Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Lịch sử Skkn sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử việt nam giai đoạn 1954 – 19...

Tài liệu Skkn sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử việt nam giai đoạn 1954 – 1975 ở trường trung học phổ thông

.DOC
47
3489
54

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: Trường THPT Kiệm Tân Người thực hiện: Trần Ngọc Bình Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lí giáo dục Phương pháp giảng dạy bộ môn X Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác. Có đính kèm: Mô hình Phần mềm Phim ảnh Năm học 2012 - 2013 Hiện vật khác CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Đơn vị: Trường THPT Kiệm Tân Độc lập- Tự do – Hạnh phúc SỞ GD & ĐT ĐỒNG NAI Thống Nhất, ngày 13 tháng 3 năm 2013. PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2012-2013. Tên sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn). Họ và tên tác giả: Trần Ngọc Bình Tổ: Sử - Địa . Lĩnh vực: Quản lí giáo dục Phương pháp giảng dạy bộ môn x Phương pháp giáo dục Lĩnh vực khác. 1. Tính mới - Có giải pháp hoàn toàn mới. - Có giải pháp cải tiến, đổi mới phương pháp đã có. 2. Hiệu quả - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao. - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao. - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả. 3. Khả năng áp dụng - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt Khá Đạt - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt Khá Đạt - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt Khá Đạt XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN ( Ký tên và ghi rõ họ tên) THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ ( Ký tên và ghi rõ họ tên) SƠ YẾU LÍ LỊCH KHOA HỌC I THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN. - Họ và tên: TRẦN NGỌC BÌNH - Sinh ngày: 10 - 11 -1978 - Địa chỉ: E4/002 – Nam Sơn – Quang Trung – Thống Nhất - Điện thoại: 0988325295 - Chức vụ: Giáo viên - Đơn vị công tác: Trường THPT Kiệm Tân II TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO. - Học vị: Cử nhân khoa học - Năm nhận bằng: 2003 - Chuyên ngành đào tạo: Lịch Sử III KINH NGHIỆM KHOA HỌC: - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Lịch Sử - Số năm kinh nghiệm : 10 năm - Các sáng kiến kinh nghiệm trong 5 năm gần đây: 1. Sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông, thực trạng và giải pháp. 2. Xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan quy ước nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1965 ở lớp 12 trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) 3. Sử dụng tài liệu Văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) 1 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Môn lịch sử ở trường phổ thông không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về lịch sử nhân loại, lịch sử dân tộc, phát triển tư duy học sinh mà còn góp phần giáo dục cho học sinh truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Cùng với các bộ môn khác, môn lịch sử đã góp phần to lớn trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ thành nguồn lực to lớn cho đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ to lớn của giáo dục, dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng đã tiến hành đổi mới cả về nội dung và phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp dạy học đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại nhiều hạn chế mà điển hình chung vẫn là thầy đọc trò chép, dạy học một chiều dẫn đến hiệu quả là học sinh thụ động, không nắm được kiến thức cơ bản, không hứng thú với môn học. Việc đổi mới phương pháp dạy học đã được Đảng và nhà nước rất quan tâm coi đó là mục tiêu hàng đầu để nâng cao chất lượng giáo dục, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X cũng đã nêu rõ “ Tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục, phát huy tính tích cực của người học, khắc phục lối truyền đạt một chiều”. Có thể nói rằng, một trong những phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy lịch sử việc sử dụng tài liệu văn học (TLVH) cũng là một cách để tạo nên sự hứng thú trong học sinh. Sử học và văn học có mối quan hệ khăng khít với nhau, Macxim Goocky đã từng nói: “Sức mạnh của văn học xét cho cùng không nằm ngoài sự đóng góp thực tiễn của nó, tức là không nằm ngoài mối liên hệ của nó với cuộc sống đấu tranh chung cho sự tiến bộ của xã hội… Văn học nghệ thuật không thể thay thế được vũ khí trong cuộc đấu tranh, cũng không tự nó làm nên cách mạng. Tuy nhiên, với khả năng cảm hóa và giáo dục của nó, văn học đã góp phần không nhỏ cho việc sản sinh những con người biết cầm vũ khí và biết sang tạo cho xã hội”(10;26). TLVH đã góp phần rất lớn trong việc tái hiện lịch sử một cách sinh động, truyền cảm. Dạy học lịch sử kết hợp với việc sử dụng TLVH quả thực là một điều rất cần thiết cho việc giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông. 2 Xuất phát từ những lý do đó, cùng với những kinh nghiệm khi giảng dạy lịch sử tại trường, tôi xin được giới thiệu đề tài “Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn)” . 2. Lịch sử vấn đề Sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử Việt Nam không phải là đề tài mới mà đã được đề cấp trong tài liệu tập huấn đổi mới phương pháp giảng dạy cho giáo viên Trung học phổ thông bộ môn lịch sử, bên cạnh đó cũng có một số nhà nghiên cứu đề cập đến như: - Các tài liệu Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Viêt Nam lấn thứ VIII (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001). Các tài liệu này đã chỉ rõ đường lối chiến lược về giáo dục của Đảng từ năm 2001 – 2010, việc đổi mới phương pháp dạy học… - Các giáo trình: “Phương pháp dạy học lịch sử” Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi với giáo trình Nxb Đại học sư phạm 2002; “Phương pháp dạy học ở trường trung học phổ thông” của Phan Ngọc Liên, Trần Vĩnh Tường, Đặng Văn Hồ Nxb giáo dục 1998…Các giáo trình này đã trình bày một cách đầy đủ về nguyên tắc và phương pháp sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử trên phương diện lý thuyết. Ở cách tiếp cận cụ thể, trực tiếp hơn với quá trình giảng dạy tôi xin trình bày kinh nghiệm của mình trong việc lựa chọn, sử dụng TLVH trong giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 qua các bài giảng cụ thể ở trường Trung học phổ thông. Vì vậy nhiệm vụ của đề tài là phải đi sâu tìm hiểu, lựa chọn các nguồn tại liệu văn học phù hợp vào giảng dạy các bài học trong sách giáo khoa lớp 12 giai đoạn 1954 – 1975 ( Chương trình chuẩn). 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình 3 chuẩn). Đề tài chọn giai đoạn lịch sử 1954 – 1975, đây là giai đoạn mà nhân dân Việt Nam kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, một giai đoạn hào hùng của dân tộc ta. b. Phạm vi nghiên cứu Đề tài không đi sâu nghiên cứu lý luận dạy học mà đi sâu vào nghiên cứu việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn). 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu a. Mục đích Đề tài nghiên cứu nội dung và phương pháp sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở trường Trung học phổ thông một cách hợp lý, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này. b. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích đó đề tài có nhiệm vụ: - Tiến hành điều tra thực tế việc sử dụng TLVH đối với giáo viên và học sinh lớp 12 trường THPT. - Sưu tầm, lựa chọn TLVH phù hợp với nội dụng bài học. - Đề xuất các biện pháp sử dụng TLVH để giảng dạy lịch sử giai đoạn 1954 – 1975 ở lớp 12 trường THPT (Chương trình chuẩn). 5. Phương pháp nghiên cứu - Cơ sở phương pháp luận của đề tài lý là luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dạy học nói chung và về dạy học bộ môn lịch sử ở trường phổ thông nói riêng. - Nghiên cứu nội dung SGK lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, lựa chọn các đoạn tài liệu văn học tiêu biểu, phù hợp với nội dung giai đoạn lịch sử đó. - Nghiên cứu lý luận dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng và các tài liệu văn học để xậy dựng nội dung đề tài. 6. Giả thuyết khoa học Nếu thực hiện tốt các biện pháp sử dụng TLVH như đề tài đề xuất, thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 lớp 12 ở trường THPT. 4 7. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm ba chương: Chương I: Sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt nam giai đoạn 1954 – 1975 ở lớp 12 trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) – Lý luận và thực tiễn. Chương II: Tài liệu văn học được sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở lớp 12 trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) Chương III: Các biện pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở lớp 12 trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn). 5 B. NỘI DUNG Chương 1: SỬ DỤNG TÀI LIỆU VĂN HỌC TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận Mục tiêu giáo dục đã được Đảng và nhà nước ta chỉ rõ: “Đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước nhà. Có trình độ văn hóa cơ bản, đáp ứng những yêu câu phát triển kinh tế, xã hội, những người thông minh, sáng tạo,có phẩm chất đạo đức tốt…Con người như vậy phải được rèn luyện trong quá trình đào tạo và tự đào tạo này chi phối nội dung và phương pháp dạy học” (20; 11, 12) Đặc biệt, muốn đào tạo được những thế hệ trong tương lai giàu tri thức thì giáo dục cần phải đổi mới phương pháp dạy học. Vấn đề này được nghị quyết Trung ương II khóa VIII khẳng định “Đổi mới phương pháp giáo dục – đào tạo, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”. Một trong những phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh là sử dụng tài liệu nói chung và TLVH nói riêng trong dạy học lịch sử. Do đặc trưng của dạy học lịch sử, nên các tài liệu tham khảo có ý nghĩa quan trọng trong việc tái hiện hình ảnh quá khứ. Nó là căn cứ khoa học, bằng chứng về tính chính xác, cụ thể phong phú của sự kiện mà học sinh cần thu nhận giúp các em khắc phục việc hiện đại hóa lịch sử hoặc hư cấu sai sự thật…Việc sử dụng tài liệu tham khảo còn giúp học sinh có cơ sở để nắm rõ bản chất các sự kiện, hình thành khái niệm, hiểu rõ những qui luật của lịch sử, rèn luyện cho học sinh thói quen nghiên cứu khoa học, phát triển tư duy lịch sử. Tài liệu tham khảo là phương tiện có hiệu quả để hiểu rõ hơn SGK, góp phần nâng cao chất lượng day học. Đặc trưng lịch sử là các sự kiện, nhân vật lịch sử…đều diễn ra trong quá khứ, muốn tái hiện cần dựa vào các tài liệu. Vì thế, tài liệu càng đầy đủ thì tri thức càng chính xác, phong phú và sâu sắc. Với ý nghĩa việc sử dụng TLVH để giảng bài trên 6 lớp cũng như cung cấp kiến thức mới, ôn tập, làm bài kiểm tra hay các hoạt động ngoại khóa ….thông qua hình tượng văn học, thông qua những áng văn thơ tuyệt tác dễ đi vào lòng học sinh. TLVH sẽ góp phần khôi phục, làm sáng tỏ lịch sử và đáp ứng nhu cầu giáo dục, giáo dưỡng và phát triển trong việc dạy học lịch sử hiện nay. 1.2. Quan niệm chung về tài liệu văn học Những tác phẩm phản ánh đời sống con người trong quá khứ, có giá trị sử dụng cho mục đích nghiên cứu, dạy học lịch sử …được gọi là TLVH. Tác phẩm văn học phản ánh đúng thực tế cuộc sống xã hội loài người dưới những góc độ khác nhau, thông qua lăng kính thẩm mỹ của tác giả, tất cả đã được hư cấu, sự thật ngoài đời được chuyển vào những trang văn thơ lấp lãnh, sinh động. Có thể nói rằng: “Tác phẩm văn học là bức tranh sinh động và phong phú về đời sống xã hội. Trong khi xây dựng tác phẩm, xây dựng nhân vật văn học, tác giả đã dựa vào tư liệu thực tế đời sống và những tư liệu của sử học… Vì vậy, qua tác phẩm văn học có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thấy được các tư liệu khác về vật chất và tinh thần của xã hội… thấy được những hiện tượng văn hóa sống động trong xã hội, trong những cuộc đời, tức là những hiện tượng văn hóa gắn với cách ứng xử của những cộng đồng người và của từng con người đang đấu tranh cho vận mệnh của mình” (14, 72, 73) Tác phẩm văn học thể hiện phản ảnh xã hội thông qua hệ thống ngôn từ, chứa đựng yếu tố chủ quan của tác giả, bởi thế trong TLVH bao hàm cả sự thật cuộc sống và hư cấu nghệ thuật. Khi sử dụng TLVH cần sàng lọc để nhìn thấy sự thật lịch sử được phản ánh trong đó. TLVH có nhiều loại: thơ, văn xuôi, ca dao, tục ngữ… mỗi thể loại có những đặc điểm riêng, song tất cả đều góp phần phản ánh lịch sử một cách sinh động, phong phú. * Đặc điểm văn họcViệt Nam nửa sau thế kỷ XX Văn học nửa sau thế kỷ XX đã kế thừa truyền thông của văn học dân tộc trong những giai đoạn trước, lại ra đời trong bối cảnh đặc biệt của cuộc chiến đấu chống giăc ngoại xâm, cho nên có những nét độc đáo, rất đáng chú ý. 7 Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả hai miền nổ ra đã đem lại một chuyển biến mạnh mẽ trong sáng tác. Tất cả các nhà văn lúc này đều tập trung vào thể hiện Chủ nghĩa anh hùng cách mạng của mọi tầng lớp nhân dân ta trong chiến đấu và sản xuất nhằm bảo vệ và xây dựng CNXH trên miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, hoàn thành thống nhất nước nhà. Có thể nói, tất cả đều hướng vào chủ đề mới đó hoàn toàn là một cách tự nhiên, không có chút băn khoăn ngần ngại. Tất cả đều vì tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” như lời hiệu triệu của Hồ Chủ Tịch. Sự phong phú về đề tài cũng là một trong những nét nổi bật của văn học Việt Nam trong giai đoạn này. Nếu như giai đoạn 1946-1954, trước yêu cầu của thực tế và khả năng của nhà văn, văn học mới chỉ tập trung vào đề tài chủ yếu là chiến tranh chống đế quốc – thực dân, thì trong giai đoạn này với điều kiện cuộc sống và những cố gắng mới của nhà văn, văn xuôi đã có thể mở rộng tầm khái quát nghệ thuật, xây dựng được những bức tranh cuộc sống rộng lớn, đa dạng, đề cập tới nhiều vấn đề khác nhau của xã hội và con người. Văn học trong giai đoạn này, trong sự phát triển đa dạng của nó đã bám chắc vào ba nguồn mạch chính, những vấn đề trung tâm của quá khứ, hiện tại và tương lai: truyền thống bất khuất trong lịch sử và kháng chiến; của cải tạo và xây dựng CNXH; sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Lực lượng sáng tác trong giai đoạn này cũng tăng lên nhanh chóng. Với những chủ đề khác nhau họ đã cùng nhau xông pha trên nhiều mặt trận, sáng tác nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Với những đặc điểm trên đây của văn học Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỷ XX, chứng tỏ văn học là những tài liệu quý, rất hữu ích cho việc dạy lịch sử ở trường phổ thông. Vì vậy, cần phải tích cực khai thác các nguồn TLVH đề nhằm làm cho bài giảng thêm phong phú, giúp học sinh hiểu được bài sâu hơn. 1.3. Mối quan hệ giữa tài liệu văn học và tri thức lịch sử Các tác phẩm văn học từ xưa đến nay, trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới có vai trò to lớn trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông. 8 Giữa văn học và sử học có mối quan hệ khăng khít với nhau. Tuy chức năng và nhiệm vụ của mỗi ngành khác nhau, nhưng tất cả đều phục vụ cho xã hội và cuộc sống của con người, đều phản ánh mọi hoạt động của con người và xã hội trong sinh hoạt, trong lao động và đấu tranh chống thiên tai, đấu tranh chống ngoại xâm. Đó là những điểm thống nhất giữa văn học và sử học. TLVH được thể hiện dưới nhiều thể loại, mỗi thể loại có một nội dung, nghệ thuật khác nhau. Trong khi sáng tác một tiểu thuyết (lịch sử hay tâm lý xã hội), nhà văn phải nghiên cứu các tài liệu lịch sử. Do đó, chính TLVH đã phần nào phản ánh lịch sử. Cũng có không ít tác phẩm văn học mang tính chất, ý nghĩa của một tư liệu lịch sử, như “Hịch tướng sỹ” của Trần Hưng Đạo, “Cáo bình ngô” của Nguyễn Trãi, “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh… đây là những tác phẩm có giá trị lịch sử cao có tính chính xác và khoa học. Song nhìn chung, tài liệu văn học về tính chính xác khoa học của lịch sử không cao. Vì văn học phản ánh xã hội thông qua nghệ thuật ngôn từ, lăng kính thẩm mỹ chứa đựng yếu tố chủ quan của tác giả, vì thế TLVH bao hàm cả sự thật cuộc sống và hư cấu nghệ thuật. Khi sử dụng cần phải sàng lọc để nhìn thấy sự thật lịch sử được phản ánh trong đó. Tác phẩm văn học thực sự là nguồn tài liệu quý trong tìm hiểu và giảng dạy lịch sử. Tri thức lịch sử là những sự kiện, nhân vật lịch sử, những biến cố lịch sử… (Cả nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghiã, bài học kinh nghiệm, quy luật lịch sử) được diễn ra ở một phạm vi nào đó ở một địa phương, một dân tộc, các khu vực trên thế giới. Đây là những sự kiện, biến cố lịch sử có thật, có tính khoa học chính xác cao, chính các tri thức lịch sử là những nguồn tư liệu làm cho giá trị của tác phẩm văn học được nâng cao hơn và có tính hiện thực, tính khoa học cao hơn, đồng thời tài liệu văn học lại có tác dụng tái hiện lịch sử một cách sinh động, phong phú giàu hình ảnh. Như vậy giữa văn học và sử học có mối quan hệ khăng khít với nhau hỗ trợ cho nhau, cùng với các ngành khoa học xã hội khác, chúng cùng nhau phản ánh sự phát triển mọi mặt của xã hội. 9 1.4. Ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Quán triệt quan điểm đổi mới toàn diện của Đảng về Giáo dục – Đào tạo, việc tìm tòi, vận dụng những phương pháp dạy học mới đang đặt ra cho tất cả các môn học nói chung và môn học lịch sử nói riêng nhằm nâng cao chất lượng đào tạo. Trên cơ sở quan điểm dạy học nêu vấn đề, lấy học sinh làm trung tâm thì người dạy cần phải có sự đổi mới ở tất cả các bước chuẩn bị lên lớp: thiết kế bài dạy, phương pháp truyền thụ, đồ dùng dạy học nhằm làm cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo. Từ đó, tạo ra cho học sinh năng lực tư duy độc lâp, tự chuyển hóa kiến thức tiếp thu thành tri thức, đáp ứng mục tiêu giáo dục hiện nay của đất nước trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế cao. Nguồn tài liệu có thể sử dụng trong dạy học lịch sử rất đa dạng. TLVH với đặc trưng của mình được thể hiện bằng những hình tượng cụ thể, hình ảnh sinh động, lời văn, lời thơ truyền cảm dễ đi vào lòng người đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của người đọc, người nghe. Vì vậy, nó sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả học tập và giáo dục tình cảm cũng như phát triển tư duy, khả năng độc lập suy nghĩ của học sinh. * Về giáo dưỡng: TLVH đã góp phần khắc họa bức tranh quá khứ một cách sinh động và phong phú hơn, từ đó học sinh có thể tiếp thu một cách đầy đủ và sâu sắc hơn tri thức lịch sử. Ví dụ: Khi dạy bài 21 mục V.1 “Chiến lược chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở Miền Nam”. Để giúp học sinh hiểu được chính sách thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ khi xâm lược Việt Nan như thế nào, giáo viên có thể tạo hứng thú cho học sinh khi vào bài này bằng việc đọc cho học sinh nghe đoạn thơ của nhà thơ Chế Lan Viên: “Ghê thay! Chúng vấn có mặt người Đúc như ta bằng chất vàng đẹp nhất Dệt như ta tấm lụa của đời Mặt kẻ giết người lại giống người bị giết 10 … Mặt kẻ thù ta là gương mặt hay cười” (19;68) Tiếp theo giáo viên đặt câu hỏi: Đoạn thơ trên nói lên điều gì? Em có nhận xét gì về đoạn thơ trên? Nếu HS trả lời được câu hỏi, có nghĩa là học sinh hiểu được bản chất, bộ mặt thật của kẻ xâm lược, đó chính là âm mưu của đế quốc Mỹ khi vào xâm lược miền Nam Việt Nam thực chất là thực hiện âm mưu thực dân kiểu mới của mình đó chính là bộ mặt “giấu mặt trá hình” của chúng. Như vậy việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử không những góp phần minh họa sự kiện lịch sử, giúp học sinh hiểu được bản chất của sự kiện, mà chính TLVH là nguồn sử liệu giúp các em hiểu sâu hơn sự kiện đó. Sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử còn góp phần bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cho học sinh và lòng đam mê, ham học hỏi đối với môn lịch sử. * Về giáo dục: Nhiệm vụ quan trọng của môn học lịch sử ở trường phổ thông là giáo dục trí tuệ, tư tưởng chính trị và tình cảm đạo đức cho học sinh. Thực hiện nhiệm vụ đó, tức là làm tốt ba yếu tố có mối quan hệ với nhau: - Trình bày đúng sự kiện - Rút ra kết luận khoa học - Sử dụng tri thức lịch sử để chứng minh, giải thích lý tưởng, tiến hành giáo dục tư tưởng tình cảm. Trên cở sở lý luận dạy học cơ bản đó, ta nhận thấy rằng việc sử dụng tốt TLVH trong dạy học lịch sử sẽ góp phần lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục. * Về phát triển Sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử không chỉ cung cấp kiến thức cơ bản của khoa học lịch sử, giáo dục tư tưởng tình cảm mà còn góp phần phát triển năng lực tư duy logic, tư duy lịch sử và rèn luyện phương pháp khoa học cho học sinh khi xem xét các hiện tượng lịch sử. 11 Tóm lại, sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử có ý nghĩa rất lớn đối với việc nhận thức quá khứ, giáo dục tư tưởng tình cảm, hành động cho học sinh cũng như phát triển năng lực nhận thức cho học sinh. 1.5. Tình hình sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở lớp 12 trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) Sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử có ý nghĩa to lớn trong việc giúp cho tiết dạy thêm sinh động, mềm mại hơn, học sinh hứng thú hơn với tiết học lịch sử. Nhưng trên thực tế việc thực hiện này của GV như thế nào? Kết quả ra sao?...còn phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể của nhà trường, trình độ, lòng say mê nghề nghiệp của giáo viên, thái độ và phương pháp học tập của học sinh. Để nắm được tình hình, có được sự nhận xét, cái nhìn khách quan về nhận thức của GV và học sinh trong việc sử dụng TLVH vào giảng dạy lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở lớp 12, tôi đã tiến hành điều tra giáo viên và học sinh của 4 lớp 12 tại trường THPT Kiệm Tân – huyện Thống Nhất – Đồng Nai. 1.5.1. Mục đích, đối tượng, phương pháp điều tra - Mục đích: Điều tra thực tế để nắm rõ tình hình sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử nói chung và lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1974 ở lớp 12 Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn), để từ đó lựa chọn tài liệu, đề xuất sử dụng phương pháp hợp lý. - Đối tượng điều tra GV dạy lịch sử và học sinh lớp 12 Trung học phổ thông. - Phương pháp tiến hành: Trực tiếp gặp gỡ trao đổi với GV và học sinh, sau đó phát phiếu điều tra thăm dò ý kiến. 1.5.2. Nội dung điều tra - Đối với giáo viên: Tôi đưa ra một số câu hỏi để biết được quan điểm của giáo viên về việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử, cũng như đề xuất của giáo viên trong việc sử dụng TLVH nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử nói chung và dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975. - Đối với học sinh: Tôi đưa ra một số câu hỏi để học sinh phản ánh tình hình học tập môn lịch sử, việc GV có thường xuyên sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử giai đoạn 1954 – 1975. 12 1.5.3. Kết quả điều tra - Đối với giáo viên: Qua thực tế điều tra 4 GV cho thấy, tất cả GV điều nhận thức thấy mức độ cần thiết phải sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử nói chung và dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở lớp 12 trường Trung học phổ thông. Qua đó GV cũng thấy rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc sử dụng TLVH đó là: “TLVH đã phản ánh các sự kiện, hiện tượng lịch sử, các tiết học này trở nên sinh động hơn, gây được sự hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em hiểu và nắm được bản chất của các sự kiện lịch sử tốt hơn, nhận thức bài học lịch sử sâu sắc hơn”. Về phương pháp sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử dân tộc, có 4 giáo viên sử dụng để minh họa, cụ thể các sự kiện, nhân vật lịch sử. Có 3 GV sử dụng TLVH để tái hiện lịch sử, giải thích một sự kiện, chỉ 1 GV sử dụng TLVH để rút ra nguyên nhân, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm và chưa có GV nào sử dụng TLVH để ra bài tập về nhà và tổ chức trò chơi lịch sử cho học sinh. Về tình sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở lớp 12 trường trung học phổ thông có 1 GV trả lời sử dụng thường xuyên TLVH trong giờ dạy của mình, có 3 GV trả lời chỉ thỉnh thoảng mới sử dụng TLVH trong giờ dạy. Về điều kiện cơ sở vật chất: Khi hỏi các thầy, cô trong giảng dạy đã gặp những khó khăn và thuận lợi nào, trong số GV được hỏi hầu hết đều cho rằng nhà trường và tổ bộ môn đã tạo điều kiện thuận lời cho GV sử dụng TLVH, cũng có GV cho rằng nhà trường đã tạo điều kiện tuy nhiên tài liệu còn nghèo nàn. Như vậy, các GV đều nhận thấy được tác dụng, ý nghĩa của việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử nói chung và dạy học lich sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở lớp 12 trường Trung học phổ thông nói riêng. Tuy nhiên, do đặc điểm, điều kiện cụ thể của nhà trường, từng lớp, từng GV mà việc sử dụng TLVH chưa được tiến hành một cách rộng rãi, với những phương pháp phù hợp để đưa lại hiệu quả cao. - Đối với học sinh: Qua điều tra 200 học sinh của lớp 12 cho thấy: 13 Khi hỏi học sinh có thích học môn lịch sử không, có 62 học sinh trả lời là không, 100 học sinh trả lời bình thường, số học sinh đều cho rằng môn lịch sử rất dài và khó nhớ, có quá nhiều sự kiện khó học, đọc rồi lại quên nên học không có hiệu quả, các em chỉ học là để thi tốt nghiệp. Có 38 học sinh trả lời là thích học lịch sử bởi các em cho rằng môn lịch sử rất quan trọng, giúp cho các em thấy được những trang sử hào hùng của dân tộc, biết được công lao to lớn của cha ông, qua đó thấy được truyền thống yêu nước và ý thưc dân tộc của dân tộc ta. Việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử làm cho bài học thêm sinh động qua đó giúp các em thêm yêu thích bộ môn lịch sử. Khi hỏi học sinh trong dạy học GV có sử dụng TLVH không? Có 100% học sinh trả lời là có, nhưng chỉ thỉnh thoảng và tùy thuộc vào nội dung bài học lịch sử. Các em cũng cho rằng việc GV sử dụng TLVH trong dạy học làm cho các em hứng thú học tập hơn, nhớ sâu hơn các sự kiện, nâng cao hiệu quả bài học hơn. Khi hỏi, trong lúc sử dụng TLVH trong dạy học thì GV có đặt câu hỏi cho các em trả lời không thì có 35 học sinh (17.5%) trả lời là thường xuyên, 130 học sinh (65%) trả lời là thỉnh thoảng và có 25 học sinh (17.5%) trả lời là rất ít. Như vậy, qua điều tra thực tế ở trường THPT Kiệm Tân, tôi thấy hầu hết các GV đã nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc sử dụng TLVH trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên, do một số điều kiện khách quan và chủ quan nên việc thực hiện chưa đầy đủ, toàn diện và chưa đem lại hiệu quả cao. Từ thực tiễn ấy cho thấy, nếu GV có tâm huyết, chú ý đầu tư sưu tầm, biết lựa chọn TLVH hợp lý, tiêu biểu và phù hợp với nội dung bài học, có phương pháp tốt và sử dụng thường xuyên thì sẽ giúp học sinh học môn lịch sử có hiệu quả hơn. 14 Chương 2: TÀI LIỆU VĂN HỌC SỬ DỤNG TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 – 1975 Ở TRƯỜNG THPT (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) 2.1. Một số nguyên tắc khi lựa chọn tài liệu văn học Tài liệu văn học có liên quan đến tri thức lịch sử khá phong phú trong kho tàng tri thức. Vì vậy, để lựa chọn được TLVH đưa vào dạy học lịch sử Việt Nam nói chung và giai đoạn lịch sử 1954 – 1975 nói riêng có hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học bộ môn, đòi hỏi người GV phải tuân thủ một số nguyên tắc sau: 2.1.1. Tài liệu văn học phải chính thống và có giá trị phản ảnh lịch sử cao Đây là một yêu cầu rất quan trọng vì nó đảm bảo độ tin cậy cũng như chất lượng của tài liệu sử dụng. Giá trị lịch sử ở đây được hiểu là những nhân vật, sự kiện lịch sử được phản ánh trong các tác phẩm văn học, sau khi loại bỏ phần hư cấu sẽ đúng hoặc gần đúng với thực tế sự kiện lịch sử diễn ra. Nhân vật, sự kiện lịch sử là có thật, đã diễn ra, nhà văn chỉ dùng công cụ ngôn ngữ và biện pháp nghệ thuật để xây dựng thành hình tượng văn học. Như vậy giá trị lịch sử ở đây là cốt yếu, là “bộ khung”, chất liệu chính của nhà văn. Đảm bảo nguyên tắc này, GV phải ưu tiên lựa chọn những TLVH mà tác giả là người trong cuộc, trực tiếp tham gia, chứng kiến hoặc sống gần thời điểm xảy ra sự kiện. Mặt khác, đó phải là những tác phẩm văn học của những nhà văn mà tên tuổi họ đã được đất đước tôn vinh, nhân dân công nhận, có sức lan tỏa, được phổ biến rộng rãi. Hơn nữa, thông thường những tác phẩm này được xuất bản bởi những nhà xuất bản nổi tiếng như nhà xuất bản Văn học, nhà xuất bản Giáo dục, nhà xuất bản Công an nhân dân, nhà xuất bản Quân đội…, và được công nhận bởi những cơ qua chức năng có thẩm quyền. Trong thời đại hiện nay, thông tin trở thành một thứ hàng hóa – tri thức có tính chất toàn cầu với nhiều kênh thông tin rất đa chiều, đa hệ, thậm chí trái ngược nhau. Nhiều lúc, chỉ một sự kiện, một nhân vật cụ thể nhưng vẫn tồn tại nhiều cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau. Vì lẽ đó, nguyên tắc đảm bảo chính thống và giá trị lịch sử của nguồn tư liệu giúp có được độ tin cậy cao nhất về những tài liệu được trực tiếp sử dụng. 15 2.1.2. Tài liệu văn học phải có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng Người GV giảng bài trên bục giảng có thể nói là một phát ngôn viên. Họ phải chịu trách nhiệm về những gì mình giảng, mình trình bày, mính nói với học sinh. Khi sử dụng TLVH, người GV phải chứng minh được nguồn gốc của tài liệu đó. Nguyên tắc này đảm báo cho người GV chuẩn bị kỹ bài giảng, không được chủ quan, càng không được xem thường học sinh. Khi sử dụng cần tránh những điều như: “nếu tôi nhớ không nhầm...” hay như “hình như tác phẩm này…”. Những tài liệu mà GV trích dẫn phải có lai lịch và thông số cơ bản như tên tác giả, tên sách, nhà xuất bản, năm xuất bản, trang, nơi xuất bản… Nếu không đảm bảo, khẳng định được xuất xứ của tài liệu thì không nên sử dụng. Đã có nhiều trường hợp “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia” trong việc sử dụng tài liệu. Vì vậy, tốt nhất GV nên chuẩn bị sẵn tài liệu trước khi lên lớp. 2.1.3. Tài liệu văn học sử dụng trong dạy học lịch sử phải đa dạng về thể loại Mỗi thể loại văn học đều có những ưu thế của nó. Đối với thể loại thơ, ngôn ngữ hàm súc cô đọng nhưng giàu hình tượng. Lợi điểm này, câu thơ dễ tác động trực tiếp ngay lập tức đến người đọc, người nghe, dễ thấm vào lòng người. Mặt khác thơ có vần điệu suôn sẽ (ngoại trừ thể thơ tự do), đặc biệt là thơ lục bát truyền thống của dân tộc nên dễ đọc, dễ nhớ và nhớ lâu. Không phải ngẫu nhiên mà ông bà, cha mẹ chúng ta không biết chữ mà vẫn thuộc Truyện Kiều của Nguyễn Du và hàng trăm câu ca dao. Văn xuôi với ưu thế về dung lượng ngôn từ, về bố cục, về nghệ thuật đắc trưng như miêu tả, phép tu từ…sẽ có lợi thế trong việc tường thuật diễn biến, cung cấp số liệu, sự kiện, nhân vật lịch sử một cách cụ thể, chi tiết, giúp học sinh nhận thức dễ dàng hơn. Vì vậy, để sử dụng TLVH một cách có hiệu quả, GV phải trang bị cho mình một số “vốn” văn học tương đối toàn diện, đầy đủ thể loại: thơ, tiểu thuyết, truyện, ký sự, hồi ký…Sẽ là phiến diện, bị động nếu GV chỉ thiên về một lợi thế nào đó, vì như vậy sẽ không phát huy được tính da dạng, phong phú của TLVH. Đương nhiên trong thực tế, không phải lúc nào các dòng văn học cũng phát triển đầy đủ các thể loại. 16 2.1.4. Tài liệu văn học phải có giá trị giáo dưỡng, giá trị giáo dục và giá trị văn học Tài liệu văn học mà GV sử dụng phải là tài liệu giúp cho học sinh nhận thức bài học lịch sử được toàn diện, sâu sắc hơn. Thông qua việc cung cấp tài liệu của GV trong bài giảng, học sinh sẽ ghi nhớ sự kiện, nhân vật lịch sử bền vững hơn. Bức tranh lịch sử trong quá khứ được khôi phục rõ nét hơn. Từ chỗ “biết”, “ghi nhớ”, TLVH phải giúp cho học sinh “hiểu” được lịch sử. Tiến lên một bước cao hơn, thông qua phương pháp này, trường hợp sử dụng tài liệu của GV, học sinh sẽ có nhận thức đúng đắn về nội dung lịch sử, mối liên hệ bản chất của các sự kiện lịch sử. Những nội dung có tính khái quát cao cũng sẽ được sáng tỏ hơn sau khi sử dụng TLVH. Đó chính là giá trị giáo dưỡng của TLVH. Về giá trị giáo dục, cũng như tài liệu lịch sử, TLVH có nguồn tri thức góp phần trong nhiệm vụ giáo dục. Thông qua những áng văn, thơ ngợi ca về đất nước, về vị lãnh tụ, về anh bộ đội Cụ Hồ… học sinh sẽ hiểu rõ hơn về những trang sử chói lọi, những chiến công của dân tộc ta. Từ đó, lòng tự hào dân tộc, lòng kính yêu lãnh tụ và lòng biết ơn các vị anh hùng liệt sỹ đã hy sinh xương máu để bảo vệ và xây dựng nền độc lập của Tổ quốc Việt Nam sẽ được hình thành một cách tự nhiên trong tâm hồn của các em. Mặt khác, không thể gọi TLVH nếu không giáo trị văn học. Ngoài giá trị lịch sử, giá trị văn học của tài liệu chính là yếu tố tạo nên phần “chất” của nó. Vấn đề của GV là lựa chọn những tài liệu có giá trị thì hiệu quả sử dụng càng cao. Giá trị văn học được minh chứng bằng những giải thưởng văn học do cơ quan chức năng của Nhà nước trao tăng nếu những tác phẩm văn học đó tham gia những cuộc thi sáng tác trên qui mô lớn. Giá trị văn học còn được đo bằng sự công nhận và hoan nghênh của người đọc đương thời cũng như hậu thế do sức sống lan tỏa của tác phẩm. 17 2.2. Hệ thống tài liệu văn học được sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình chuẩn) 2.2.1. Bài 21: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miềền Bắắc, đấắu tranh chốắng đềắ quốắc Mỹỹ và chính quỹềền Sài Gòn ở miềền Nam (1954 – 1965) Mục Kiến thức lịch sử cơ bản Tài liệu văn học sử dụng I. Tình hình và - Ngày 10/10/1954, quân ta về - GV sử dụng đoạn truyện nhiệm vụ cách tiếp quản Thủ đô. mạng nước ta kể “Trở lại thủ đô” (Xem phụ lục III.1) sau Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương - Mĩ : Âm mưu thay chân Pháp ở miền Nam, dựng lên chính quyền - GV sử dụng bài thơ: Cầu tay sai Ngô Đình Diệm, hòng chia Hiền Lương cắt Việt Nam thành thuộc địa kiểu (Xem phụ lục III.2) mới. Đặc điểm thình hình nước ta sau Hiệp định Giơnevơ: - Đất nước ta bị chia cắt làm 2 miền với 2 chế độ chính trị xã hội khác nhau : II.1.Hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi - Từ 1954 – 1956 diễn ra 6 đợt phục kinh tế, giảm tô và 4 đợt cải cách ruộng hàn đất ở 22 tỉnh đồng bằng và trung gắn thương vết chiến du tranh (1954 – 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan