giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng. Xuất phát từ thực tế, để việc sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh trong giảng dạy môn tự nhiên và xã hội phần khoa học trong trường Tiểu học đạt kết quả cao nhất. Tôi đã đầu tư thời gian để nghiên cứu và kiểm nghiệm qua thực tế giảng dạy của mình, rút ra kinh nghiệm: “ Sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học Lớp 5 trong trường tiểu học ”. B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: -Nội dung chương trình môn khoa học lớp 5 trong trường tiểu học. -Các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu. -Sách hướng dẫn môn khoa học lớp 5 và các tài liệu tham khảo khác có liên quan đến môn học. - Đồ dùng dạy học môn khoa học lớp 5 trong trường Tiểu học. II.ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG: Trước khi nghiên cứu và thực hiện kinh nghiệm : “ Sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học Lớp 5 trong trường tiểu học ”. Tôi dã tiến hành khảo sát và thực nghiệm ở lớp 5A đây là lớp học mà tôi được nhà trường phân công trực tiếp giảng dạy.Tôi đã tiến hành khảo sát trong tuần 21 và tuần 22 năm 2018 với kết quả như sau: Tổng Số: Điểm: 9 -10: Điểm 8-7: Điểm 5-6: Với kết quả khảo sát trên tôi thấy rằng: - Chất lượng học sinh về môn Khoa học còn rất thấp. 7 Dưới 5: - GV chưa có kinh nghiệm khi dạy các dạng bài về Thí nghiệm - CM. - Tỉ lệ học sinh đạt số bài khá, giỏi còn rất hạn chế. - Kĩ năng làm các thí nghiệm của học sinh theo sự hướng dẫn của giáo viên còn chưa tốt. - Khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh còn hạn chế . III.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Xuất phát từ những tồn tại của năm học trước và cơ sở thực trạng nói trên, việc nghiên cứu đổi mới và dạy kiểu bài thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học trong trường Tiểu học là một việc làm cần thiết nhằm khắc phục tháo gỡ dần từng bước thực trạng nói trên nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy phát huy mọi đối tượng học sinh trong lớp tham gia vào việc lĩnh hội tri thức. Tôi mạnh dạn nghiên cứu tìm hiểu các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn khoa học trong trường Tiểu học kiểu bài thí nghiệm chứng minh cho học sinh dựa trên phương pháp: -Phương pháp phân tích tổng hợp: Đọc và nghiên cứu tài liệu khái quát thành một số khái niệm và luận điểm chung. -Phương pháp khảo sát, đánh giá . -Xây dựng mô hình nghiên cứu. -Phỏng vấn, điều tra thực trạng. -Lựa trọn phương pháp và nguyên tắc dạy phân môn khoa học kiểu bài thí nghiệm chứng minh. -Phương pháp thực nghiệm. -Phương pháp tổng kết đánh giá, đúc rút kinh nghiệm. - Phương pháp kiểm tra qua bài thi. IV.NHỮNG CÔNG VIỆC THỰC TẾ ĐÃ LÀM: Xuất phát từ những yêu cầu về phương pháp thí nghiệm chứng minh trong quá trình thực hiện kinh nghiệm “ Sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học Lớp 5 trong trường tiểu học ”. 8 Để đạt được những yêu cầu đó tôi đã tiến hành ở cả hai khâu: Soạn bài và giảng bài trên lớp đây là hai khâu quan trọng của cả một quá trình lên lớp của người giáo viên. Cụ thể: 1. Đối với việc soạn bài: Việc soạn bài tuy chỉ là khâu chuẩn bị chi việc giảng bài mới trên lớp của người giáo viên. Nhưng đây lại là một khâu quan trọng của quá trình lên lớp. Bài soạn được chuẩn bị kĩ càng chu đáo, quan tâm đến các đối tượng học sinh, nó sẽ quyết định rất lớn đến thành công của một giờ dạy. Nó cũng giống như sự chuẩn bị kĩ càng cho một trận đánh trong quân sự... muốn trận đánh đó giành thắng lợi nó phụ thuộc rất nhiều vào sự chuẩn bị của người chỉ huy. Do vậy quá trình soạn bài của người giáo viên tôi đã đi theo các bước sau đây: a). Bước thứ nhất: Nhiệm vụ đầu tiên trong khâu soạn bài, tôi đã đi sâu vào nghiên cứu kĩ nội dung kiến thức của bài học trong sách giáo khoa, sách hướng dẫn của giáo viên. Rồi tìm đọc các sách tham khảo những tài liệu có liên quan đến kiến thức của bài học để bổ sung, cung cấp mở rộng cho bài giảng. Vì qua thực tế giảng dạy tôi thấy một số kiến thức khoa học rất trừu tượng đối với học sinh. Do vậy người giáo viên không nghiên cứu kĩ nội dung của bài sẽ dẫn tới lời của thầy giảng học sinh không hiểu gì cả, xa rời thực tế. Đặc biệt nghiên cứu nội dung kiến thức bài học sẽ giúp học sinh, giáo viên chuẩn các dụng cụ cần thiết cho bài học. b) Bước thứ hai: Tiếp đó giáo viên phải xác định rõ mục đích yêu cầu của bài để có định hướng trong giảng dạy đặc biệt là kiến thức trọng tâm. Trong quá trình soạn bài giáo viên phải xác định rõ xem phần nào là kiến thức trọng tâm cần truyền thụ trên lớp thì đi sâu. Còn phần nào là kiến thức phụ, kiến thức minh hoạ thì có thể lướt qua. Vì nếu giáo viên không xác định rõ xem phần nào là kiến thức trọng tâm cần truyền thụ, giáo viên không trách khỏi những giờ dạy không thành công “ cháy giáo án ” không khắc sâu kiến thức, dẫn tới học sinh chán học bộ môn. Ví dụ: Dạy bài 26 : Đá vôi. GV xác định rõ kiến thức trọng tâm của bài học là: 9 - Phát hiện tính chất của đá vôi bằng cách thí nghiệm cọ sát 1 hòn đá cuội và 1 hòn đá vôi - nêu nhận xét . - Đá vôi dùng để làm gì ? - Hoặc ví dụ dạy bài 30: Cao su. Kiến thức trọng tâm là: Nêu được tính chất của cao su,ứng dụng của cao su. c). Bước thứ 3: Đây là một trong những bước quan trọng nhất đó là bước người giáo viên chuẩn bị các dụng cụ, vật liệu, các điều kiện thí nghiệm. Trên cơ sở kiến thức trọng tâm đã được xác định, giáo viên phải biết lựa chọn các dụng cụ vật liệu cần thiết cho giờ học. Đây là một trong những khâu quan trọng nhất của khâu soạn bài nếu người giáo viên chuẩn bị chu đáo nó sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh.Để cho thí nghiệm thành công giáo viên phải làm đi, làm lại thí nghiệm đó nhiều lần trước khi chuẩn bị dạy bài đó. Có như thế giáo viên mới hướng dẫn được học sinh làm thành công thí nghiệm. Chẳng hạn khi dạy bài 26: “ Đá vôi" Giáo viên và học sinh cần chuẩn bị như sau ( Học sinh chuẩn bị theo nhóm ). - Một hòn đá cuội, 1 hòn đá vôi. - Một ít dấm chua hoặc a- xít loãng. - Hai khay nhỏ bằng nhựa hoặc thuỷ tinh. d). Bước thứ tư: Công việc cuối cùng của khâu soạn bài của giáo viên là khâu soạn giáo án . Giáo án của người thầy lên lớp, nó giống như bản vẽ kĩ thuật của những nhà kĩ sư xây dựng... Do đó trong giáo án của người giáo viên để dạy do giáo viên thiết kế phải thể hiện rõ 5 bước của một quy trình lên lớp (tổ chức, kiểm tra bài cũ, giảng bài mới, củng cố và hướng dẫn học sinh học ở nhà). Trong đó đặc biệt là giảng bài mới , giáo án phải thể hiện rõ công việc của thầy và của trò; phương pháp thí nghiệm chứng minh các dụng cụ, vật liệu, có hệ thống câu hỏi logic phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đặc biệt thông qua các thí nghiệm chứng minh có những câu hỏi để phát huy tư duy sáng tạo của học sinh thích tìm tòi khám phát thế giới tự nhiên. 10 2. Tiến trình bài giảng trên lớp: Đây là một khâu quan trọng được tiến hành trên lớp khi đã được chuẩn bị kỹ lưỡng ở khâu soạn bài đến việc xác định kiến thức trọng tâm , chuẩn bị các dụng cụ, vật liệu cần thiết . Cụ thể : a- Khâu kiểm tra bài cũ: Khi kiểm tra bài cũ tôi thường kiểm tra bài học giờ trước. Sau đó tôi kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh(dụng cụ). Bước kiểm tra các dụng cụ đầu giờ học rất quan trọng nếu các em đem thiếu một dụng cụ nào đó sẽ không làm được thí nghiệm chứng minh ảnh hưởng rất lớn đến việc nắm kiến thức mới. Ví dụ: Trước khi chuyển sang học bài mới bài 26: “Đá vôi ” khi kiểm tra bài cũ giáo viên có thể đặt câu hỏi: - Nhôm có tính chất gì? Nêu 1 số đò vật làm bằng nhôm. b -Trong bước giảng bài mới: Đây là một nội dung quan trọng nhất, chiếm một thời gian dài nhất trong cả một quy trình lên lớp của người giáo viên. Để dạy tốt kiểu bài phương pháp thí nghiệm chứng minh tôi đã đi theo các bước sau đây: *Bước 1: Giáo viên nêu mục đích của thí nghiệm. Chẳng hạn khi dạy bài26: “ Đá vôi”: Mục đích của thí nghiệm 1: Chứng minh đá vôi không cứng lắm. -Hoặc mục đích của thí nghiệm 2 trong bài là: Chứng minh dưới tác dụng của a-xít thì đá vôi sủi bọt. *Bước 2: Chuẩn bị các dụng cụ, vật liệu. Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị các d/ cụ, vật liệu, các điều kiện t/ nghiệm. Ví dụ khi dạy bài 26: "Đá vôi". Yêu cầu học sinh chuẩn bị : 1 hòn đá cuội, 1 hòn đá vôi, 1 ít dấm chua, 2 khay nhỏ. *Bước 3: Cách làm thí nghiệm giáo viên nêu cách làm thí nghiệm. -Thực hiện thao tác nào? Trên vật gì? -Quan sát dấu hiệu gì? Trên vật nào? Bằng giác quan nào? 11 Ví dụ khi dạy bài 30 : “ Cao su": Giáo viên hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm : - Ném một quả bóng cao su xuống sàn nhà. - Kéo căng 1 dây cao su. - HS quan sát và nêu nhận xét. *Bước 4: Tiến hành thí nghiệm. - Học sinh được bố trí, lắp ráp các dụng cụ thí nghiệm theo các bước đã vạch ra. - Học sinh làm thí nghiệm có thể theo nhóm, cá nhân.Tuỳ từng thí nghiệm, tuỳ trình độ học sinh giáo viên có thể, thể hiện vai trò của mình trong dạy học theo phương pháp thí nghiệm ở các mức độ khác nhau. Chẳng hạn: -Thí nghiệm khó làm giáo viên làm mẫu , hướng dẫn học sinh làm theo. -Hoặc giao nhiệm vụ, giúp đỡ học sinh từng bước tiến hành thí nghiệm. -Hoặc giáo viên giao nhiệm vụ, học sinh tự làm, theo dõi và hướng dẫn kịp thời nếu giáo viên thấy cần thiết. *Bước 5: Phân tích kết quả và kết luận. Sau khi học sinh làm thí nghiệm yêu cầu phân tích kết quả và rút ra kết luận. Giáo viên dùng hệ thống câu hỏi để học sinh nêu kết quả của thí nghiệm. Từ kết quả của thí nghiệm giáo viên gợi mở để học sinh biết cách so sánh, suy luận, khái quát để rút ra kết luận. c. Khâu củng cố và hướng dẫn học sinh học bài ở nhà: Thông thường trong giờ dạy và học khoa học trong trường Tiểu học khâu củng cố và hướng dẫn thường bị coi nhẹ. Song thực tế chất lượng đào tạo trong nhà trường Tiểu học không đơn thuần chỉ dựa vào các phương pháp dạy của thầy mà còn phụ thuộc vào phương pháp học tập của học sinh. Đối với môn khoa học khi giáo viên dạy dùng phương pháp thí nghiệm chứng minh để dạy những kiểu bài đó thì khâu củng cố của giáo viên cũng dựa trên cơ sở đó. Sau đây là một trong những giáo án cụ thể minh hoạ cho những việc làm trên: 12 Bài 30:Cao su , Mục tiêu Sau bài học, HS biết: - Làm thực hành để tìm ra tính chất của cao su. - Kể tên các vật liệu dùng để chế tạo cao su. - Nêu tính chất, công dụng và cách bảo quản các đồ dùng bằng cao su. , Đồ dùng dạy- học - Hình trang 62,63 SGK. - Sưu tầm một số đồ dùng bằng cao su như quả bóng, dây chun, mảnh xăm, lốp,.. , Hoạt độngdạy- học 1, KT: (5’) - Nêu tính chất và công dụng của thủy tinh 2, Bài mới a, Giới Thiệu Bài (1’) b, Hoạt động1: (15’)Thực hành *Mục tiêu: HS làm thực hành để tìm ra tính chất đặc trưng của cao su *Cách tiến hành: Bước 1: Làm việc theo nhóm - Các nhóm làm thực hành theo chỉ Bước 2: Làm việc cả lớp dẫn trang 63 SGK. - Đại diện một số nhóm báo cáo kết - Ném quả bóng cao su xuống sàn nhà, quả làm thực hành của nhóm mình. ta thấy quả bóng như thế nào? - HS trả lời - Kéo căng sợi dây cao su. Khi buông tay sợi dây cao su như thế nào? - HS trả lời Kết luận: Cao su có tính đàn hồi c, Họat động2:(15’) Thảo luận *Mục tiêu: Giúp HS: - Kể được tên các vật liệu được dùng để chế tạo cao su. - Nêu được tính chất, công dụng và cách bảo quản các đồ dùng bằng cao su. *Cách tiến hành : Bước 1: Làm việc cá nhân - HS đọc nội dung trong mục Bạn cần Bước 2 : Làm việc cả lớp biết trang 63 SGK để trả lời các câu GV gọi một số HS lần lượt trả lời từng hỏi cuối bài . câu hỏi : - Có mấy loại cao su? Đó là những loại nào ? - HS trả lời - Ngoài tính đàn hồi tốt, cao su còn có - HS trả lời tính chất gì ? - HS trả lời - Cao su được sử dụng để làm gì ? - Hs trả lời Nêu cách bảo quản đồ dùng bằng cao su. 13 3, Củng cố dặn dò(3’) Về bảo quản đồ dùng bằng cao su nnhư điều đã học IV.KẾT QUẢ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC: Sau khi vận dụng kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy, tôi đã thực hiện, thực nghiệm . Kết quả việc áp dụng kinh nghiệm: “ Sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học Lớp 5 trong trường tiểu học ”. Tôi đã tién hành khảo và đạt được một số kết quả sau: Đề bài: Câu 1. Nêu ví dụ chứng tỏ không khí chuyển động tạo thành gió? Câu 2.Nguyên nhân nào gây ra gió trong tự nhiên? Câu 3 . Giải thích hiện tượng : Không khí lạnh ở phía Bắc nước ta gây ra gió mùa Đông Bắc? Sau khi chấm bài kết quả kiểm tra lớp 5 A cho thấy: Tổng XLGiỏi XLKhá XLTrung bình XL Yếu số bài Số bài % Số bài % Số bài % Số bài % 33 15 45% 13 39% 5 0 0% 16% Qua các số liệu trên, tôi thấy rằng số bài của các em điểm khá giỏi tăng lên rõ rệt không còn số bài học sinh đạt điểm yếu, chất lượng đã được nâng cao. Chứng tỏ kinh nghiệm đã có hiệu quả trong giảng dạy, học sinh nhớ bài lâu hơn, kĩ năng tư duy tốt hơn. Đặc biệt là phần kĩ năng qua kiểm tra vấn đáp các em diễn đạt mạch lạc hơn, tự tin chính xác hơn. Riêng bản thân tôi khi dạy bài : “ Kiểu bài thí nghệm chứng minh ” bằng phương pháp thí nghiệm trong giảng dạy giáo viên mất ít thời gian thuyết trình, bài giảng thu hút sự chú ý của học sinh. Các hoạt động dạy và học của thầy và trò diễn ra nhẹ nhàng, hiệu quả. Học sinh hứng thú học tập không áp đặt phát huy được tính tự học tự chủ của học sinh . V.BÀI HỌC KINH NGHIỆM : Việc đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của người giáo viên trong sự nghiệp trồng người. Đặc biệt trong tình hình chung của đất nước đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 14 Người giáo viên có thực hiện tốt công tác đổi mới phương pháp giảng dạy trong quá trình soạn giảng thì mới truyền thụ kiến thức trọng tâm cho học sinh. Phương pháp thí nghiệm chứng minh phục vụ cho: “ Quy trình dạy kiểu bài thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học trong trường Tiểu học ” nhằm phát huy tư duy sáng tạo cho học sinh. Đây là một phương pháp đặc thù của bộ môn nó phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh, giúp các em dễ hiểu bài, dễ nhớ, nhớ lâu kiến thức. Nó được dùng vào các bước giảng dạy: -Dùng để kiểm tra bài cũ. -Dùng để giúp học sinh phát hiện ra kiến thức mới, để rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh, phân tích, tổng hợp, rút ra kiến thức. Đây chính là phương pháp rèn luyện cho học sinh thói quen tự học các em được thực hành làm thí nghiệm để chống lối học chay, học vẹt. -Dùng để củng cố và hướng dẫn học sinh về nhà học bài và làm bài giúp các em khắc sâu kiến thức, nhớ kiến thức lâu hơn. Sau khi nghiên cứu tìm hiểu rồi tiến hành thực nghiệm và giảng dạy tại trường Tiểu học đi đến kinh nghiệm trên. *Đối với giáo viên: -Phải hiểu rõ chức năng nhiệm vụ của phân môn khoa học để có các hình thức tổ chức và phương pháp dạy học cho phù hợp tránh dạy nhồi nhét, áp đặt, mất hứng thú cho học sinh trong giờ học. -Giáo viên phải tự trau dồi cho mình có những kiến thức vững chắc, ngôn ngữ phải chuẩn xác, diễn đạt rõ ràng, mạch lạc, trong sáng. -Xác định rõ mục tiêu của tiết dạy để chuẩn bị bài một cách chu đáo và đầy đủ các phương tiện dạy học phục vụ cho bài dạy. ở mỗi bài dạy giáo viên phải xác định được: Bài dạy cần những gì ? Và dạy như thế nào ? Để tiết dạy nhẹ nhàng tự nhiên và hiệu quả. Từ đó biết lựa chọn phương pháp và cách thức tổ chức mỗi phần của bài học cho phù hợp. Trên cơ sở đó, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với từng loại đối tượng học sinh trong lớp giúp các em dễ tìm được kiến thức bài học. 15 -Biết phân loại đối tượng học sinh trong lớp để có biện pháp bồi dưỡng giúp đỡ đối với mọi sự cố gắng của các đối tượng học sinh trong lớp. -Biết lựa chọn hệ thống phương pháp và các hình dạy học phù hợp với nội dung bài dạy và đối tượng học sinh trong lớp tạo nên sự hoạt đồng bộ giữa thầy và trò, tạo sự hứng thú học tập của học sinh một cách tự nhiên, thoải mái để đạt được yêu cầu đó giáo viên cần phải biết khai thác vốn kiến thức của học sinh vào việc xây dựng kiến thức bài học. *Đối với học sinh: -Phải tích cực học tập, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. -Đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng học tập của môn học. -Phải tích cực tham gia luyện tập làm các thí nghiệm chứng minh để nắm chắc kiến thức. -Tích cực huy động vốn kiến thức của mình tham gia vào quá trình học tập, Xây dựng kiến thức bài học. -Cần phát huy tính chủ động sáng tạo trong hoạt động học, mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài để rèn luyện cho mình phương pháp học tập tích cực và bản lĩnh tự tin, biết ứng xử thông minh đúng đắn với môi trường xung quanh. VI.PHẠM VI ÁP DỤNG : “ Quy trình dạy kiểu bài thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học trong trường Tiểu học ”có thể áp dụng đối với tất cả các đối tượng học sinh ở các trường. - Có thể áp dụng cho các thầy cô giáo được phân công giảng dạy trong trường Tiểu học. Để áp dụng tốt kinh nghiệm này giáo viên cần lưu ý một số điểm sau: 1. Khâu soạn bài: Yêu cầu giáo viên phải hết sức chu đáo trong khâu chuẩn bị từ việc nghiên cứu nội dung kiến thức đến việc xác định kiến thức trọng tâm và chuẩn bị các dụng cụ, vật liệu, các điều kiện cần thiết cho thí nghiệm thì bài giảng mới tập trung và có hiệu quả cao. 2. Khâu giảng dạy của giáo viên: Giáo viên phải tận dụng triệt để phương pháp thí nghiệm chứng minh trong quy trình dạy kiểu bài thí nghiệm chứng minh ở phân môn khoa học. Sử dụng triệt 16 để phương pháp thí nghiệm chứng minh ở mọi bước lên lớp. Vì theo tôi không có phương nào để học sinh dễ phát hiện kiến thức, nắm được kiến thức nhanh nhất bằng phương pháp trực quan bằng thí nghiệm học sinh được thực hành. 3. Học sinh: Một yếu tố không kém phần quan trọng để đề tài thành công đó là học sinh. Các em phải có hứng thú học tập bộ môn từ đó mới tính tò mò, sáng tạo trong việc chủ động nắm kiến thức của học sinh. C.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: I.KẾT LUẬN: Qua việc nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi nhận thấy việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên là một vấn đề rất quan trọng trong mỗi nhà trường. Nó có tác dụng vô cùng to lớn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt trong thời đại hiện nay sự nghiệp giáo dục ngày càng được Đảng và nhà nước quan tâm . Do vậy từ người cán bộ quản lí đến các đồng chí giáo viên trong nhà đều phải xác định rõ nhiệm vụ chính trị của mình trên mặt trận giáo dục đó là phải ra sức học tập để không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân. Đồng thời phải chú trọng làm tốt công tác chăm sóc và giáo dục cho các em những nhân cách ban đầu của con người mới xã hội chủ nghĩa đáp ứng với thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình: “ Sử dụng phương pháp thí nghiệm chứng minh ở môn khoa học Lớp 4 trong trường tiểu học ”. .Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy tôi tự nhận ra một bài học là không có một phương pháp nào là tốt nếu như không có sự chuẩn bị của thầy và trò. Thầy phải đầu tư nghiên cứu bài dạy chu đáo cẩn thận. Trò phải đọc và chuẩn bị bài thật tốt có như vậy mới đạt được kết quả tốt trong học tập: II.NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN KIẾN NGHỊ: Để có được những tiết dạy thành công trong sự nghiệp trồng người theo tôi việc sử dụng phương pháp thí nghiệm khi dạy kiểu bài thí nghiệm chứng minh có tác dụng rất lớn, rất thiết thực. Nhưng hiện nay phương pháp dạy ở các trường việc 17 sử dụng phương pháp thí nghiệm còn rất hạn chế nên nhiều tiết học còn dạy chay đối với các môn trong đó có môn tự nhiên và xã hội. Do vậy là một giáo viên làm công tác chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy qua dự giờ đồng nghiệp tôi xin đề xuất một số kiến nghị. 1.Đối với phòng giáo dục: - Đề nghị với các cấp lãnh đạo cần quan tâm hơn nữa đối với việc nâng cao trình độ giáo viên. -Cần tổ chức mở rộng nhiều chuyên đề đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động các môn họcđể giáo viên tham gia hoạt động học tập. 2.Đối với nhà trường: Cần tạo điều kiện và quan tâm về cơ sở vật chất có trách nhiệm giúp đỡ giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn về mọi mặt. 3.Đối với giáo viên: Cần tích cực học hỏi kinh nghiệm nâng cao trình độ nhận thức trình độ chuyên môn của mình. Phải siêng năng chuẩn bị đồ dùng dạy học hoặc trình chiếu Pa –ra- bôn tạo không khí học tập sôi nổi tích cực hoạt động. III.LỜI CẢM ƠN: Dạy hay , học tốt từng bài, từng chương và toàn bộ chương trình thực sự là tâm nguyện của tất cả các giáo viên tâm huyết với nghề. Trong điều kiện còn hạn chế của mình tôi đã thực sự cố gắng tự rèn luyện. Điều may mắn trong tôi khi được chuyển về công tác tại trường Tiểu học... được làm việc, học hỏi các đồng nghiệp giàu kinh nghiệm và nhiều khả năng trong chuyên môn. Tôi đã tự mình cố gắng theo kịp yêu cầu các bộ môn của trường đáp ứng những đòi hỏi của việc tự nâng cao tay nghề. Tôi mạnh dạn trình bày ra đây những ý kiến và cách thức giảng dạy một bài cụ thể mà tôi đã từng làm. Với phạm vi cũng như trình độ lí luận của bản thân khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên kinh nghiệm này còn nhiều điểm tồn tại. Do đó tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của hội đồng khoa học của các bạn đồng nghiệp để cho kinh nghiệm này hoàn thiện và đạt hiệu quả tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! 18 LÊ MINH PHÀN 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng