Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học Skkn ứng dụng cntt trong giảng dạy phân môn thường thức mĩ thuật ở tiểu học...

Tài liệu Skkn ứng dụng cntt trong giảng dạy phân môn thường thức mĩ thuật ở tiểu học

.DOC
29
2213
63

Mô tả:

PHÒNG GIÁO DỤC& ĐÀO TẠO HUYỆN TIÊN YÊN TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN TIÊN YÊN ----------------***--------------- MÔ ÔT SỐ KINH NGHIÊÔM ỨNG DỤNG CNTT TRONG GIẢNG DẠY PHÂN MÔN THƯỜNG THỨC MĨ THUẬT Ở TIỂU HỌC Giáo viên Giảng dạy : Lê Quang Hà : Mĩ Thuật Năm học 2008- 2009 Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 0 MỤC LỤC Trang CÁC CHỮ VIẾT TẮT GV HS CNTT PTDH ĐDDH Giáo viên Học sinh Công nghệ thông tin Phương tiện dạy học Đồ dùng dạy học Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 1 PPDH TTMT SGK SGV Phương pháp dạy học Thường thức mĩ thuật Sách giáo khoa Sách giáo viên A: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1) Cơ sở lý luận: Dạy học mỹ thuật trong trường tiểu học mục tiêu chung cũng đều hướng tới cái đẹp, cái giá trị thẩm mĩ. Thông qua môn Mĩ thuật người học có thể cảm nhận được cái đẹp và biết cách tạo ra cái đẹp. Thẩm mĩ hay cái đẹp nó ẩn chứa trong tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống như: Ăn : Cần đẹp ! Mặc : Cần đẹp ! Ở : Cũng cần đẹp và mọi thứ cần thiết cho con người từ nhỏ đến lớn cũng cần đẹp. Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 2 Con người của thời đại mới là con người phải có đủ: Tri thức, đạo đức, sức khỏe và thẩm mĩ, là một con người thì không thể khô khan, bàng quang trước cái đẹp muôn màu của cuộc sống. Dạy Mĩ thuật trong trường tiểu học không phải là đào tạo HS trở thành họa sĩ mà là giúp các em biết cách cảm nhận cái đẹp của cuộc sống, của những tác phẩm nghệ thuật và biết cách tự tạo ra cái đẹp cho bản thân mình, cho cuộc sống. 2) Cơ sở thực tiễn. Việc đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng phần mềm vào giảng dạy đã được các tiên tiến trên thế giới đã áp dụng từ rất lâu. Xong Việt Nam cũng đã áp dụng ở những năm gần đây, nhưng mới chỉ dừng lại ở các trường Đại học, cấp III và một số trường cấp I- Cấp II ở thành phố và bước đầu đã đặt chân về tới nông thôn. Lý giải về vấn đề trên, các chuyên gia của Hiệp hội Nghe nhìn Quốc tế cho biết: Nguyên nhân chủ yếu là do cả giáo viên và học sinh không tận dụng được tối đa hiệu quả chức năng thị giác và thính giác. Họ đã nghiên cứu tại nhiều lớp học ở các nước Châu Âu và cho biết: nếu chỉ nghe, học sinh chỉ tiếp nhận và lưu giữ được 10 – 13% nội dung thông tin; từ 20 – 40% nếu chỉ nhìn, nhưng sẽ đạt tới 60 – 80% nếu kết hợp cả hai chức năng trên. Ngoài ra nếu các em biết kết hợp giữa nghe, nhìn và thảo luận, trao đổi với giáo viên thì hiệu quả học tập sẽ cao hơn rất nhiều. Vậy làm thế nào để giúp cho học sinh có thể hiểu và tiếp thu bài giảng một cách có hiệu quả nhất?. Giải pháp tốt nhất hiện nay là phải đưa các thiết bị máy tính, các phần mềm ứng dụng, trình chiếu để áp dụng và hỗ trợ vào bài giảng thực tế, với sự hỗ trợ của các thiết bị phần mềm, máy tính, giáo viên dễ dàng làm cho bài giảng chở nên sinh động, thú vị bằng việc đưa vào đó những âm thanh, hình ảnh, màu sắc … như ý muốn. Học sinh có thể tiếp thu bài giảng một cách hết sức trực quan, sinh động. I.2. Mục đích nghiên cứu: Môn Mĩ thuật trong trường tiểu học có 5 phân môn là: Phân môn vẽ tranh, phân môn vẽ trang trí, phân môn vẽ theo mẫu, phân môn tập nặn tạo dáng và phân môn TTMT. Ngoài phân môn TTMT giúp HS có thể “thuởng thức”, “cảm nhận” cái hay cái đẹp của các tác phẩm nghệ thuật thì 4 phân môn còn lại chủ yếu giúp các em Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 3 lĩnh hội kiến thức mĩ thuật cơ bản thông qua rèn luyện kĩ năng thực hành. Chính vì vậy mà với Phân môn TTMT có một số GV rất “ngại” khi dạy phân môn này vì không biết phải nói gì, phân tích gì, dạy gì để hết 35 phút của tiết học. Truyền đạt kiến thức như thế nào tới HS để vẫn đảm bảo tính vừa sức mà vẫn đạt mục tiêu đề ra của bài học. Vì những lý do đó tôi đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu. I.3: Thời gian - địa điểm: I.3.1: Thời gian: Năm học 2008 – 2009 I.3.2: Địa điểm: Trường tiểu học thị trấn Tiên Yên I.3.3: Phạm vi đề tài: phân môn “ TTMT “ I.3.1 Giới hạn đối tượng nghiên cứu: Ứng dụng công nghệ thông tin vào phân môn “ Thường thức mĩ thuật “ tại trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên. I.3.3.2: Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Học sinh trường tiểu học Thị Trấn từ lớp 1 đến lớp 5. II. NỘI DUNG: II.1 Chương 1: Ứng dụng công nghệ thông tin vào phân môn “ Thường thức mĩ thuật “ tại trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên. II.1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. Trong những năm gần đây về nhu cầu đòi hỏi về lượng kiến thức của HS rất lớn, chính vì thế trong giáo dục cần có sự đổi mới về phương pháp dạy - học. Đổi mới như thế nào, đổi mới ra làm sao? Đây mới là vấn đề mấu chốt. Áp dụng CNTT vào giảng dạy các môn học trong bâ âc tiểu học nói chung, vào môn Mĩ thuâ ât nói riêng, đă âc biê ât trong phân môn " Thường thức mĩ thuâ ât " là mô ât chủ đề rất mới. Suất phát từ thực tế trong giảng dạy tôi đã mạnh dạn đưa ra mô ât số kinh nghiê âm " Ứng dụng công nghê â thông tin vào phân môn " Thường thức mĩ thuâ ât ". II.1.2 Cơ sở lí luận Sự phát triển của khoa học kĩ thuật hiện đại đòi hỏi một số đổi mới cao độ về phương pháp dạy và học, để nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin, đồng thời xây Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 4 dựng những con người sáng tạo làm chủ khoa học kĩ thuật, đây cũng là đòi hỏi có tính chiến lược của xã hội trong nhiệm vụ đào tạo những con người mới, những người vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực chuyên môn... Hiện nay công nghệ khoa học kĩ thuật không ngừng phát triển khiến cho giáo dục bắt buộc phải đổi mới chính mình và còn phải tiến xa hơn nữa cho phù hợp với sự phát triển của đất nước của nhân loại. Vì vậy giáo dục giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển, là nền tảng vững chắc cho sự đi lên của một đất nước. II.2: Chương 2: Nội dung vấn đề nghiên cứu II.2.1 Nhiệm vụ nghiên cứu: Phương pháp dạy học “Truyền thống” chưa thể đáp ứng được những đòi hỏi nặng nề và cấp bách nói trên. Với những cố gắng cao nhất của nó phương pháp “Truyền thống” chỉ có thể làm được nhiệm vụ chủ yếu là truyền thụ kiến thức và kiểm tra sự tiếp thu theo con đường tái hiện, học sinh hoàn toàn thụ động. Ngay cả bài giảng chú ý kích thích trí tuệ của học sinh cũng vẫn nằm trong khuôn khổ của lối học cũ. Giáo viên khơi gợi tư duy học sinh cũng chỉ nhằm mục đích truyền thụ được tốt hơn khối lượng kiến thức cần truyền thụ, và việc tìm ra phương pháp dạy học mới phù hợp với lứa tuổi, với tâm sinh lý của học sinh và áp dụng trong bài giảng luôn được những người thầy, cô rất quan tâm. Vậy làm sao để HS hứng thú với tiết học TTMT? Làm sao để HS không cảm thấy tiết học này khô khan và nhàm chán? Đó chính là sự chuẩn bị, nghiên cứu chu đáo của GV, là sự vận dụng linh hoạt các PPDH là sự sử dụng PTDH một cách hợp lí và hiệu quả. Một trong những PTDH có thể phát huy được hiệu quả trong giảng dạy phân môn TTMT chính là sử dụng CNTT thông qua những Bản trình diễn điện tử hay còn gọi là “Giáo án điện tử”. +/ Nhiệm vụ về lý luận Môn học mĩ thuật là môn học của thị giác, HS cảm nhận cái đẹp về hình thể và màu sắc thông qua con mắt của mình. Chính vì vậy với CNTT với các phần mềm đa dạng có thể giúp cho người GV phóng to được những hình ảnh trong bài. Phân tích, nhận xét được từng hình ảnh, chi tiết trong tác phẩm qua đó nêu bật được chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm, thu hút lôi cuốn HS vào tiết học. Ngoài ra với nhiều tính Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 5 năng đa dạng mà người GV có thể vận dụng linh hoạt vào từng nội dung bài cụ thể để đạt hiệu quả tốt nhất cho tiết dạy của mình. +/ Nhiệm vụ về thực tiễn Môn học mĩ thuật lấy giáo dục thẩm mĩ làm mục tiêu, với những bài TTMT học sinh sẽ phải cảm nhận các tác phẩm nghệ thuật một cách dần dần và lâu dài. Vì với trình độ hiểu biết của các em thì chưa thể cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp của một tác phẩm một điều mà ngay cả còn khó đối với cả người lớn. Vì vậy, giáo dục thẩm mĩ cũng phải dần dần, HS phải cảm nhận từ cái đơn giản nhất như hình ảnh, màu sắc đến những cái sâu sắc hơn như bố cục, chủ đề, ý tưởng...do đó gợi cảm hứng ngay từ lúc đầu của bài học rất quan trọng nó quyết định sự thành công của cả giờ học, vì mĩ thuật là môn học mang tính cảm xúc nhiều hơn là kĩ thuật. Do vậy dựa vào sự hỗ trợ của CNTT mà GV có thể xây dựng những hoạt động khơi gợi cảm hứng cho HS bằng những bức tranh, đoạn phim hay bản nhạc... II.2.2 Các nội dung cụ thể trong đề tài Nội dung 1: Mục tiêu của phân môn “ TTMT “ Với đặc trưng riêng biệt của từng phân môn nhưng hiệu quả chung cũng là đều hướng tới cái đẹp. Phân môn vẽ trang trí cung cấp cho HS kiến thức về cách sắp xếp các họa tiết, và nguyên tắc vẽ màu. Qua đó HS hiểu được vẻ đẹp của các họa tiết, vẻ đẹp của sự cân đối, sự đa dạng của màu sắc và hiểu được ý nghĩa của trang trí trong cuộc sống. Phân môn vẽ theo mẫu tuy không đòi hỏi bắt buộc HS phải vẽ đúng hoàn toàn theo mẫu về hình dáng, tỉ lệ, màu sắc nhưng qua đó cũng rèn cho HS kĩ năng quan sát và làm việc một cách khoa học: Từ tổng thể tới chi tiết, từ đơn giản tới phức tạp. Ngoài ra còn rèn cho HS thấy được cái đẹp của sự sắp xếp bố cục cân đối hợp lí trong khuôn khổ giấy. Phân môn vẽ tranh với đề tài phong phú đa dạng gây cho HS nhiều hứng thú. Đây là phân môn giúp HS có thể diễn tả được một nội dung, chủ đề thông qua cách sắp xếp các hình ảnh chính, phụ và cách sử dụng màu sắc làm nổi bật chủ đề của tranh. Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 6 Phân môn tập nặn tạo dáng rèn luyện cho HS khả năng làm việc với hình khối, phát huy tính sáng tạo của HS về cách nghĩ cách nhìn để biến những vật dụng đơn giản như vỏ hộp, vải thành những món đồ chơi mang tính thẩm mĩ phù hợp với lứa tuổi của HS. Ngoài ra môn nặn còn giúp các em rèn luyện khả năng tạo hình qua đó các em thấy được vẻ đẹp của các tác phẩm điêu khắc. Phân môn TTMT là phân môn mang tổng hòa kiến thức của các phân môn khác trong môn Mĩ thuật. Dựa vào những kiến thức đã được học ở các phân môn như: Vẽ tranh, vẽ trang trí, vẽ theo mẫu, tập nặn tạo dáng mà HS có thể nhận xét sơ lược về giá trị cũng như vẻ đẹp của một tác phẩm mĩ thuật. TTMT là phân môn duy nhất HS không phải làm bài tập thực hành mà đây là phân môn HS được tìm hiểu, nhận xét và thưởng thức vẻ đẹp của các tác phẩm mĩ thuật của thiếu nhi, của họa sĩ và của dân tộc. Qua đó HS biết yêu quý, trân trọng nền mĩ thuật của dân tộc và thế giới. Ngoài ra dựa trên những bài xem tranh, tìm hiểu nền mĩ thuật dân tộc HS có thể học tập được những cái hay, cái đẹp, cách sắp xếp hình ảnh, cách vẽ màu... củng cố vào kiến thức về mĩ thuật cho HS khi làm bài tập thực hành hay khi nhận xét về một tác phẩm nghệ thuật. TTMT là thưởng thức những kiến thức mĩ thuật thông thường, đòi hỏi HS biết nhận xét, cảm nhận cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật thông qua đường nét, màu sắc, hình ảnh, hình khối, phong cách thể hiện... tùy mức độ hiểu biết của từng khối lớp mà yêu cầu đặt ra từ dễ đến khó. Với lớp 1 chủ yếu là nhận xét về hình ảnh và màu sắc. Với lớp 5 đòi hỏi các em phải nêu được ý nghĩa của tác phẩm và nêu được cảm nhận của mình đối với tác phẩm nghệ thuật. Chính vì vậy, đòi hỏi GV cũng như HS phải có tổng hòa kiến thức về mĩ thuật thì mới thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật. Nội dung 2: Nghiên cứu nội dung chương trình để áp dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Môn TTMT là bài tìm hiểu về các tác phẩm nghệ thuật nên cần phải có những tác phẩm nghệ thuật để HS có thể quan sát. Các tác phẩm tuy đã có ở trong SKG nhưng GV nên in ra ở khổ lớn cho cả lớp có thể quan sát được để tập trung sự chú ý của tất cả HS. Điều này rất khó thực hiện vì tranh in khổ lớn rất ít, còn nếu đi in phóng to thì kinh phí cũng không nhỏ. Hay khi muốn cho HS thấy được vẻ đẹp Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 7 của những chi tiết trong tác phẩm cũng khó có thể phóng to được chi tiết đó. Mặt khác với những tác phẩm GV muốn giới thiệu thêm cho HS thì cũng rất khó khăn vì tranh thường rất nhỏ nên rất khó quan sát do vậy không thấy được cái đẹp của tác phẩm. Vì vâ ây để dạy một tiết TTMT thành công thì đòi hỏi người GV phải chuẩn bị rất nhiều đồ dùng, trực quan như tài liệu sưu tầm, tranh, ảnh, đồ vật...Nếu đồ dùng chuẩn bị không đẹp sẽ làm mất hứng thú của HS dẫn đến tiết học không hiệu quả. Với lớp 4 và 5 các em có thêm SGK và được cung cấp lượng kiến thức nhất định trong bài nên cũng giúp các em trả lời và tiếp thu bài tốt hơn. Còn với lớp 1,2,3 thì các em chỉ có Vở tập vẽ với một vài bức tranh, ảnh vậy sẽ rất khó khi GV tổ chức các hoạt động hết cho hết 35 phút mà vẫn mang lại hiệu quả cho bài học. Do vậy đòi hỏi GV phải sưu tầm thêm tranh, ảnh liên quan tới bài học để HS cùng tìm hiểu. Ngoài ra nếu lượng kiến thức cung cấp cho HS không đủ thì HS sẽ không hiểu được bài, không thấy được vẻ đẹp của tác phẩm, nhưng nếu GV cung cấp quá nhiều lượng kiến thức cho HS sẽ khiến cho các em mơ hồ và đôi khi không hiểu được kiến thức GV vừa cung cấp. Vậy thế nào là đủ và vừa đảm bảo tính vừa sức thì đỏi hỏi người GV phải tổ chức các hoạt động hợp lí và phát huy hết hiệu quả của các phương tiện dạy học khi dạy phân môn này. Nội dung 3: Nâng cao giờ dạy trong phân môn” TTMT “ Như ta đã biết PPDH chính là cách thức, con đường truyền tải nội dung kiến thức để đạt mục tiêu bài học. Vậy PPDH có đạt hiệu quả hay không đó chính là sự vận dụng linh hoạt, phụ thuộc vào phương tiện điều kiện và hình thức triển khai quá trình dạy học. Trong hoạt động dạy - học khi tái hiện một đối tượng đến HS thì không phải lúc nào đối tượng đó cũng hiện ra trực tiếp trên lớp học. Trong trường hợp đó PTDH tạo khả năng tái hiện chúng một cách gián tiếp thông qua hình vẽ, tranh ảnh, mô hình, sơ đồ...nhờ chúng tạo nên trong ý thức của HS những hình ảnh trực quan sinh động của đối tượng cần tìm hiểu. PTDH đóng vai trò như là nguồn thông tin và giải phóng giáo viên khỏi nhiều công việc có tính chất thuần túy kĩ thuật trong tiết học, chẳng hạn như thông báo Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 8 thông tin, vẽ hình, kẻ bảng... để GV có nhiều thời gian hơn cho công tác sáng tạo trong hoạt động với học sinh. PTDH tạo khả năng vạch ra một cách sâu sắc hơn, trình bày rõ ràng, dễ hiểu, đơn giản hơn tài liệu học tập, gây hứng thú về học tập cho HS, tạo điều kiện hình thành cho HS động cơ học tập đúng đắn. Qua đó ta nhận thấy ngoài vai trò chủ đạo của người GV thì PTDH đóng một vai trò không nhỏ trong quá trình dạy học. Nó là phương tiện hỗ trợ truyền tải kiến thức tới người học một cách nhanh nhất, sinh động nhất và hiệu quả nhất. PTDH hết sức đa dạng, nó phụ thuộc vào trình độ phát triển khoa học. Trong nhà trường trước đây thường trang bị những phương tiện ít có tính kĩ thuật nên gọi là đồ dùng dạy học rõ hơn nữa là đồ dùng dạy học trực quan. Thực ra những phương tiện kĩ thuật hiện đại cũng có tính trực quan, cũng là đồ dùng dạy học. Vì vậy cách phân loại cũng chỉ có tính quy ước mà thôi. Dù là PTDH hiện đại hay đơn giản thì cũng phải tùy thuộc vào nội dung kiến thức, đặc trưng của phân môn và cách thức tổ chức các hoạt động dạy và học. Tuy nhiên trong các PTDH thì phưong tiện kĩ thuật nghe - nhìn hiện đại luôn tỏ ra chiếm ưu thế hơn cả. Vì đây là những phương tiện kĩ thuật hiện đại nó có khả năng mô phỏng cụ thể và linh hoạt của những hiện tượng, sự vật, nó có thể hình tượng hóa những kiến thức mà GV muốn truyền tải đến học sinh một cách sinh động và dễ hiểu nhất. PTDH này vừa giúp HS có thể quan sát và vừa nghe được trực tiếp thông tin cần truyền đạt tạo được hiệu quả cao trong giờ học. II.3.1 Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu Nhận thấy được những ứng dụng to lớn của CNTT là có thể hỗ trợ truyền tải hình ảnh, thông tin của sự vật một cách toàn diện nhất, hay cùng với những phần mềm, chương trình dạy học đã góp một phần không nhỏ giúp người GV có thể truyền đạt kiến thức tới HS nhanh hơn, chính xác và hệ thống hơn, tạo điều kiện cho HS vừa tiếp thu kiến thức vừa tiếp cận với công nghệ kĩ thuật hiện đại. Ngành Giáo dục đã khuyến kích GV ứng dụng CNTT vào giảng dạy như một PTDH tối tân giúp truyền tải kiến thức đến HS một cách toàn diện và giảm bớt sự vất vả của giáo viên khi trình bày những kiến thức mang tính hình tượng cao. Trong rất nhiều phần mềm hỗ trợ dạy học thì phần mềm được sử dụng thông dụng nhất trong dạy học là phần mềm trình chiếu PowerPoint của Microsoft. Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 9 Một là, phần mềm này được tích hợp sẵn trong Microsoft Office thường cài sẵn trong các máy vi tính nên không đòi hỏi phải cài đặt phức tạp. Hai là, để sử dụng phần mềm này chỉ cần đòi hỏi người GV có kiến thức tin học cơ bản. Các hiệu ứng đã có sẵn người giáo viên chỉ phải tích hợp các hiệu ứng đó vào bài giảng của mình chứ không cần người GV phải có ngôn ngữ lập trình phức tạp. Do vậy phần mềm này rất dễ sử dụng và phù hợp với giảng dạy trong nhà trường. Tuy là một PTDH kĩ thuật hiện đại xong không phải với tiết học nào ứng dụng cũng thành công. Nhiều tiết học sử dụng công cụ trình chiếu PowerPoint rất hấp dẫn, nhưng hiệu quả sư phạm không cao, học sinh chỉ theo dõi các hình ảnh chiếu trên màn hình, chưa kết hợp ghi chép vở hay không tập trung vào tiếp thu bài, và tất nhiên không có các hoạt động học tập cá nhân. Trong toàn bộ chương trình, không phải bất cứ bài học nào cũng phải ứng dụng CNTT. Trong trường hợp bài học chỉ cần tới các thiết bị truyền thống thì dứt khoát không sử dụng CNTT. Việc sử dụng CNTT sẽ không chỉ tốn kém mà có khả năng làm giảm chất lượng tiết dạy học. Tiết học được lựa chọn phải có tình huống dạy học ứng dụng CNTT hiệu quả. Sử dụng CNTT để thực hiện việc trình diễn bài dạy trong cả tiết học mà thôi. Tuy vậy, dựa vào thiết kế trình diễn này, GV có thể tổ chức các hoạt động dạy học được thiết kế từng bước hợp lý trong một cấu trúc chặt chẽ, trong đó sử dụng các công cụ đa phương tiện (multimedia) bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim minh họa để chuyển tải tri thức và điều khiển người học. Khi lên lớp với “giáo án điện tử”, GV sẽ thực hiện một bài giảng điện tử với toàn bộ hoạt động giảng dạy đã được chương trình hóa một cách uyển chuyển, sinh động nhờ sự hỗ trợ của các công cụ đa phương tiện đã được thiết kế trong “giáo án điện tử”. Như vậy, giáo án điện tử là được coi là phần quan trọng thể hiện kịch bản của tiết học. Giáo án điện tử hay bài giảng điện tử là hai cách gọi khác nhau của một hoạt động cụ thể, đó là: thực hiện dạy - học với sự hỗ trợ của máy tính ở mức độ dạy học đồng loạt. Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 10 Bài giảng điện tử: là bài giảng có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin mà trong đó toàn bộ hoạt động dạy học được chương trình hóa thông qua môi trường multimedia. Ở mức độ thấp, giáo viên thực hiện giảng bài dưới sự hỗ trợ của bản trình diễn để tổ chức các hoạt động dạy học nhằm đáp ứng được mục tiêu của bài học. Ở mức cao nhất của bài giảng điện tử là toàn bộ kịch bản dạy học của người thầy được số hóa, tạo nên một phần mềm dạy học hoàn chỉnh có tương tác và khả năng quản lý. Đặc biệt là nó có thể thay thế vai trò của người thầy ở một số thời điểm nhất định. Trong môi trường multimedia, thông tin được truyền dưới các dạng: văn bản (text), đồ hoạ (graphics), hoạt ảnh (animation), ảnh chụp (image), âm thanh (audio) và phim video (video clip). Giáo án điện tử: là bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của giáo viên khi thực hiện một bài giảng điện tử. Toàn bộ hoạt động dạy học đó đã được multimedia hoá một cách chi tiết, có cấu trúc chặt chẽ và logic được quy định bởi cấu trúc của bài học. Giáo án điện tử là một sản phẩm của hoạt động thiết kế bài dạy trước khi bài dạy học được tiến hành. Giáo án điện tử chính là bản thiết kế của bài giảng điện tử, chính vì vậy xây dựng giáo án điện tử hay thiết kế bài giảng điện tử là hai cách gọi khác nhau cho một hoạt động cụ thể để có được bài giảng điện tử. */ Yêu cầu của một bài giảng điện tử: Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 11 */ Thiết kế bài giảng điện tử: */ Bước 1: Xác định mục tiêu bài học - Học xong bài thì học sinh sẽ đạt được gì về? - Kiến thức - Kỹ năng - Thái độ */ Bước 2: Xác định trọng tâm và kiến thức cơ bản - Cần bám sát vào chương trình dạy học và sách giáo khoa bộ môn - Cần phải đọc thêm tài liệu, sách báo tham khảo để mở rộng hiểu biết về vấn đề cần giảng dạy và tạo khả năng chọn đúng kiến thức cơ bản - Việc chọn lọc kiến thức cơ bản của bài dạy học có thể gắn với việc sắp xếp lại cấu trúc của bài để làm nổi bật các mối liên hệ giữa các hợp phần kiến thức của bài, từ đó rõ thêm các trọng tâm, trọng điểm của bài. */ Bước 3: Xây dựng kịch bản dạy học (chương trình hóa tiến trình dạy học) - Xác định cấu trúc của kịch bản - Chi tiết hóa cấu trúc của kịch bản - Xác định các bước của quá trình dạy học - Xác định quá trình tương tác giữa thầy, trò và các đối tượng khác(phim, ảnh, text) – hoạt động của thầy, trò và công cụ hỗ trợ. - Xác định các câu hỏi, phản hồi trong các hoạt động - Hình dung(lắp ghép) thành tiến trình dạy học. */ Bước 4: Xác định tư liệu cho các hoạt động - Phim (video), ảnh (image), hoạt cảnh (animation)... - Tìm kiếm tư liệu - Xử lý tư liệu - Phân phối tư liệu co mỗi hoạt động. */ Bước 5: Lựa chọn phần mềm công cụ và số hóa kịch bản dạy học Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 12 - Lựa chọn phần mềm công cụ thích hợp - Cài đặt(số hóa) nội dung - Tạo hiệu ứng trong các tương tác - ... */Bước 6: Chạy thử, chỉnh sửa và hoàn thiện - Trình diễn thử - Soát lỗi - Kiểm tra tính logic, hợp lý của các thành phần - Chỉnh sửa - Hoàn thiện - Đóng gói Với bài giảng điện tử, GV được giảm nhẹ việc thuyết giảng, có điều kiện tăng cường đối thoại, thảo luận với HS, qua đó kiểm soát được HS; HS được thu hút, kích thích khám phá tri thức, có điều kiện quan sát vấn đề, chủ động nêu câu hỏi và nhờ vậy quá trình học tập trở nên hứng thú, sâu sắc hơn. II.3.2.1: Vài nét về địa bàn nghiên cứu Qua quá trình giảng dạy ở trường Tiểu học Thị Trấn tôi thấy các em rất yêu thích học môn Mĩ thuật và đặc biệt là đối với phân môn TTMT. Và tôi có đặt một số câu hỏi với các em: Tại sao em thích học Mĩ thuật?. Đặc biệt yêu thích phân môn TTMT; Tôi nhân được câu trả lời từ các em: “ Nhìn vào các bức tranh làm cho đầu óc bớt căng thẳng, và chúng em được bay bổng với trí tưởng tượng của mình về cuộc sống xung quanh, về cách nghĩ, cách nhìn của các bạn thiếu nhi, các cô, các bác họa sĩ nổi tiếng thông qua các tác phẩm được xem”. Tôi tiếp tục đặt ra một số câu hỏi cho các em như sau: Em còn chưa hài lòng và thoả đáng ở phần nào đối với phân môn TTMT? Tôi nhận được câu trả lời rất chân tình của các em: “ Các bức tranh của chúng em quan sát còn quá nhỏ, có nhiều những bức tranh chúng em chỉ được nghe qua sự giới thiê âu của thầy mà không được quan sát trực tiếp cho nên chúng em chưa phát huy được hết khả năng quan sát để bình luâ ân cho bức tranh."... II.3.2.2: Thực trạng và đánh giá thực trạng - Nguyên nhân của thực trạng a/ Về phía học sinh: Tôi đưa ra mô ât câu hỏi đến với các em: Môn Mĩ thuật có tác dụng như thế nào trong cuộc sống của các em? Các em trả lời: “Nó đem lại cho chúng em về cách Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 13 nghĩ, cách nhìn, sự vật xung quanh và đặc biệt chúng em luôn được sống trong một thế giới hoà bình, trong vòng tay yêu thương của cha mẹ, thầy cô giáo”. Tất cả những điều này đều được các thầy cô giáo truyền đạt đến từng HS bằng phương pháp truyền thống. Phương pháp này không thể đáp ứng được hết những yêu cầu đòi hỏi của HS trong môn học hay nói cách khác GV chưa thực sự chú trọng đến các hoạt đô nâ g dạy và học của HS. CNTT là mô ât phương tiê ân rất mới đối với các em bởi vì các chưa được làm quen với các bài giảng trên màn chiếu. Chính vì những lý do trên tôi đã nghiên cứu chương trình PowerPoint và dạy thử nghiê âm vào phân môn TTMT. b/ Về phía giáo viên: Đối với phương pháp này đòi hỏi người giáo viên phải biết về tin học ở trình độ nhất định, bỏ ra nhiều thời gian nghiên cứu bài trước khi giảng để áp dung phần khởi động và phần củng cố sao cho hợp lý. Cơ sở vật chất còn hạn chế, nhà trường mới chỉ có máy tính và máy chiếu hắt nên việc trình chiếu còn hạn chế. Nếu in ra giấy rồi cho học sinh quan sát thì hiệu ứng sinh động và âm thanh không còn, và dùng máy tính trực tiếp thì hơi nhỏ so với một lớp học. c/ Về phía phụ huynh học sinh Mặc dù phần lớn phụ huynh học sinh còn bỡ ngỡ về sự bùng nổ CNTT trong giảng dạy nhưng bố mẹ các em cũng rất hưởng ứng với phương pháp đó và nói rằng: “Phương pháp này sẽ giúp cho con em mình yêu thích môn học, làm quen với công nghệ mới và tập chung chú ý với bài giảng của thầy cô, chúng tôi tin bài giảng đó nhất định sẽ thành công”. Như vậy là tôi hoàn toàn yên tâm với hướng nghiên cứu của mình về phương pháp tôi đã chọn. Một phương pháp phù hợp với điều kiện của trường và phù hợp với điều kiện bản thân. II.3.2.3: Đề xuất những biện pháp khắc phục những tồn tại Biện pháp 1: Tìm hiểu nguyên nhân: tại sao GV + HS không hứng thú trong phân môn TTMT Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 14 Để dạy tốt nhất cho phân môn này chính là sự sử dụng linh hoạt các phương pháp: phương pháp phân tích, phương pháp gợi mở, phương pháp trực quan...Có thể nói một số GV rất “vất vả” khi dạy phân môn này vì không biết phải nói gì, phân tích gì, dạy gì cho hết thời gian 35 phút và làm như thế nào để lôi cuốn được HS hứng thú với bài học và khi kết thúc bài trong HS phải tiếp nhận được một lượng kiến thức cơ bản nhất định trong bài. Ngoài ra với một số bài khi nói về chất liệu hay cách làm thì người GV phải chuẩn bị rất nhiều đồ dùng, dụng cụ mà khi nói về cách làm một tác phẩm nghệ thuật cũng khiến cho HS rất mơ hồ vì không được quan sát trực tiếp cách làm nên cũng rất khó hình dung. Biện pháp 2: Nâng cao tiết dạy TTMT bằng cách áp dụng công nghệ thông tin và giảng dạy. Với đặc trưng của bộ môn Mĩ thuật là môn học thị giác, và sản phẩm của HS là sự thể hiện tính sáng tạo “cái riêng” , “cái tôi” thông qua cảm xúc của HS. Chính vì vậy mà ĐDDH đóng một vai trò rất to lớn trong bộ môn này. ĐDDH đẹp chính là sự khơi dậy nguồn cảm xúc của HS, hứng thú của HS đối với bài học. Ngoài ra nó còn là phương tiện truyền tải kiến thức tới HS một cách hệ thống và toàn diện nhất. Là môn học của đường nét, hình mảng và màu sắc nên khi sử dụng đồ dùng trực quan thì trong nó đã mang một lượng kiến thức nhất định. Có thể nói môn Mĩ thuật trong trường tiểu học là môn học duy nhất nếu không có đồ dùng trực quan, hình ảnh cụ thể thì không thể truyền tải kiến thức tới HS một cách toàn vẹn được vì phải thông qua những hình ảnh, đối tượng cụ thể thì HS mới có cảm xúc về đối tượng, mới có thể thể hiện được bài vẽ của mình. Là môn học về thẩm mĩ chính vì vậy mà ĐDDH cũng phải mang tính thẩm mĩ nếu không sẽ phản tác dụng trong giáo dục thẩm mĩ cho HS. “Với HS tiểu học thì khả năng tư duy của các em là tư duy cụ thể mang tính hình thức dựa vào đặc điểm bên ngoài. Tưởng tượng còn tản mạn, hình ảnh tưởng tượng đơn giản, hay thay đổi. Trí nhớ trực quan phát triển hơn trí nhớ logic. Đối tượng gây cảm xúc cho HS tiểu học thường là sự vật hiện tượng cụ thể nên xúc cảm, tình cảm của các em gắn liền với đặc điểm trực quan, hình ảnh cụ thể.” Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 15 (Đổi mới PPDH ở Tiểu học_Trang 15) Chính vì vậy mà PTDH hay đồ dùng trực quan đối với HS tiểu học rất quan trọng nó quyết định khả năng tư duy và cảm xúc của HS. Phải thông qua trực quan sinh động HS mới có thể tư duy trừu tượng đối với tác phẩm nghệ thuật. Mĩ thuật là môn học có tính chất đồng tâm nên lượng kiến thức sẽ tăng dần lên theo từng khối lớp. Vì vậy với mức độ của từng khối lớp mà GV có thể vận dụng linh hoạt lượng kiến thức sẽ truyền tải cho HS. Vẫn là phân môn TTMT nhưng mức độ thưởng thức sẽ sâu hơn ở các lớp trên HS sẽ không chỉ tìm hiểu về bên ngoài của tác phẩm mà còn đi vào cách thể hiện, ý nghĩ của tác phẩm cũng như cảm nghĩ riêng của mình về tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói trong năm phân môn của môn Mĩ thuật thì phân môn TTMT sử dụng PTDH là CNTT sẽ đạt hiệu quả tối ưu và toàn diện nhất. Đây là phân môn mà HS phải tìm thấy cái hay cái đẹp của một tác phẩm nghệ thuật trong tất cả các yếu tố đường nét, hình ảnh, màu sắc... và nhận xét tác phẩm nghệ thuật thông qua cảm xúc của mình. Đây là phân môn mà HS không phải thực hành mà sẽ tìm hiểu các tác phẩm nghệ thuật trong suốt quá trình 35 phút của tiết học, vì vậy sử dụng CNTT là hợp lí và mang lại nhiều hứng thú cho HS. Ngoài ra với những hiệu ứng đẹp mắt, với nội dung kiến thức được hiển thị cụ thể sẽ khiến học sinh thích thú và chủ động tiếp nhận kiến thức. Dạy phân môn TTMT bằng CNTT sẽ giúp người GV đỡ vất vả với đống tranh ảnh trực quan lỉnh kỉnh mà đôi khi còn không mang lại hiệu quả như: Tranh quá nhỏ, tranh khó sưu tầm... Hiện nay Internet rất thông dụng, gần như mọi thông tin đều có thể lấy về từ Internet. Để phục vụ cho bài dạy của mình GV có thể download về từ trên mạng thông tin cần thiết rồi đưa vào bài giảng điện tử của mình cho thêm sinh động. Hay chỉ cần một máy ảnh kĩ thuật số hoặc máy scan giáo viên có đưa được những bức tranh, ảnh trong SGK hay sưu tầm được cho vào máy vi tính để tích hợp vào bài giảng rất nhanh chóng. Qua đó, bài giảng có được những bức tranh phóng lớn và đẹp mắt tạo hiệu quả cao cho bài học. Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 16 Mĩ thuật là một môn học chính trong chương trình nhưng học mĩ thuật trong trường tiểu học giống như một hoạt động ngoại khóa đó là : Học kết hợp với chơi sẽ giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một cách nhanh hơn, và khơi gợi được cảm xúc về thảmm mĩ cho HS. Vì vậy với CNTT có thể tạo được nhiều trò chơi kiến thức sinh động hợp với HS CNTT với những phần mềm như Photoshop, Flash, ViOlet... GV có thể phóng to từng chi tiết của tác phẩm, hay thể hiện đặc trưng của màu sắc trong tác phẩm. Hoặc GV có thể đưa những đoạn Video vào bài giảng vừa gây hứng thú cho HS lại vừa thể hiện nội dung của bài, hay có thể tạo những trò chơi ô chữ, trắc nghiệm để củng cố kiến thức cho HS. Có thể nói sự kết hợp giữa CNTT và phân môn TTMT là sự kết hợp hoàn hảo mang lại hiệu quả cao trong giờ học Mĩ thuật. Qua đó học sinh hứng thú và yêu thích các tác phẩm nghệ thuật của chính các em, của các họa sĩ và của dân tộc. Biện pháp 3: Trường tiểu học Thị Trấn đã có lớp học 2 buổi / ngày và 8 buổi / tuần cho nên rất có lợi cho viê âc tăng tiết TTMT trong các buổi học hai. II.3.2.4: Một số kinh nghiệm về “ ứng dụng CNTT và giảng dạy trong phân môn “ TTMT” Để chuẩn bị tốt cho một tiết dạy bằng “ Giáo án điện tử” hay ĐDDH ứng dung CNTT đòi hỏi người GV phải tiến hành qua các bước như sau: - Lập kế hoạch cho từng hoạt động bám sát vào mục tiêu của bài học. - Sưu tầm tranh, ảnh, tư liệu... phục vụ cho bài giảng. - Tìm tư tưởng, chủ đề của các tác phẩm và những nội dung liên quan. - Lựa chọn những đoạn phim, bài hát, câu chuyện...có nội dung phù hợp với tác phẩm. - Tìm những tư liệu ở địa phương phù hợp với tác phẩm. - Có thể tạo thêm trò chơi cho cả lớp thêm hứng khởi. Thiết kế bài giảng hoặc đồ dùng hỗ trợ cho bài giảng: Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 17 - Sưu tầm tài liệu, tranh ảnh liên quan đến bài dạy. - Lên kế hoạch, tiến trình của bài dạy. - Sắp xếp các nội dung, hoạt động một cách khoa học. - Lựa chọn hình thức giới thiệu bài để gây hứng thú cho HS về bài học. Như 1 đoạn phim, bài hát hay câu chuyện liên quan trong bài. - Tư liệu liên quan đến tác giả, tác phẩm. - Đưa tranh, ảnh liên quan đến bài khai thác vẻ đẹp của tác phẩm: Chủ đề, hình ảnh, cách sắp xếp (bố cục), màu sắc... - Giới thiệu thêm một số tác phẩm liên quan để HS khai thác. - Xây dựng trò chơi để củng cố kiến thức trong bài. Ví dụ trò chơi ô chữ. */ Chú ý: + Khi xây dựng bài giảng điện tử tránh sử dụng nhiều màu hay các hình ảnh trang trí khác làm phân tán sự chú ý của HS. + Các hiệu ứng nên đơn giản phù hợp với bài giảng. + Không sử dụng những hình ảnh quá nhỏ, hình mờ hay bị vỡ hình. VD: Bài 30: Xem tranh thiếu nhi vẽ về đề tài sinh hoạt 1. Kiến thức: - Làm quen tiếp xúc với tranh vẽ của thiếu nhi. I. Mục 2. Kỹ năng: tiêu của - Tập quan sát, mô tả hình ảnh và màu sắc trên tranh. bài dạy 3 Thái độ: - Nhận ra vẻ đẹp của tranh thiếu nhi. II. Yêu cầu của 1/ Về kiến thức của học sinh: bài dạy a/ Kiến thức về công nghệ thông tin - Học sinh bước đầu được làm quen về cách thầy giáo giảng bài bằng CNTT. b/ Kiến thức chung về môn học - Làm quen tiếp xúc với tranh vẽ của thiếu nhi - Tập quan sát, mô tả hình ảnh và màu sắc trên tranh - Nhận ra vẻ đẹp của tranh thiếu nhi III. Chuẩn bị 1/ Chuẩn bị của giáo viên. Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 18 cho bài - Giáo án điện tử giảng - Máy tính, máy chiếu, loa 2/ Chuẩn bị của học sinh - VTV I/ Tổ chức lớp học - kiểm tra bài cũ: 2 phút II/ Hoạt động dạy và học ( 30 phút ) IV. Nội dung và 3/ Nội dung bài mới: tiến trình */ Giới thiệu tranh bài giảng Hoạt động của thầy Hoạt động của trò - Giáo viên giới thiệu một số tranh để học sinh - Quan sát trên màn chiếu nhận ra: - Cảnh sinh hoạt trong gia đình (bữa cơm, học bài, xem ti vi...) - Cảnh sinhh hoạt ở phố phường, làng xóm (dọn vệ sinh, làm đường ...) - Cảnh sinh hoạt trong ngày lễ hội (đấu vật, đua thuyền, chọi gà, chọi trâu ...) - Cảnh sinh hoạt ở sân trường trong giờ ra chơi (kéo co, nhảy dây, chơi bi ...) Lê Quang Hà - Giáo viên trường tiểu học Thị Trấn Tiên Yên - Quảng Ninh 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan