Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Sáng kiến kinh nghiệm Skkn tạo sự hứng thú trong dạy và học lịch sử ở trường thcs....

Tài liệu Skkn tạo sự hứng thú trong dạy và học lịch sử ở trường thcs.

.PDF
30
2689
139

Mô tả:

Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS SÔÛ GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO ÑAÊK LAÊK PHOØNG GIAÙO DUÏC & ÑAØO TAÏO HUYEÄN KROÂNG NAÊNG ĐỀ TÀI Giáo viên thực hiện : Trịnh Thị Thắm. Trường THCS Phú Xuân. Năm học: 2015-2016 . PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN KRÔNGNĂNG TRƯỜNG THCS PHÚ XUÂN Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 1 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS ĐỀTÀI Giáo viên thực hiện :Trịnh Thị Thắm. Năm học: 2015-2016 . Phần I: Mở đầu I.1.Lý do chọn đề tài. Năm học 2015 -2016, là năm học tiếp tục triển khai có hiệu quả kế hoạch hành động của ngành giáo dục, chương trình hành động của chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29 – NQ/TW về Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 2 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, tiếp tục thực hiện tốt, có hiệu quả Chỉ thị số 03 – CT/TW của Bộ chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” , mỗi thầy cô giáo là tấm gương tự học và sáng tạo. Tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kĩ năng sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, truyền thống văn hóa dân tộc đối với các thế hệ học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường. Vì vậy trong chương trình giảng dạy ở bậc trung học cơ sở (THCS) nói riêng và các bậc phổ thông nói chung. Là người giáo viên chúng ta luôn mong muốn học sinh của mình đạt kết quả cao trong học tập, biết vận dụng vào cuộc sống “Học đi đôi với hành”. Bên cạnh giáo dục tri thức cho học sinh, chúng ta luôn suy nghĩ lồng ghép giáo dục, kĩ năng sống cho học sinh, giúp các thế hệ học sinh của mình cảm thấy mỗi ngày đến trường là một niềm vui, niềm vui học tập, niềm vui giao tiếp, nô đùa với bạn bè, niềm vui tăng thêm sự hiểu biết trong cuộc sống. Song trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, khi hầu hết các giá trị đều quy đổi thành hàng hóa, tiền bạc và lợi nhuận thì kiến thức từ các môn tự nhiên lại được các bậc phụ huynh và học sinh hết sức đề cao. Ngược lại các môn khoa học xã hội, đặc biệt các môn “bị” xem là “môn phụ” như Lịch sử, Địa lí,…Thì học sinh hầu như chỉ học qua loa đại khái, thậm chí là cảm thấy “chán” học. Chính bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử, nhưng có lúc cũng hơi “chạnh lòng” và cảm thấy buồn vì sự nhận thức còn lệch lạc ở nhiều bậc phụ hunh và con em họ. Bởi một thực tế, khi trao đổi, nói chuyện về việc học tập hiện nay của xu hướng học sinh nói chung và học sinh trường tôi nói riêng, thì có phụ huynh hỏi tôi “cô dạy môn gì”. Tôi mới kịp trả lời : “ Thưa bác cháu dạy môn Lịch sử ạ”. Phụ huynh ấy liền chẳng nể nang gì mà nói “ ối dào! Con tôi cho nó học Toán và Anh văn thôi, sau này cháu đi làm kiếm nhiều tiền”. Vấn đề tranh luận giữa tôi và bậc phụ hunh ấy bắt đầu có sự giải thích lẫn nhau. Câu chuyện tiếp tục, tôi hỏi “ Dạ! thưa bác tiền không phải là mục đích cuối cùng ạ.”. Đồng tiền chúng ta xem nó là phương tiện của cuộc sống. Nhưng nếu ai cũng nhận thức như thế thì làm gì có những nhà khoa học nghiên cứu Lịch sử loài người nổi tiếng như Tushidish người Hy Lạp, Toynbee người Anh, Các Mác và Ăng- ghen người Đức, Tư Mã Thiên người Trung Quốc, …Ở Việt Nam từ cổ đến kim cũng có những nhà nghiên cứu Lịch sử nổi tiếng của dân tộc như Lê Văn Hưu, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Trần Đức Vượng, Lê Văn Lan,…và hơn nữa là nếu ai cũng quan niệm như Bác thì làm gì có những con người đúng trên bục giảng để giảng dạy những bài học lịch sử để giáo dục học sinh về quy luật phát triển của xã hội loài người về truyền thống dân tộc dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước, về giá trị của cuộc sống,…cũng từ bài học lịch sử để giúp học sinh thấy được bài học từ quá khứ, phát huy bảo tồn những giá trị tích cực, hạn chế, tránh những “vết xe đổ” của quá khứ để có cái nhìn lạc quan hơn về cuộc sống thực tế. Câu chuyên cứ kéo dài khiến tôi cũng suy nghĩ khi bác phụ huynh ấy nêu lên thực tế của xã hội khi mà giá trị lịch sử đang “bị xem” nhẹ như ngay cả trên thông tin đại chúng truyền hình thời sự cũng đề cập đến việc “một thanh niên sinh viên học đại học Lịch sử ra trường không xin được việc làm, phải chạy xe xích lô trở khách trên đường phố Hà nội”, hay cả một hội đồng thi tốt nghiệp phổ thông trung học ở thành Phố Hồ Chí Minh năm học 2013-2014, chỉ có một học sinh đăng kí thi môn Lịch sử, hay một số kì thi tốt nghiệp phổ thông, các kì thi đại học, cao đẳng học sinh bị điểm 0 và điểm 1 môn Lịch sử,… nhìn chung đó đang là xu hướng đáng báo động khi mà chúng ta đang có cái nhìn quay lưng với quá khứ. Song từ vấn đề thực tế cũng là điều để tôi cùng quý thầy giáo, cô giáo dạy Lịch sử và nghiên cứu Lịch sử cùng suy ngẫm, khi mà quy luật phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và dòng chảy lịch sử dân tộc, nét truyền thống văn hóa đất nước nói riêng đang bị xói mòn và mờ nhạt ở chính thế hệ trẻ hôm nay ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường và không biết tương lai sẽ như thế nào ?! Trong khi chúng ta thấy rõ một điều khi nói đến việc học và hiểu lịch sử và vấn đề lịch sử là cần thiết và quan trọng. Một sử gia người Anh là Toynbee từng nói: “Tại sao chúng ta phải nghiên cứu môn lịch sử ? Chắc chắn loài người sẽ đi đến chỗ diệt vong nếu chúng ta không tạo được một cộng đồng giống như một đại gia đình. Vì thế chúng ta cần phải học cách hiểu lẫn Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 3 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS nhau, có nghĩa là học để hiểu lịch sử của chính dân tộc mình và những dân tộc khác. Bởi vì con người không chỉ sống với hiện tại mà còn sống trong một thứ dòng chảy thời gian của tinh thần, nhớ lại quá khứ và nhìn về tương lai ở phía trước với niềm hy vọng hoặc nỗi lo âu,…” Từ câu nói trên, tôi rất tâm đắc, bởi lịch sử thế giới là quy luật phát triển chung của xã hội loài người, còn lịch sử dân tộc là quá khứ cội nguồn tổ tiên “ Cây có cội, suối có nguồn, chim có tổ, người có tông”. Từ đó để biết được những thành tựu và chiến công huy hoàng của những bậc tiền nhân đi trước trong quá trình dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước, đồng thời để hạn chế và tránh những “vết xe đổ” của quá khứ trong hiện tại và tương lai. Chính Bác Hồ kính yêu của chúng ta từng viết: “ Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.” Đúng vậy, đã là người Việt Nam dù đi đâu, ở đâu, trong nước hay tại ngoại cũng hướng về cội nguồn dân tộc, vẫn giữ lại những nét truyền thống để truyền lại cho muôn đời sau, vì đó là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đó chính là lý do để tôi chọn và nghiên cứu đề tài “Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở bậc trung học cơ sở” này, mong muốn chính mình và các thế hệ học sinh của mình nói riêng và người Việt Nam nói chung cần cố gắng hơn nữa trong việc tìm hiểu, tiếp biến những giá trị văn hóa lịch sử dân tộc cùng với xu hướng hội nhập toàn cầu làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc và con người Việt Nam. Để rồi từ đó, hy vọng bồi dưỡng giáo dục học sinh có thái độ học tập đúng đắn tích cực, chủ động, hứng thú, say mê tìm tòi, biết trân trọng hơn nữa việc kế thừa, phát huy những giá trị lịch sử trong cuộc sống, góp phần bé nhỏ của mình làm rạng rỡ thêm cho quê hương và đất nước Việt Nam. Để rồi các em sẽ không còn cảm thấy môn Lịch sử là môn khó học, khô khan, môn phụ mà nó là một khoa học tìm hiểu và dựng lại toàn cảnh trong quá khứ của con người và xã hội loài người. I. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. Với những tư tưởng chủ quan và khách quan, tôi muốn đưa đến quý phụ huynh cũng như học sinh ít quan tâm đầu tư vào học môn lịch Sử, đưa đến học sinh không say mê, chưa hứng thú và chưa tích cực trong học môn Lịch sử, đưa đến kết quả học tập môn Lịch Sử rất thấp so với các môn khác, thể hiện qua các kì thi, đặc biệt là các kì thi tốt nghiệp, Đại Học và Cao Đẳng trong những năm qua. Một số người “ thành đạt” “giàu có” nhưng hiểu biết Lịch Sử dân tộc còn rất nông cạn thậm chí là “ phản bác” sai lệch rất nghiêm trọng, cần có cách nhìn, cách nghĩ tích cực tiến bộ hơn đối với Lịch sử. Nếu vấn đề này không được khắc phục thì đó là một hiểm họa, học sinh Việt Nam không hiểu về lịch sử Việt Nam. Công dân Việt Nam không biết về truyền thống, quá khứ cha anh, công lao những bậc tiền nhân Việt Nam. Truyền thống văn hóa dân tộc ngày một mờ nhạt, hòa nhập không giữ được bản sắc dân tộc trở thành hòa tan. Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học từ thụ động lĩnh hội kiến thức sang chủ động tích cực tìm tòi và phát hiện nói chung. Đối với môn Lịch Sử qua các kì Đại hội, hội nghị của Đảng thường xuyên nhắc đến “ phải làm sao để nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch Sử” ở các bậc phổ thông. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch Sử, tôi hiểu được rằng đó cũng là một trách nhiệm của bản thân. Phải làm thế nào để lớp lớp học sinh Việt Nam nói chung tích cực say mê, hứng thú, chủ động học môn Lịch Sử như những môn học khác không chỉ trên lớp mà cả ở nhà để nâng cao hiệu quả hơn. Qua đề tài nghiên cứu của bản thân mong muốn giúp cho học sinh yêu thích và học tốt môn Lịch Sử, biến sự khô khan, khó học, khó hiểu thành sự hứng thú, say mê, chủ động tích cực và khám phá. Đồng thời giúp cho xã hội, quý bậc phụ huynh, học sinh thấy được vai trò quan trọng của môn Lịch Sử. Học Sử để chúng ta hiểu được gốc tích và cội nguồn của dân tộc, tổ tiên và công lao của ông cha ta. Có như vậy, chúng ta mới biết quý trọng, gìn giữ và phát huy truyền thống của dân tộc “Lịch Sử là thầy dạy của cuộc sống”. Học Lịch Sử ta sẽ biết được quá khứ, ổn định Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 4 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS hiện tại và hướng đến tương lai tốt đẹp. Lịch sử là một khoa học khác với các khoa học khác ở chỗ. Các khoa học khác có thể đem vào phòng thí nghiệm làm thí nghiệm để tìm ra kết quả. Còn khoa học lịch sử là con người, cỏ cây, mọi vật xung quang ta đều sinh ra, lớn lên và biến đổi theo thời gian hay nói khác là những gì đã diễn ra trong quá khứ. Cho nên những vấn đề đó chúng ta không thể thí nghiệm để cho ra kết quả được, nhưng chúng ta có thể tìm hiểu, tái hiện và dựng lại một cách sinh động . Bởi thực trạng trong những năm qua, hiện tượng xa rời lich sử đang rất báo động . Chính vì vậy có lúc đứng trên bục giảng tôi tự hỏi : Cần phải làm gì đó để các thế hệ học sinh của mình thấy yêu quý và học tốt môn học chính mình đảm nhiệm và cũng chính là con đường mình đã chọn và đi theo. Bằng tình yêu thương và trách nhiệm gắn kết tôi muốn các em không còn thấy lịch sử không nhàm chán và khô khan hay học khó nhớ và nhớ mau quên như nhiều người từng nghĩ. Vậy chúng ta thử cùng thực hiện xem. Vậy nên, tôi muốn đưa ra các dạng lĩnh hội kiến thức trên lớp từ bài giảng, những định hướng của giáo viên: hệ thống hóa kiến thức, bản đồ tư duy hay đồ dung trực quan để các em thấy được học lịch sử không dài, không khó, không khô khan, không khó nhớ và nhớ rất lâu, khích thích thêm sự tư duy mong muốn tìm hiểu và say mê học tốt hơn. I. 3. Đối tượng nghiên cứu: Trong xã hội hiện nay, đời sống con người được tăng theo cấp bậc phát triển của xã hội để thích nghi với biến đổi của tự nhiên, xã hội, khoa học, kĩ thuật. Nhất là các thành phố lớn, đời sống đô thị làm cuốn hút dòng người trở nên tất bật với những bộn bề, lo toan của công việc, sống vội, sống gấp, lệ thuộc vào máy móc là chủ yếu. Một số gia đình họ cứ nghĩ miễn sao con cái họ học gì để sau này kiếm ra nhiều tiền và theo tôi tiền không phải là mục đích cuối cùng của con người. Vậy nên tôi thiết nghĩ việc truyền lại lửa yêu thích và say mê tìm hiểu, nhận biết và nghiên cứu Lịch sử là điều cần thiết mà mỗi chúng ta cần quan tâm. Vì thế đối tượng nghiên cứu của tôi trong đề tài này cho những ai muốn học và hiểu lich sử, đặc biệt là học sinh Trung học cơ sở Phú Xuân tôi đang được tiếp cận, các em đang ở độ tuổi trưởng thành, dễ thương về hình thức, trong trẻo về tâm hồn, cao đẹp về ước mơ và lí tưởng. Bên cạnh những em chăm chỉ có ý thức học tốt, còn có rất nhiều em đang hiểu sai lệch về bộ môn Lịch Sử, xem nhẹ môn Lịch Sử, là môn học phụ, không cần thiết, khô khan, khó nhớ, nhiều sự kiện,…còn lười học, phó thác. Mong muốn các em sẽ thay đổi, sẽ kế thừa và phát huy truyền thống hiếu học hơn nữa góp phần nâng cao hiệu quả học tập các môn học nói chung và lịch sử nói riêng. I. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Kính thưa! Quý bậc đàn anh, đàn chị đồng nghiệp, dù sao kinh nghiệm giảng dạy của bản thân còn hạn chế, tuổi nghề còn ít, kiến thức khoa học còn phải học hỏi nhiều. Nhưng nay tôi mạnh dạn đưa ra một cách dạy và học để giúp học sinh yêu thích và học tập tốt hơn môn lịch sử ở bậc THCS, mặc dù không đi hết tất cả các nội dung chương trình của các khối lớp 6, 7, 8, 9 vì điều kiện và giới hạn không cho phép, nên bản thân tôi giới hạn nghiên cứu cách lĩnh hội kiến thức, tự học, dễ nắm kiến thức và nhớ lâu ở một số bài bằng hệ thống hóa sơ đồ tư duy, hệ thống hóa kiến thức bằng bảng biểu, một số cách học qua đồ dung trực quan. Để các em hiểu rằng, môn học lịch sử không hề khó và cũng cần sự sáng tạo, tìm tòi để làm rõ, chứ không nhất thiết phải khuôn mẫu cứng nhắc. Lịch sử cũng là một khoa học nghiên cứu nhưng là tìm tòi, phát hiện, dựng lại, tái hiện lại một cách chân thực của quá khứ. Từ quá khứ sẽ soi vào thực tại và rút ra bài học kinh nghiệm cho thực tại và tương lai. I.5. Phương pháp nghiên cứu. Trong đề tài này, tôi đã sử dụng đến phương pháp nghiên cứu lí luận và phương pháp nghiên cứu thực tiễn. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Thu thập thông tin lí luận trong việc sử dụng các phương pháp học tập phát huy tính tích cực, chủ động, hứng thú trong dạy và học lịch Sử ở trường THCS. Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 5 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS Tâm lí học lứa tuổi của Bộ giáo dục và đào tạo. Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở THCS. Tham khảo các trang wed liên quan đến việc soạn giảng trong quá trình dạy học môn Lịch sử ở bậc THCS: Bạch Kim; Bài giảng điện tử,… Sách giáo khoa lịch sử 6, 7, 8, 9. Chuẩn kiến thức, kĩ năng môn lịch sử THCS. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát kết quả đạt được từ hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh qua các tiết dạy mẫu. Trò chuyện với đồng nghiệp, với học sinh về hiệu quả các tiết dạy có sử dụng các đồ dùng trực quan và sơ đồ tư duy, định hướng cách học cho học sinh chuẩn bị, học bài ở nhà trong dạy học Lịch Sử. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tham khảo các báo cáo, các chuyên đề trong nhà trường và trường bạn. Học hỏi kinh nghiệm các quý bạn đồng nghiệp. Trao đổi từ một số học sinh khá, giỏi môn Lịch sử ở trường sở tại. Phần II: Nội dung I I . 1 C ơ s ở lý l u ậ n : Cùng với sự phát triển chung của xã hội loài người, sự bùng nổ về công nghệ thông tin, sự giao lưu về kinh tế - chính trị và văn hóa thể thao trên phạm vi thế giới. Xu thế chung của thế giới ngày nay vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các quốc gia dân tộc. Cơ hội là có điều kiện hội nhập để phát triển, nhưng cũng đầy thách thức khi hội nhập chúng ta có điều kiện để hòa nhập, tiếp biến những tinh hoa văn hóa của nhân loại phù hợp để góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc, hòa nhập chứ không hòa tan, để làm được điều đó thì mỗi công dân Việt Nam phải hiểu biết được lịch sử truyền thống quý báu của dân tộc mình, nắm rõ về nguồn cội tổ tiên, để làm được điều đó, những thế hệ học sinh Việt Nam phải tích tực, say mê, hứng thú, chủ động tìm hiểu về môn Lịch Sử ở các trường phổ thông, tránh đi “chệch” hay đi “ngược” lịch sử dân tộc . Trong dòng chảy của tri thức nói chung, môn Lịch sử nói riêng cùng với thang giá trị và định hướng giá trị đã có sự thay đổi. Những biểu hiện tích cực, tiêu cực đã và đang diễn ra trong đời sống nói chung, hoạt động giáo dục nói riêng. Điều đáng lo ngại trong thanh thiếu niên, thể hiện qua các “ giá trị quá độ” từ “ con người xã hội” sang “con người cá nhân” từ “con người tập thể” sang “con người cá thể”, “con người đoàn thể” sang “con người gia đình”. Giá trị về tính lương thiện, trung thực, ngay thẳng, niềm tin, lòng bao dung, sự liêm chính đang bị xuống hạng trong nhân cách một bộ phận đáng kể của lớp trẻ, đặc biệt đáng lo ngại là ở một số học sinh đang còn ngồi trên ghế nhà trường, đua đòi theo “ mốt” của “ sự lai căng”, xao nhãng từ việc hòa nhập đến quên mình “hòa tan”. Trong khi đó, những định hướng về nhân cách như lý tưởng, hoài bão, bản lĩnh, lòng tự tôn dân tộc thì lại ít được chú ý. Vì vậy dạy học Lịch sử luôn là niềm trăn trở của bao thế hệ đứng trên bục giảng trực tiếp giảng dạy, mong muốn của họ nói chung và của cá nhân tôi nói riêng thông qua việc dạy học để giúp học sinh của mình hướng tới những phẩm chất giá trị như biết yêu quý bản thân, yêu gia đình, quê hương đất nước, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Qua đó nâng cao ý thức kế thừa truyền thống cách mạng, truyền thống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nói như thế có nghĩa bên cạnh việc truyền đạt những kiến thức trong sách giáo khoa, mà còn bằng cả lòng nhiệt huyết của bản thân để gửi gắm đến học sinh của mình những tâm tư, tình cảm, cùng chia sẻ, đồng cảm với mỗi hoàn cảnh của học sinh. Đó chính là yếu tố hang đầu , có vai trò quyết định trong việc tạo hứng thú và kết quả học tập của học sinh. Muốn vậy người giáo viên phải nổ lực khắc phục những khó khăn, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 6 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS nghiệp vụ và cập nhật kiến thức mới, chú ý thực tiễn địa phương, đưa ra cách học, phương pháp học thích hợp đối tượng học sinh, để từ đó nâng cao sức hấp dẫn của bài giảng để các em học sinh yêu thích và học tốt hơn ở các môn nói chung và môn Lịch sử nói riêng. Tránh tự nhàm chán hay sự ép mà phải để học sinh tự do lựa chọn cách học, cách ghi nhớ, cách hiểu của mình “tự do trong khuôn khổ” tức trong phạm vi cho phép tránh lan man mơ hồ. Đồng thời người giáo viên biến giờ học thành “món quà” không chỉ đối với học sinh mà còn đối với chính bản thân mình. II. 2. Thực Trạng: Khái quát thực trạng: Dạy và học lịch sử hiện nay chúng ta nên tránh quan niệm là “môn học thuộc lòng” với phương pháp cũ “Thầy đọc trò chép” về nhà học thuộc bài. Vì vậy học sinh bị động trong lĩnh hội kiến thức, học vẹt, học đối phó và đôi khi còn lười nhác ỷ lại, với cách học đó học sinh không thể phát huy hết khả năng sáng tạo của mình, đồng thời học lịch sử trở nên nặng nề, áp đặt với cả thầy và trò. Chúng ta nên nhớ Lịch sử cũng cần sự tư duy và sáng tạo. Tư duy có nghĩa là cần phải logic, từ sự kiện lớn gắn kết với nhiều sự kiện nhỏ, từ mốc thời gian này có thể liên tưởng đến nhiều mốc thời gian khác,…Sáng tạo ở môn lịch sử khác với các môn học khác ở chỗ cần phải nhận biết vấn đề, thông hiểu vận đề, sáng tạo cách học cách ghi nhớ kiến thức để không còn cảm thấy khô khan và khó hiểu, khó nhớ. Khi các thế hệ học sinh của mình đã cảm nhận được điều đó, có nghĩa lịch sử đã trở về giá trị “ gốc” của nó là môn học đẻ làm người, tạo gốc rễ vững bền cho sự phát triển của đất nước trong hiện tại và tương lai. Khi ấy, người giáo viên sẽ tự hào vì mình dạy môn Lịch sử, còn học sinh sẽ cảm thấy “ xấu hổ” vì mình “ học chưa tốt” môn Lịch sử khi soi vào câu nói của Bác Hồ “Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt nam”. Có nhiều em muốn học để biết nhưng lại chia sẻ “sao em học mà mau quên” “dài quá cô ạ, khó quá,..”. Tức có nghĩa có tinh thần nhưng chưa có cách để học và ghi nhớ về nó. Như vậy yếu tố ở người giáo viên không chỉ dạy đúng, dạy hay mà còn phải định hướng cách học và cách ghi nhớ kiến thức cho học sinh cũng là điều quan trọng . Tóm lại, Lịch sử không phải là khô khan, nhàm chán mà phải thấy rằng Lịch sử là một môn học yêu thích và rễ học để soi và thực tại và hướng tới tương lai. Muốn vậy, người dạy phải có phương pháp truyền thụ cảm hứng, tạo cho học sinh niềm khát khao tìm hiểu, niềm đam mê thực sự chứ không bị gò bó hay ép buộc bởi bất cứ điều gì . Trong những năm học khi tôi mới ra trường thống kê về số lượng sinh yếu kém môn lịch sử là quá cao, mối khối lớp học khi tôi đảm nhiệm trước đây có tới 30 % yếu và thậm chí là trong đó có tới 10 % học sinh yếu môn Lịch sử phải thi lại. Nhưng trong những năm học gần đây nhất yếu, kém không còn, yếu đã hạn chế ví dụ năm học 2013 -2014 như sau: Năm Khối Sĩ Giỏi Khá TB Yế u Ké m số SL % SL % SL % SL % SL % 2014 -2015 2014 -2015 8A,8B Khối 9 65 03 147 08 4,6 5,4 18 40 27,2 27,2 43 98 66,7 66 01 02 1,5 1,4 0 0 0 0 II. 2. a. Thuận lợi, khó khăn : T h uậ n l ợ i : Trường THCS Phú Xuân có một đội ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch Sử luôn đủ và được đào tạo chuẩn về kiến thức, yêu nghề, luôn có trách nhiệm trong công việc, tất cả vì học sinh thân yêu. Trường luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước và chính quyền địa phương đầu tư về cơ sở vật chất, đồ dùng học tập phục vụ cho giảng dạy khá đầy đủ. Với sự đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, giáo viên và học sinh nhanh chóng thích ứng. Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 7 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS Khó khăn : Trường THCS Phú Xuân nằm trên địa bàn rộng, gồm nhiều thành phần dân tộc khác nhau, điều kiện kinh tế nhiều gia đình còn khó khăn, phong tục tập quán không tương đồng, trình độ dân trí chưa cao, phần lớn học sinh phải tham gia lao động phụ giúp gia đình. Phụ huynh chỉ chú ý vào kinh tế ít quan tâm đến việc học tập của các em, học sinh thì thụ động, lười biếng tiếp thu kiến thức, chậm không có tính sáng tạo trong học tập phó thác cho thầy cô và nhà trường. Phần nhiều phụ huynh và học sinh có tư tưởng sai lệch xem môn Lịch Sử là “môn phụ” , môn học thuộc lòng, nhiều sự kiện khó nhớ, khô khan nên ít được sự đầu tư. Ví dụ có phụ huynh hỏi tôi: Cô dạy môn gì ? Tôi trả lời: Cháu dạy môn Lịch sử. Họ chẳng nề hà nói liền: “ối dào ! con tôi học toán và anh văn sau này làm kiếm nhiều tiền”… II. 2. b . Thành công, hạn chế : Thành công : Với đề tài này tỷ lệ thành công rất cao vì các phương tiện và đồ dùng dạy học đã có sẵn chỉ cần sự phối hợp tích cực giữa giáo viên và học sinh trên lớp và ở nhà . Sự chuẩn bị của học sinh ở nhà như học bài, làm bài tập, soạn bài, vẽ sơ đồ tư duy giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của bài học. Với kiến thưc đã có, giáo viên sau tiết dạy, sau bài học giáo viên định hướng cho học sinh bằng sơ đồ hóa, bản đồ tư duy, đồ dùng trực quan. Hạn chế: Với những định hướng từ những kinh nghiệm của người giáo viên yêu cầu học sinh phải có tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo, có thời gian đầu tư, biết tổng hợp kiến thức. Nếu học sinh lười biếng, làm việc mang tính đối phó thì sẽ không có hiệu quả. II. 2. c. Mặt mạnh, mặt yếu: Mặt mạnh: Với kiến thức học được ở các bậc phổ thông và được qua đào tạo chính quy môi trường Đại học Sư phạm và qua thực tế giảng dạy, dự giờ thăm lớp rút kinh nghiệm đồng nghiệp, để có phương pháp gây sự tích cực, hứng thú để học sinh có tư tưởng tích cực khi nhìn nhận và học tập và lĩnh hội môn Lịch sử tốt hơn. Học sinh vừa soạn bài, Khi soạn bài các em đã cơ bản tìm hiểu được một lượng kiến thức cơ bản có sẵn, nắm được nội dung chính, trọng tâm. Ít tốn thời gian học bài, nắm rõ nội dung bài học ngay trên lớp, phát huy tích cực, hứng thú, chủ động cho học sinh khi học môn lịch sử. Và nắm vững kiến thức rõ ràng chính xác khoa học logíc. Mặt yếu: Để có kinh nghiệm yêu thích và học tập tốt môn lịch sử không phải đa số học sinh đều thực hiện được theo phương pháp học tập này. Đòi hỏi cần có thời gian, lòng đam mê tìm tòi, “ Học, học nữa, học mãi”. Một số học sinh có lối học tập theo cách thụ động tiếp thu kiến thức theo phương phương pháp cũ và một số học sinh vẫn xem nhẹ môn Lịch Sử, xem môn học này là “môn phụ”, còn lười biếng, ỷ lại,… II. 2. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: Với kinh nghiệm học tập này cần được sự đồng tình ủng hộ của đồng nghiệp, ban giám hiệu nhà trường và sự tích cực, say mê chủ động, của học sinh. Vì khi sử dụng phương pháp này thì tiến trình dạy và học nó có thể không theo khuôn khổ nhất định mà nó sẽ bám sát theo sự chủ động, tích cực của học sinh thông qua khai thác kiến thức của các kênh hình, kênh chữ, tư liệu liên quan từ sách giáo khoa, tài liều tham khảo hoặc học sinh vẽ, tự tìm,… Thông qua việc định hướng của giáo viên, học sinh hiểu đúng và làm theo tùy theo sự sáng tạo của các em, đây là yếu tố cần thiết và phần nhiều các em đều hứng thú và thích, bên cạnh lòng đam mê, chủ động, sáng tạo, còn cần phải có kế hoạch rõ ràng . Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 8 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS Hiện nay chất lượng dạy và học Lịch sử chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra . Đa số học sinh chưa yêu thích môn học. Tình trạng học sinh còn mơ hồ, liên miên giữa sự kiện này sen lẫn với sự kiện khác, nhớ nhầm sự kiện “ râu ông cắm cằm bà”. Vì nhiều lí do: lý do giáo viên dạy khô khan, lý do các em không có cách học đúng, lý do tâm lí xã hội, tư tưởng còn sai lệch,…Rất nhiều lý do để đưa đến vấn đề lo ngại cho thấy nhiều học sinh sao nhãng, điểm kém môn Lịch sử đã được đề cập rất nhiều trên thông tin đại chúng, Ví dụ một hội đồng thi chỉ có một học sinh thi môn Lịch sử; hay thực tế giảng dạy khi kiểm tra một số em vẫn còn điểm 1, điểm 2,… II. 2. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra: Để giải quyết các vấn đề trên chúng ta phải thông qua môi trường giáo dục sư phạm, tuyên truyền nhận thức cho cộng đồng xã hội, cho phụ huynh học sinh và ngay cho cả chính học sinh. Chúng ta cần giải quyết các câu hỏi học lịch sử để làm gì? Hay vì sao phải học môn lịch sử ? Học sinh và phụ huynh học sinh,… cần nhận thức được rằng môn lịch sử là khoa học tìm hiểu, dựng lại toàn cảnh của các sự kiên quá khứ của quốc gia, dân tộc,…, học lịch sử để hiểu biết sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, biết được cội nguồn tổ tiên. Tuy nhiên trong những năm qua xu thế chung của cả xã hội thường xem nhẹ môn học Lịch sử là môn học phụ, học thuộc lòng, khô khan khó học và cũng không cần thiết. Vì nhiều lý do: không thích học môn Lịch sử, “ngại” hay “sợ”, ra trường không xin được việc làm,…Nhưng theo bản thân tôi thấy hiện nay với xu thế toàn cầu hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ, nền kinh tế thị trường kéo theo sự thay đổi trong cách sống ở một số bộ phận người và gia đình họ chạy theo lợi nhuận đồng tiền, những dấu hiệu hiển thị trong cách sống, lối suy nghĩ và cách ứng xử, hành động, quay lưng với lịch sử, với giá trị tốt đẹp của truyền thống, văn hóa lai căng, xuống dốc. Điều đó đặt ra vấn đề chúng ta cùng suy ngẫm!? Vì sao lại như thế? Vì sao lại đặt các môn học lên “bàn cân” để nói môn chính và môn phụ, môn học này để tiến thân làm ra nhiều tiền, môn học kia là môn không cần thiết, môn phụ và là những môn không phải là phương tiện kiếm sống dễ dàng. Ngoài ra khi nhìn nhận đánh giá mặt tác động của xã hội, chúng ta cũng nên nhìn nhận từ thực tế, một số giáo viên chưa tạo được tiết học hứng thú và tích cực, khiến tiết học trở nên khô khan, cứng nhắc, khuôn mẫu, chưa phát huy được tinh thần chủ động học tập, tư duy, tìm tòi ở học sinh. Hơn nữa, nội dung sách giáo khoa lịch sử hiện nay ở bậc trung học cơ sở có bài còn dườm dà, khó hiểu, chưa cô đọng lắm,… Vậy nên, theo nghị quyết trung ương VIII của Đảng: Giáo dục phải đổi mới căn bản và toàn diện, tức phát triển con người cả về trí thức lẫn nhân cách. Nếu chúng ta không biết cách tuyên truyền, vận động và không tạo được hứng thú cho học sinh, cũng chính là nguyên nhân khiến học sinh chán học bỏ học hay làm thế nào để học tốt các môn tự nhiên “ môn chính” là được. Vì vậy, là người giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Lịch sử chúng ta cần quan tâm và cùng suy ngẫm, phải làm sao tạo cho học sinh có tư tưởng yêu thích môn lịch sử, các em luôn tích cực chủ động tìm hiểu lịch sử, giờ học luôn sôi nổi, tích cực, chủ động phát huy tính sáng tạo của học sinh, để từ đó sẽ học tốt hơn. Chính vì điều đó, tôi muốn đề cập đến đề tài này từ phía chủ quan của bản thân, từ tiếp thu bổ trợ góp ý của đồng nghiệp và từ phía khách quan tác động xã hội, cùng các thế hệ học sinh qua các khối lớp ở trường trung học cơ sở Phú Xuân. Mục đích phần nào tạo sự hứng thú giữa việc dạy của thầy và việc học của trò để giúp học sinh yêu thích và học tốt hơn môn Lịch sử giống như các môn học khác . II. 3. Giải pháp, biện pháp: II. 3. a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: Xuất phát từ vấn đề thực trạng trên, bản thân tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm Giúp học sinh tích cực, say mê, hứng thú, chủ động tìm tòi học tập môn Lịch Sử từ sự chuẩn bị bài giảng của giáo viên trên lớp cũng như là định hướng cho học sinh học tập ở nhà. Yêu thích rồi nhưng để học tốt môn Lịch sử là cả một quá trình, vì nó đòi hỏi lòng đam mê, sự kiên trì, cần cù, chăm chỉ, góp nhặt kiến thức qua thời gian. Trong quá trình giảng dạy của giáo viên và học tập của học sinh đã, đang và sẽ tìm ra những phương pháp phù hợp với đặc thù bộ Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 9 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS môn, phù hợp với khả năng bản thân. Song bên cạnh đó, tôi muốn quý bạ đồng nghiệp và các em học sinh tham khảo thêm một số kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy và học tập của cá nhân tôi và có sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp, cùng sự cộng tác ở một số học sinh khá giỏi ở các khóa học của trường trong quá trình dạy học. Tôi hy vọng giúp ích cho các em ngày càng yêu thích và có hiệu quả cao trong học tập môn Lịch sử. II. 3. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: Giáo viên phải là người luôn chủ động trong tiết dạy bài học lịch sử, định hướng cho học sinh cách học cách ghi nhớ kiến thức phù hợp với từng bài, từng chương, từng phần. Yêu cầu học sinh học soạn bài, chuẩn bị bài mới trước khi học bài học, vừa bám sát theo kiến thức bài học, vừa bám sát cách củng cố kiến thức của giáo viên ở cuối bài cùng kết hợp các phương pháp phù hợp để thích ứng với bản thân. Sau đây tôi xin giới thiệu một số bài học lịch sử của mỗi khối lớp minh họa cụ thể làm mẫu cho bài dạy và học trên lớp, đồng thời hướng cho học sinh cách ghi nhớ kiến thức dễ dàng, thông qua việc sử dụng đồ dùng trực quan: tranh ảnh, bản dồ, biểu đồ. Tư liệu lịch sử: Video. Công nghệ thông tin: trình chiếu,…. Các phần mềm: vẽ bản đồ tư duy. A. Thứ nhất chương trình Lịch sử lớp 6 có rất nhiều bài nhưng quy định có giới hạn nên tôi chọn BÀI 3. XÃ HỘI NGUYÊN THỦY I. MỤC TIÊU BÀI HỌC: 1. Kiến thức: HS nắm được . - Sự xuất hiện con người trên trái đất: thời điểm, động lực… - Sự khác nhau giữa người tối cổ và tinh khôn. - Vì sao xã hội nguyên thuỷ tan rã: Sản xuất phát triển, của cải dư thừa, sự xuất hiện giai cấp, nhà nước ra đời 2. Tư tưởng: Bước đầu hình thành cho học sinh ý thức đúng đắn về vai trò của lao động trong sự phát triển của con người và xã hội loài người. 3. Kỹ năng: Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng quan sát tranh ảnh, kĩ năng tư duy logic. II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH Giáo viên: Một số tranh ảnh, mẫu vật và bản đồ thế giới. Học sinh: Đọc trước bài 3 và sưu tầm tranh ảnh về xã hội nguyên thuỷ. III. TIẾN TRÌNH DẠY – HỌC: Để tạo sự hứng thú trong bài học này tôi đã sử dụng video về nguồn gốc loài người và một số tranh ảnh để tăng sự tò mò, khám phá và tính hiểu biết logic của học sinh. Cụ thể như sau: 1. Sự xuất hiện của con người trên trái đất. Quan sát video sau để nhận biết về nguồn gốc loài người: Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 10 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS VIDEO Giả thuyết về nguồn gốc loài người - Cách đây hàng chục triệu năm trên trái đất có loài vượn cổ sinh sống trong những khu rừng rậm. Trong quá trình tìm kiếm thức ăn, loài vượn này dần dần đã biết đi bằng hai chi sau, dùng hai chi trước để cầm nắm và sử dụng những hòn đá, cành cây,…làm công cụ. Đó là người tối cổ (người vượn) sớm nhất cách đây 3-4 triệu năm. Vượn cổ (cách đây khoảng 5 - 6 triệu năm) ao ờl Nh đ g ộn Người tối cổ (Người vượn) (3-4 triệu năm) Vư ợ n c ổ Là loài vượn có dáng hình người ( vượn nhân hình), sống cách đây khoảng 5- 6 triệu năm.Vượn nhân hình là kết quả tiến hóa từ động vật bậc cao. Người tối cổ trán thấp, bợt ra phía sau, mày nổi cao, xương hàm còn choài ra phía trước , trên người có một lớp lông bao phủ), nhưng hoàn toàn đi đứng bằng hai chân, đôi tay đã trở nên khéo léo (có thể cầm nắm và biết sử dụng những hòn đá, cành cây,…làm công cụ), có thể tích não phát triển từ 850-1100 cm3. - Dấu tích của người tối cổ được tìm thấy miền đông Châu Phi, Đông Nam Á (đảo gia va ở In – đô – nê –xi ) và gần Bắc Kinh (Trung Quốc) Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 11 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS BẮC KINH VIỆT NAM Ê-TI-Ô-PI-A GIA-VA Những nơi tìm thấy được dấu tích của Người tối cổ Một số tranh ảnh về người nguyên thủy: Cuộc sống của người nguyên thủy Các công cụ đá ghè đẽo thô sơ Săn ngựa rừng Chế tác công cụ đá Phát minh ra lửa Dùng lửa Đời sống của người tối cổ: Sống theo bầy gồm vài chục người.Sống chủ yếu trong các hang động, mái đá trong những túp lều làm bằng cành cây, lợp lá hoặc cỏ khô. Cuộc sống nhờ hái lượm hoa quả và săn bắt thú để ăn. Biết ghè đẽo đá làm công cụ, biết dùng lửa sưởi ấm,nướng thức ăn, xua đuổi thú dữ. Trải qua hàng triệu năm, người tối cổ dần dần trở thành người tinh khôn. Những bộ xương của người tinh khôn Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 12 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS có niên đại sớm nhất vào khoảng 4 vạn năm trước đây, đã tìm được hầu khắp các châu lục. 2. Sự khác nhau giữa người tối cổ và người tinh khôn : Ngườ Người tinh khôn Ngườ Người tối cổ Người tinh khôn: Đặc điểm: Có cấu tạo cơ thể giống người ngày nay, thể tích sọ não lớn (1450 cm3), tư duy phát triển. Động lực của quá trình chuyển biến từ vượn thành người đó chính là lao động. => Vai trò của lao đông: Tạo ra con người và xã hội loài người; Sự tiến hóa của bản thân con người từ vượn cổ đến người tối cổ (người vượn) rồi đến người tinh khôn. SƠ ĐỒ TIẾN HOÁ CỦA LOÀI NGƯỜI Vượn người Đăc điểm Con người Công cụ Tổ chức xã hội Người tối cổ Người tối cổ Đi đứng bằng hai chân, đôi tay biết cầm nắm, sử dụng c ông c ụ Đá ghè đẽo thô sơ, cành cây Sống theo bầy, đàn, chủ yếu hái lượm và săn bắt Người tinh khôn Người tinh khôn Có cấu tạo cơ thể giống người hiện nay, thể tích hộp sọ lớn, tư duy phát triển Đá được cải tiến, sừng, tre, gỗ,… Sống theo thị tộc, biết trồng trọt, chăn nuôi, làm gốm, dệt vải, làm đồ trang sức. 3. Vì sao xã hội nguyên thủy tan rã. Khoảng 4000 năm TCN, con người phát hiện ra kim loại và dùng làm công cụ lao động. Nhờ công cụ bằng kim loại, con người có thể khai phá đất hoang, tăng diện tích trồng trọt… sản phẩm làm ra nhiều, xuất hiện của cải dư thừa. Một số người trở lên giàu có…xã hội phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo => Xã hội nguyên thủy dần dần tan rã. Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 13 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS 1. Đồ đựng bằng gốm (khoảng 3000 năm TCN) 2. Công cụ, đồ dùng và đồ trang sức bằng đồng. Chế tạo công cụ kim loại Công cụ bằng đồng Để kiến thức bài học được khắc sâu, học sinh có thể hệ thống bằng bản đồ tư duy sau: B. Thứ hai, trong chương trình Lịch sử lớp 7, tôi chọn đưa ra cách học và Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 14 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS ghi nhớ kiến thức tạo sự hứng thú giữa giáo viên và học sinh trên lớp và ở nhà bài : B ÀI 1 4 . BA LẦN KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN XL MÔNG NGUYÊN THẾ KỈ XIII (Tiết 1) I. CUỘC KHÁNG CHIẾN LẦN THỨ NHẤT CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC MÔNG CỔ (1258) I.MỤC TIÊU BÀI HỌC: 1. Kiến thức: Âm mưu xâm lược của quân Mông Cổ. Chủ trương, chính sách và những việc làm của vua quan nhà Trần để đối phó với quân Mông Cổ. 2. Tư tưởng: Giáo dục học sinh ý chí kiến cường, bất khuất, mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến.Giáo dục lòng tự hào dân tộc. 3. Kỹ năng: Học diến biến các trận đánh bằng cách chỉ lượt đồ. Phân tích , đánh giá, nhận xét các sự kiện lịch sử. II.CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH Giáo viên: Lược đồ diễn biến chống quân xâm lược Mông Cổ, tranh ảnh liên quan. Học sinh: Sưu tầm các tài liệu, tranh ảnh liên quan: III.TIẾN TRÌNH DẠY - HỌC: 1. Âm mưu xâm lược Đại Việt của Mông – Nguyên. Giáo viên giới thiệu vài nét về Mông – Nguyên, qua đó giúp học sinh biết được sức mạnh quân sự của quân Mông – Nguyên và âm mưu quyết tâm xâm lược Đại Việt của chúng: Liên Bang Nga Thuỵ Điển Canađa Pháp Ca-dăc-xtan MÔNG CỔ Tây Ban Nha Hoa Kỳ Trung Quốc Ả rập Ấn độ Việt Nam Braxin Nam Phi ÔxTrâylia Bản đồ thế giới và Mông cổ “- Quân Mông Cổ lớn lên trên yên ngựa, tự luyện tập chiến đấu, từ mùa xuân đến mùa đông, ngày ngày săn bắn, đó là cách sống của họ. - Về đánh trận, họ lợi ở dã chiến, không thấy lợi thì không tiến quân. - Đội quân lúc ẩn lúc hiện, đến thì như trời rơi xuống, đi thì nhanh như chớp giật. Họ mà thắng thì đuổi theo địch chém giết không để trốn thoát, họ mà thua thì chạy rất nhanh, đuổi theo không kịp”. (Theo lời sử học nhà Tống) Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 15 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS Năm 1206: Mông Cổ có Diệ Diện tí ch: ch 35 triệu km 2( 1,5 triệu km 2) Dâ aâ n s ố: gần 50% dâ n số thế giới “ Không có một dòng suối, một con sông nào không tràn đầy nước mắt chúng ta, không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào không bị quân Mông Cổ giày xéo” Nhà thơ Ác- mê –ni ( 1210- 1290) => Vua Mông Cổ cho quân xâm lược Đại Việt để đánh lên phía Nam Trung Quốc thực hiện kế hoạch gọng kìm để tiêu diệt Nam Tống. 2. Sự chuẩn bị kháng chiến của nhà Trần. Nhà Trần ban lệnh : Cả nước sắm sửa vũ khí. Thành lập các đội dân binh Thái độ kiên quết, chủ trương đánh giặc đúng đắn Ngày đêm luyện tập,… 3. Các chiến thắng tiêu biểu: Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 16 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS Quân Mông Cổ rút lui LƯỢC ĐỒ KHÁNG CHIẾN LẦN THỨ NHẤT CHỐNG QUÂN MÔNG CỔ NĂM 1258. - Tháng 1-1258,3 vạn quân Mông Cổ do Ngột Lương hợp Thai chỉ huy kéo vào nước ta, theo đường sông Thao tiến vào Bạch hạc, tiến xuống Bình Lệ Nguyên, bị quân ta do vua Trần Thái Tông chỉ huy chặn đánh - Để bảo toàn lực lượng, nhà Trần chủ trương cho quân rút khỏi Thăng Long, thực hiện kế sách “Vườn không nhà trống”. - Giặc vào Thăng Long điên cuồng tàn phá, gặp nhiều khó khăn, lực lượngbị tiêu hao dần. - Nhà Trần đã mở cuộc phản công lớn ở Đông Bộ Đầu. - Ngày 29. 1. 1258 quân Mông Cổ đã rút khỏi Thăng Long về nước. Cuộc kháng chiến lần thứ nhất kết thúc thắng lợi. Bến Đông Bộ Đầu (gần cầu Long Biên, Hà Nội ngày nay) Tạo sự hòa đồng, hứng khởi giúp nhau cùng học tập tổ chức học sinh thảo luận theo nhóm theo các câu hỏi sau: Thảo luận: Nhóm 1: ? Vì sao quân Mông Cổ mạnh mà vẫn bị quân ta đánh bại? Nhóm 2: ? Nêu những biểu hiện cụ thể biểu hiện tinh thần quyết tâm đánh giặc của quân dân ta trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông - Nguyên Nhóm 3: ?Từ cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên , em rút ra bài học kinh nghiệm gì từ cách đánh giặc của nhà Trần Kết quả: Nhóm 1: Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 17 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS Nhóm 2 : Nhóm 3 : Để vui học có ích, cuối cùng tôi đã tổ chức cho học sinh khám phá các các ô chữ theo các câu hỏi sau: 1.Để tiêu diệt Nam Tống, Vua Mông Cổ quyết định xâm lược….? 2. Tướng giặc chỉ huy quân xâm lược nước ta năm 1258 là….? 3. Nhân dân Thăng Long đã thực hiện chủ trương gì để đánh giặc? 4. Quân Mông Cổ tiến vào nước ta theo đường nào? 5. Vua Trần đã có hành động gì với sứ giả Mông Cổ? 6. Đầu năm 1258, nước ta phải chống lại quân xâm lược gì? 7. Quân dân nhà Trần đã phản công đánh bại quân Mông Cổ ở đâu? 8.Câu nói “Đầu thần chưa rơi xuống đất,…” là câu nói của ai? 9. Quân Mông Cổ trên đường rút chạy bị quân ta chặn đánh ở đâu? * tìm từ chìa khóa: ? Ai là người đã chỉ huy cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống Mông Nguyên? 1 2 3 4 5 6 7 8 9 G M Ñ AÏ I V I N G OÄ T L Ö Ô EÄ N T G H Ô P T H A I V Ö ÔØ N K H OÂ N G N H AØ T R OÁ N G S OÂ N A M G T H A O B AÉ T G I M OÂ Ñ N OÂ G N C G OÅ B OÄ Ñ R AÀ N T H UÛ Ñ OÄ Q U Y H OÙ A A I T G N R T T T R AÀ AÀ NÂ T H AÙ AÙ I T OÂ N G OÂ N T AÀ U AÀ H Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 18 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS C. Tương tự như những bài trên, tôi đưa ra ở lịch sử lớp 8 cách học ở bài s a u: B ÀI 2 4 . CUỘC KHÁNG CHIẾN TỪ NĂM 1858 ĐẾN NĂM 1873 ( tiếp theo) II.CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP TỪ 1858-1873. I.MỤC TIÊU BÀI HỌC: 1. Kiến thức: - Thực dân Pháp nổ súng xâm lược, triều đình bạc nhược chống trả yếu ớt và kí với Pháp Hiệp ước Nhâm Tuất nhượng bộ cho Pháp và đang tâm cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kì cho Pháp cai quản. - Nhân dân đứng lên chống Pháp ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược nước ta ở Nam Kì, nhân dân là thế lực hiệu quả nhất nhưng triều đình vì quyền lợi của giai cấp, dòng họ lại buộc họ ngừng kháng chiến. Nhưng nhân dân vẫn đứng dậy. 2. Tư tưởng: - Thấy rõ sự quyết tâm kháng chiến của nhân dân ta. 3. Kĩ năng : - Giáo dục tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng. Sử dụng bản đồ, nhận xét, phân tích. II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH: Giáo viên: Bản đồ hành chính Việt Nam, vũ khí của nhà Nguyễn và của thực dân Pháp Học sinh: Chuẩn bị tranh ảnh, tư liệu liên quan. III. TIẾN TRÌNH DẠY - HỌC: 1. Kháng chiến ở Đà Nẵng và ba tỉnh miền đông Nam Kì. - Tại Đà Nẵng: Nhiều toán nghĩa binh nổi lên phối hợp với quân triều đình đánh giặc. Đà Nẵng - Tại Gia Định và 3 tỉnh miền Đông Nam kì: Phong trào kháng chiến của nhân dân càng sôi nổi - Ngày 10/2/1861, nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu ét-Pê-răng trên sông Vàm Cỏ Đông Gia Định Nguyễn Trung Trực Gò công - Khởi nghĩa của Trương Định làm cho địch thất điên bát đảo. Lược đồ chiến sự từ 1858-1873 Trương Định là người thông minh, cương nghị, thông thạo binh thư và giỏi võ nghệ. Năm 1859, giặc Pháp đánh vào Gia Định, Trương Định đưa đội quân gồm những người nông dân đồn điền ra mặt trận. Nhiều trận, quân địch bị thua, nhân dân mến phục, tin cậy và theo ông rất đông. Trương Định đã xây dựng đại bản doanh ở Gò Công. Ông được nhiều sĩ phu yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị đến giúp mưu kế. Hồ Huân Nghiệp, Võ Duy Dương… giúp tổ chức chỉ huy binh lực. Năm 1862, triều đình Huế đầu hàng Pháp và ra lệnh bãi binh đồng thời cử Phan Thanh Giản đến bắt ông giải binh và thăng chức điều ông đi nơi khác. Nhưng nhân dân và nghĩa binh đã giữ ông lại và phong cho ông làm “Bình Tây đại nguyên soái”. Trương Đị Định nhậ nhận phong soá soái 2. Kháng chiến lan rộng ra ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 19 Sáng kiến kinh nghiệm : Tạo sự hứng thú trong dạy và học Lịch sử ở trường THCS - Triều đình Huế nhu nhược hèn nhát, từ ngày 20 đến ngày 27/6/1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kì. An Giang Hà Tiên Vĩnh Long Lượ Lược đồ đồ các cuộ cuộc khá kháng chiế chiến chố chống Phá Pháp ở Nam Kì Kì (1859(1859-1875) - Phong trào chống Pháp diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú: + Bất hợp tác vớí giặc, một bộ phạn kiên quyết đấu tranh vũ trang, nhiều trung tâm kháng chiến ra đời: Đồng tháp Mười, Tây Ninh,… Lược đồ các trung tâm kháng chiến ở Nam Kì Căn cứ Tây Ninh Lãnh đạo Trương Quyền Căn cứ Đồng Tháp Mười Lãnh đạo Võ Duy Dương Vùng Tân An, Mỹ Tho- Lãnh đạo Nguyễn Hữu Huân Vùng Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc Lãnh đạo Nguyễn Trung Trực Căn cứ U Minh- Lãnh đạo Đỗ Thừa Long, Đỗ Thừa Tự Vùng Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh Lãnh đạo Phan Tôn, Phan Liêm + Một bộ phận dùng văn thơ lên án thực dân Pháp và tay sai,cổ vũ lòng yêu nước: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị,… Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. (Nguyễn Đình Chiểu) Giáo viên thực hiện: Trịnh Thị Thắm – Trường THCS Phú Xuân 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng