VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
______________
HÀ XUÂN HƢƠNG
SO SÁNH DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT
CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI
Ở VIỆT NAM
Ngành: VĂN HỌC DÂN GIAN
Mã số: 9 22 01 25
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
và người Thái ở Việt Nam là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, kết luận khoa học trong đề tài là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố
trong các công trình khác. Nội dung đề tài có tham khảo và sử dụng các thông
tin đƣợc đăng tải trên các sách, tạp chí theo danh mục tài liệu tham khảo của đề
tài. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng
năm 201
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
HÀ XUÂN HƢƠNG
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới GS. TS Nguyễn Xuân Kính –
ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Học viên Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện để
tôi hoàn thành khóa học và luận án này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã chia sẻ nhiều tƣ
liệu và kinh nghiệm quý liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã động
viên và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận án.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng
năm 201
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ
LUẬN CỦA LUẬN ÁN ............................................................................................... 11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................. 11
1.2. Luận án, sự kế thừa và phát triển............................................................................ 25
1.3. Cơ sở lí luận............................................................................................................ 29
CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI TÀY, THÁI Ở VIỆT NAM VÀ DÂN
CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA HỌ .................................................................... 45
2.1. Khái quát về ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam............................................... 45
2.2. Dân ca trữ tình sinh hoạt của ngƣời Tày và ngƣời Thái – nhận diện và phân loại........... 65
CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH
SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI .............................................. 73
3.1. Sự tƣơng đồng trong việc phản ánh đời sống hiện thực ở nông thôn miền núi
và tình cảm con ngƣời ................................................................................................... 73
3.2. Sự tƣơng đồng về cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình .................... 85
3.3. Sự tƣơng đồng trong việc sử dụng biểu tƣợng hoa ................................................ 93
3.4. Sự tƣơng đồng về trình tự diễn xƣớng hát đối đáp và sự tham gia của âm nhạc
vào diễn xƣớng .............................................................................................................. 97
3.5. Iếu và cắm nôm – sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái .............. 103
CHƢƠNG 4: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH SINH
HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI ...................................................... 109
4.1. Sự khác biệt về nhân vật trữ tình .......................................................................... 109
4.2. Sự khác biệt về thi pháp lời thơ nghệ thuật .......................................................... 117
4.3. Sự khác biệt về đặc điểm diễn xƣớng ................................................................... 138
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ........................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 152
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
STT
Nghĩa của chữ viết tắt
1
DCTTSH
Dân ca trữ tình sinh hoạt
2
DTTS
Dân tộc thiểu số
3
Nxb
Nhà xuất bản
4
PL
Phụ lục
5
tr
Trang
6
VHDG
Văn học dân gian
7
VHSS
Văn học so sánh
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tài liệu khảo sát .................................................................................................5
Bảng 2: Thông tin điền dã ...............................................................................................7
Bảng 2.1: Phân loại dân ca của ngƣời Tày và ngƣời Thái ............................................70
Bảng 3.1. Sự xuất hiện của các từ mang sắc thái cầu khiến ..........................................90
Bảng 4.1: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng là con ngƣời và các hình ảnh,
biểu tƣợng nguồn gốc thiên nhiên trong DCTTSH Tày, Thái......................... 121
Bảng 4.2: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc và các hình ảnh, biểu tƣợng
có nguồn gốc nhân tạo trong DCTTSH Tày, Thái .......................................... 125
Bảng 4.3: Khảo sát việc sử dụng điển tích trong DCTTSH Tày, Thái ...................... 131
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập nên dân tộc.
Nó có quan hệ mật thiết với tinh thần, tâm hồn của cả chủng tộc, giúp tạo nên dấu ấn
riêng, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn học, với tƣ cách là một thành tố của
văn hóa, cũng giữ vai trò ấy. Trong văn học, văn học dân gian (VHDG) giữ vị trí đáng
kể và có nhiều ƣu thế trong việc phản ánh tƣ duy, tình cảm của dân tộc. Nghiên cứu
VHDG là cần thiết và quan trọng đối với việc góp phần nghiên cứu, bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là đối với việc xây dựng khối thịnh vƣợng chung của cộng
đồng quốc gia dân tộc trong bối cảnh giao lƣu thời toàn cầu hóa hiện nay.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Bức tranh văn hóa Việt Nam đa diện, đa sắc
màu, đƣợc tạo nên bởi quá trình tích hợp các giá trị văn hóa tộc ngƣời vào văn hóa Việt
Nam – một phức thể văn hóa đa dạng mà thống nhất. Qua VHDG, chúng ta có thể nhận
diện đƣợc sự hòa hợp trong đa dạng của mối quan hệ văn hóa giữa các tộc ngƣời. Vì thế,
con đƣờng nghiên cứu so sánh VHDG của các tộc ngƣời sẽ đem tới nhiều khả năng cho
việc phát hiện ra những yếu tố văn hóa truyền thống mang tính đặc trƣng tộc ngƣời cũng
nhƣ những nét chung, mang tính phổ biến.
1.2. Tày và Thái là hai dân tộc có số dân đông thứ hai và thứ ba trong 54 dân tộc
Việt Nam, sinh sống rải rác trong cả nƣớc song tập trung nhiều nhất ở khu vực miền núi
phía Bắc. Ngƣời Tày giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng Đông Bắc, ngƣời Thái giữ vai trò
chủ thể văn hóa vùng Tây Bắc. Với những giá trị đặc sắc về văn hóa, hai dân tộc giữ vị
trí quan trọng trong tổng thể văn hóa dân gian Việt Nam. Trong đó, phải kể đến vai trò
của kho tàng VHDG thấm đẫm hồn cốt dân tộc.
1.3. Trong kho tàng VHDG của ngƣời Tày và ngƣời Thái, truyện cổ và dân ca là
hai bộ phận phong phú và tiêu biểu nhất. Dân ca Tày, Thái – với tƣ cách là những bộ
phận của văn hóa và VHDG, đã thể hiện khá sinh động và rõ nét đời sống văn hóa và
tâm hồn dân tộc bởi nó ra đời từ đời sống của nhân dân, rồi lại quay trở lại phục vụ
chính đời sống ấy trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng, hội hè… của tộc ngƣời. Do đó, có thể nói, dân ca Tày, Thái thể hiện một cách
tập trung nhất và rõ ràng nhất bản sắc văn hóa của hai dân tộc.
1
1.4. Dân ca có ở hầu hết các dân tộc và là nghệ thuật mang tính chất tổng hợp,
gồm ngôn từ, diễn xƣớng, âm nhạc, vũ đạo, đạo cụ. Ở ngƣời Kinh, do điều kiện riêng
nên bộ phận ngôn từ trong dân ca dần tách thành một thể loại độc lập là ca dao. Trái lại,
ở các dân tộc thiểu số (DTTS), bộ phận ngôn từ chƣa phân thành một thể loại độc lập.
Vì thế, các nhà nghiên cứu thƣờng nhắc đến dân ca các DTTS mà không nhắc đến ca
dao của họ nhƣ với ngƣời Kinh. Đây cũng là lí do để dân ca đƣợc coi là đối tƣợng
nghiên cứu của VHDG, dù nó là nghệ thuật biểu diễn.
1.5. Xét riêng về DCTTSH, nếu nhƣ ngƣời Tày có lượn cọi (hát gọi bạn yêu),
lượn slương (hát thƣơng yêu), lượn nàng ới (hát gọi ngƣời con gái), lượn then (hát
then), phong slư (thƣ tình con trai gửi cho con gái và ngƣợc lại)… thì ngƣời Thái có
khắp báo xao (hát trai gái), khắp xai peng (hát dây tình), khắp hạn khuống (hát nơi sàn
chơi), khắp loong tôông (hát nơi cánh đồng), khắp xư (hát thơ)… Sự phong phú, đa
dạng, sự đặc sắc cả về nội dung, thi pháp lời thơ nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng của
DCTTSH và mức độ gắn bó của chúng với mọi mặt đời sống nhân dân khiến chúng tôi
đặc biệt quan tâm đến loại dân ca này. DCTTSH của mỗi dân tộc vừa mang những điểm
tƣơng đồng, vừa mang những điểm dị biệt.
Một sự so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái sẽ góp phần khám phá tính
chung, tính phổ biến trong văn hóa của hai dân tộc này, đồng thời làm phát lộ tính riêng
đặc thù của mỗi dân tộc trong bức tranh văn hóa Việt Nam, góp phần khẳng định bản
sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề này lại chƣa nhận đƣợc sự quan tâm thỏa đáng từ
các nhà nghiên cứu VHDG.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề So sánh dân ca trữ tình sinh
hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu với mong muốn chỉ
ra và lí giải đƣợc những điểm giống và khác nhau của hai bộ phận dân ca, trên cơ sở đó
thấy đƣợc cái chung của văn hóa các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam, đồng thời thấy
đƣợc nét đặc thù dân tộc của văn hóa ngƣời Tày và ngƣời Thái.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tôi xác định mục đích nghiên cứu là qua so sánh
DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, thấy rõ tính thống nhất và đa dạng của dân ca các
dân tộc Việt Nam nói chung, DCTTSH Tày, Thái nói riêng, lí giải nguyên nhân của sự
thống nhất, đa dạng đó.
2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp, hệ thống theo lựa chọn có chủ ý các tƣ liệu DCTTSH Tày, Thái dựa
trên các nguồn tƣ liệu sƣu tầm, công bố tƣ liệu dân ca dƣới hình thức song ngữ.
- Điền dã, khảo sát diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái (còn quan sát đƣợc), phỏng
vấn hồi cố các nghệ nhân ngƣời Tày, Thái ở khu vực miền núi phía Bắc; khảo sát các tƣ
liệu phục dựng diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái; quan sát mối quan hệ giữa văn bản và
diễn xƣớng trong thực tế đời sống của hai dân tộc Tày, Thái.
- Tìm hiểu các vấn đề về lí luận văn học so sánh (VHSS) nói chung và VHSS
trong nghiên cứu văn hóa, VHDG nói riêng; hệ thống hóa lí luận về bản sắc văn hóa dân
tộc, dân ca và diễn xƣớng.
- Khái quát về tộc ngƣời và diện mạo DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái.
- Khảo sát các khía cạnh của DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái (qua văn bản là
chính, kết hợp với sự quan sát diễn xƣớng dân ca), lấy đó làm cơ sở cho sự so sánh.
- Phân tích các điểm tƣơng đồng và khác biệt của DCTTSH Tày, Thái.
- Lí giải nguyên nhân của sự tƣơng đồng và khác biệt đó, chỉ ra nội hàm văn hóa
ẩn chứa trong đó để dẫn tới nhận thức rằng sự tƣơng đồng chính là tính thống nhất, sự
khác biệt chính là bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái, tạo nên tính đa dạng của văn
hóa các dân tộc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài so sánh DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam,
chúng tôi chỉ nghiên cứu loại dân ca này của ngƣời Tày ở vùng Đông Bắc và ngƣời Thái
ở vùng Tây Bắc. Vùng Đông Bắc bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà
Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lào Cai và một phần của tỉnh Yên Bái. Vùng Tây
Bắc bao gồm các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình và một phần tỉnh Yên Bái.
Về nguồn tƣ liệu, các kết quả so sánh của chúng tôi trong luận án là dựa trên cơ
sở khảo sát kĩ càng các nguồn tƣ liệu DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Song,
chúng tôi nhận thấy kho tàng DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái có số lƣợng tƣơng đối
lớn và phong phú về thể loại. Hơn nữa, việc đƣa toàn bộ các tài liệu vào trong công trình
3
là không thật cần thiết. Chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng vai trò đại diện của tài liệu
VHDG trong công việc nghiên cứu. Lí do của sự không cần thiết nói trên nằm ở tính lặp
lại của VHDG nói chung, dân ca nói riêng. Nếu nhƣ ở văn học viết, nhà nghiên cứu cần
đọc hết các tác phẩm của một tác giả nào đó thì mới có thể đƣa ra những nhận định,
đánh giá khoa học về tác giả đó. Nhƣng, ở VHDG, nhà nghiên cứu chỉ cần biết một số
lƣợng tác phẩm vừa đủ, có tính chất đại diện. VHDG là mảnh đất của những yếu tố lặp
đi lặp lại, của những điểm chung mang tính cộng đồng, thời đại. Riêng ở dân ca, tính lặp
lại của các yếu tố trong dân ca là rất cao và phổ biến. Chỉ bằng quan sát, bạn đọc cũng dễ
dàng nhận ra những sự giống nhau giữa các văn bản dân ca. Do vậy, quan điểm của chúng
tôi là chỉ cần khảo sát giới hạn ở một số lƣợng tác phẩm mà ngoài số lƣợng đó chúng ta
không phát hiện thêm điều gì mới. Sự hạn chế nguồn tƣ liệu của chúng tôi là giống nhƣ
việc làm của tác giả V.IA. Propp trong công trình Hình thái học truyện cổ tích [165].
Khi thống kê, chúng tôi sử dụng các tƣ liệu dân ca dẫn từ các tài liệu đã đƣợc
xuất bản và dƣới hình thức song ngữ Tày – Kinh đối với DCTTSH Tày và Thái – Kinh
đối với DCTTSH Thái. Các tài liệu đƣợc lựa chọn phải có sự ăn khớp nhau về số dòng
thơ trong bản phiên âm và bản dịch sang tiếng Việt, đồng thời bản dịch phải sát nghĩa.
Trong đó, chúng tôi ƣu tiên những công trình mà tác giả là những ngƣời con của dân tộc
Tày, Thái hoặc từng có thời gian sinh sống cùng ngƣời bản tộc, có lợi thế trong việc am
hiểu văn hóa và ngôn ngữ dân tộc. Họ dành rất nhiều công sức, tâm huyết, trung thực và
trách nhiệm trong việc sƣu tầm, biên soạn. Vì thế, việc biên dịch của các tác giả đó khá
sát với cách cảm, cách nghĩ và đặc trƣng thi pháp thể loại của DCTTSH Tày, Thái.
Những tiêu chí nhƣ vậy sẽ đem đến tính tin cậy cho tài liệu đƣợc lựa chọn để khảo sát,
nghiên cứu của luận án.
Vì những lí do này, đối với DCTTSH Tày, trong rất nhiều mảng, chúng tôi lựa
chọn iếu, lượn slương, lượn cọi, phong slư, rọi. Ở từng mảng, chúng tôi chỉ lựa chọn
những bản tiêu biểu, có chất lƣợng để khảo sát. Cụ thể, chúng tôi lựa chọn dẫn 500 bài
dân ca với 4216 câu. Đối với DCTTSH Thái, chúng tôi dẫn 286 bài DCTTSH Thái với
6068 câu. Sự lựa chọn dẫn này là có chủ ý khi chúng tôi nhận thấy các hiện tƣợng đã
đƣợc hàm chứa khá đầy đủ trong 500 bài DCTTSH Tày và 286 bài DCTTSH Thái đƣợc
dẫn. Số lƣợng bài cụ thể trong các tài liệu dân ca đƣợc lựa chọn nhƣ sau:
4
Bảng 1: Tài liệu khảo sát
STT
Mã tài
liệu
Tài liệu
Số bài đƣợc
lựa chọn
Tày
1
Phƣơng Bằng (sƣu tầm, phiên âm chữ Nôm và dịch) [6]
5
(2012), Phong Slư, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
2
Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng (sƣu [22]
tầm, biên dịch) (2012), Iếu – Dân ca dân tộc Tày, Nxb
50
Văn hóa dân tộc, Hà Nội
3
Nhiều tác giả (1970), Rọi (Vốn cổ văn học dân tộc Tày – [99]
50
Nùng), Nxb Dân tộc Việt Bắc
4
Nhiều tác giả (2012), Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, [108]
lượn slương, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
200
5
Lục Văn Pảo (sƣu tầm, phiên âm, dịch) (1994), Lượn [117]
150
cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
6
Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào (sƣu tầm) (2016), [128]
Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội
45
Tổng
500
Thái
7
Nguyễn Văn Hòa (sƣu tầm, biên dịch) (2001), Truyện cổ [50]
và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội
49
8
Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm, biên dịch) (2012), [121]
Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 – Thơ và dân ca tình
yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu, Hà Nội
190
9
Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm và dịch) (2012), Dân ca Thái Lai [134]
47
Châu, Quyển 1 – Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân
mùa hoa), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
Tổng
286
5
Số lời còn lại của các công trình kể trên và các tài liệu DCTTSH khác của ngƣời
Tày, Thái, chúng tôi sử dụng làm cơ sở tham khảo, đối chiếu, kiểm tra. Chẳng hạn, ở
DCTTSH Tày có các công trình nhƣ Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Sli lượn
hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng [92], Chồm bjoóc mạ [14], Lượn then ở
miền đông Cao Bằng [78], Tàng pây kết chụ (Đường đi kết bạn tình) [70], Thành ngữ
- tục ngữ - ca dao dân tộc Tày [127], Thơ ca dân gian Tày Nùng xứ Lạng [5], Tục
ngữ, ca dao Tày vùng hồ Ba Bể [192], tƣ liệu điền dã của tác giả luận án; ở ngƣời Thái
có công trình: Khắp sứ lam của người Thái đen xã Noong Luống, huyện Điện Biên,
tỉnh Điện Biên [49].
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Theo Hà Văn Tấn, “phƣơng pháp luận khoa học là hệ thống lí thuyết lí giải đối
tƣợng nghiên cứu cũng nhƣ lí giải các phƣơng pháp tiếp cận đối tƣợng đó” [55; tr. 10].
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu ngôn ngữ [40] cũng nói tƣơng tự nhƣ vậy. Vậy, phƣơng pháp luận định hƣớng cho
chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án này là: Trong khi sử dụng các quy phạm của
nghiên cứu văn học, không quên tính đặc thù của VHDG; khi so sánh DCTTSH của hai
dân tộc Tày, Thái, chúng tôi chú ý đến mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Cái
chung ở đây là tính toàn nhân loại của VHDG, tính tƣơng đồng cao của dân ca các dân
tộc ở Việt Nam. Cái riêng ở đây là tính đặc thù của DCTTSH mỗi dân tộc. Theo ý nghĩa
triết học, cái chung đƣợc lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tƣợng hay quá trình riêng lẻ
khác; cái riêng là một sự vật, một hiện tƣợng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
Phƣơng pháp luận cũng chỉ ra rằng, để thực hiện bản luận án này, chúng tôi cần
áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: phƣơng pháp điền dã, phƣơng pháp thống kê,
phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp liên ngành.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp điền dã
Luận án thực hiện trên cơ sở tƣ liệu là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái.
Đây là đề tài nghiên cứu dân ca nên cần đặt nó trong môi trƣờng diễn xƣớng cụ thể để
thấy đƣợc hết tính sinh động của diễn xƣớng và thấy đƣợc mối liên hệ giữa dân ca với
phong tục, tập quán, tín ngƣỡng... của dân tộc. Vì thế, chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp
điền dã. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành điền dã tại một số vùng
cƣ trú của đồng bào Tày, Thái ở vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Tại đó, chúng tôi quan sát
6
đời sống sinh hoạt của đồng bào Tày, Thái, phỏng vấn ngƣời dân, tiếp cận với các diễn
xƣớng DCTTSH Tày, Thái. Chúng tôi đƣợc chứng kiến các diễn xƣớng có tính ngẫu
hứng khi làm ngô, làm lúa, các điệu hát rong chơi… của ngƣời Thái ở Yên Bái, diễn
xƣớng lượn slương của ngƣời Tày ở Bắc Kạn và đƣợc chứng kiến các nghệ nhân phục
hồi các diễn xƣớng lượn của ngƣời Tày ở Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn và khắp của
ngƣời Thái ở Yên Bái. Chúng tôi lựa chọn các địa bàn điền dã nhƣ thế bởi đó là nơi tập
trung đông đồng bào Tày/ Thái sinh sống, còn lƣu giữ đƣợc nhiều đặc điểm văn hóa
truyền thống của dân tộc. Các thông tin đƣợc cụ thể hóa trong bảng dƣới đây:
Bảng 2: Thông tin điền dã
Địa điểm
STT
Thời gian
Thông tin viên
Tày
1
Xã Quỳnh Sơn, huyện Bắc Sơn, 15/2 – 5/3/ 2017
tỉnh Lạng Sơn
2
3
Dƣơng Công Thông
Dƣơng Công Nam
Thị trấn Yên Minh, huyện Yên 24/4 - 28/4/2018
Nguyễn Thị Hà
Minh, tỉnh Hà Giang
Hoàng Thị Đại
Xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn 7/2 - 12/2/2014
Hà Đình Tỵ
Chấn, tỉnh Yên Bái
4
Xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh 12/2 – 19/2/2016
Nông Minh Cƣơng
Bắc Kạn
Thái
4
5
Xã Sơn A, huyện Văn Chấn, tỉnh 7/2 – 21/2/2016
Lò Thị Sa
Yên Bái
Sầm Văn Tuấn
Xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn, 11/7 - 18/7/2018
Lƣờng Thủy Chung
tỉnh Yên Bái
Vì Thị Pọm
Lò Thị Sáng
Lò Thị Tía
Qua điền dã, chúng tôi thu thập các thông tin hữu ích cho quá trình so sánh và lí giải.
Việc thu thập các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội tộc ngƣời sẽ cho kết quả là những
7
thông tin định tính góp phần chứng minh và lí giải cho những đặc điểm tƣơng đồng và
khác biệt của DCTTSH của hai dân tộc.
4.2.2. Phương pháp thống kê
Về phƣơng pháp thống kê, trong công trình Văn hóa dân gian – Những phương
pháp nghiên cứu [101; tr. 127 – 141], Nguyễn Xuân Kính đã khẳng định đây là một
trong số các phƣơng pháp nghiên cứu chính xác bởi mục đích của việc nghiên cứu là tìm
ra giá trị và giải thích, làm sáng tỏ các quy luật, tức những sự lặp lại của các hiện tƣợng
cùng loại ở một mức độ nhất định nào đó. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi thống kê
thông tin về các tài liệu công bố dân ca theo năm và theo dân tộc phục vụ cho việc lƣợc
thuật tình hình sƣu tầm, nghiên cứu, thống kê các bài DCTTSH Tày, Thái đƣợc lựa chọn
làm đối tƣợng khảo sát. Đặc biệt, chúng tôi thống kê các số liệu cụ thể liên quan đến nội
dung, thi pháp của DCTTSH Tày, Thái nhƣ tần suất xuất hiện của các điển tích, biểu
tƣợng, thể thơ. Các kết quả thống kê mang tính định lƣợng nhƣ thế sẽ là căn cứ để
chúng tôi đƣa ra các suy luận, nhận định khoa học. Đồng thời, việc sử dụng các phƣơng
pháp này cũng giúp tăng thêm sức thuyết phục, độ chính xác, tin cậy cho những nhận
định khoa học của chúng tôi.
4.2.3. Phương pháp so sánh
Ở góc độ là một phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, so sánh là phƣơng pháp
quen thuộc, đƣợc sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau để định tính, định
lƣợng hoặc xác định ngôi thứ của các sự vật, hiện tƣợng. Trong nghiên cứu văn hóa dân
gian, VHDG, phƣơng pháp so sánh đƣợc dùng để xác định, đánh giá các hiện tƣợng
trong mối quan hệ giữa chúng với nhau. Chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp so sánh vì
mục đích chính của đề tài là làm folklore so sánh. Chỉ có qua so sánh mới chỉ ra đƣợc
những tƣơng đồng, khác biệt của hai bộ phận dân ca này ở hai tộc ngƣời Tày, Thái.
Dạng thức chính của phƣơng pháp so sánh mà chúng tôi sử dụng là so sánh loại hình
lịch sử. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi nhằm nhận thức DCTTSH Tày, Thái thông
qua việc tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt giữa các yếu tố nhƣ nội dung, thi pháp lời thơ
nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Chúng tôi
tìm ra kết cấu bên trong, sự liên hệ giữa DCTTSH Tày, Thái với các yếu tố lịch sử, xã hội
để giải thích nguyên nhân, ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng, dị biệt đó.
4.2.4. Phương pháp liên ngành
Phƣơng pháp liên ngành là phƣơng pháp nghiên cứu có sự kết hợp giữa nhiều
ngành khoa học, trong đó có một ngành đóng vai trò trung tâm, nhƣ tác giả Đinh Gia
8
Khánh đã phân tích trong cuốn sách Văn hóa dân gian – Những phương pháp nghiên
cứu [101; tr. 113]. Ở đây, khoa nghiên cứu văn học chú ý đến tính đặc thù của sáng tác
dân gian đóng vai trò trung tâm, các ngành khoa học khác nhƣ dân tộc học, lịch sử, văn
hóa học… đóng vai trò bổ trợ.
Chúng tôi sử dụng các kiến thức về dân tộc học, lịch sử, địa lí… trong một đề tài
folklore so sánh để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu về nguyên nhân và ý nghĩa những đặc
điểm tƣơng đồng, khác biệt trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Cụ thể, thông
qua nghiên cứu tài liệu và nghiên cứu các dữ liệu thu thập đƣợc từ việc quan sát văn
hóa, lịch sử, xã hội… của tộc ngƣời Tày, Thái, chúng tôi nhằm phát hiện ra sự chuyển
hóa các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội… thành các dữ liệu văn học, lấy đó làm cơ sở
cho những lí giải về sự giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái; nhận định về mối
liên hệ cũng nhƣ vai trò của của DCTTSH đối với văn hóa tộc ngƣời nói riêng và văn
hóa Việt Nam nói chung.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên đặt DCTTSH – một bộ phận quan trọng
của VHDG nói riêng, văn hóa nói chung của ngƣời Tày và ngƣời Thái - dƣới góc nhìn
so sánh. Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc, luận án đã kế
thừa, bổ sung và phát triển sâu hơn các luận điểm đó, đặt chúng trong một hệ quy chiếu
mới là sự so sánh, đối chiếu. Công trình đã chỉ ra và lí giải nguyên nhân, ý nghĩa của
những điểm tƣơng đồng và khác biệt trên nhiều phƣơng diện nhƣ: nội dung, thi pháp,
đặc điểm diễn xƣớng của DCTTSH Tày, Thái.
Luận án hƣớng tới việc từ các đặc điểm của dân ca để góp thêm tiếng nói khẳng
định tính chung của văn hóa các dân tộc Việt Nam, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa
Việt Nam thống nhất; đồng thời, khẳng định tính đặc thù dân tộc về văn hóa của hai dân
tộc Tày, Thái, giúp khu biệt hai dân tộc vốn gần gũi với nhau về nhiều mặt.
Luận án đƣợc thực hiện trong sự quan sát, liên tƣởng với văn học, văn hóa của
ngƣời Kinh nhằm cung cấp một góc độ nhìn nhận toàn diện hơn, rõ ràng và khách quan
hơn về tính chung và tính riêng của DCTTSH Tày, Thái.
Kết quả nghiên cứu của luận án khẳng định hƣớng nghiên cứu so sánh DCTTSH
nói riêng, VHDG nói chung là hƣớng nghiên cứu có tính khả thi, mang lại kết quả là sự
nhận thức sâu sắc hơn về mối liên hệ giữa văn học với môi trƣờng tự nhiên, văn hóa,
lịch sử… của dân tộc, và quan trọng nhất, là làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc trong sự hài
hòa với văn hóa cộng đồng mang tính khu vực, cao hơn là quốc gia, nhân loại.
9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lí luận
Vận dụng kết hợp các dạng thức khác nhau của phƣơng pháp so sánh: so sánh
loại hình lịch sử, so sánh từ cách tiếp cận dân tộc học, luận án bƣớc đầu làm rõ và đánh
giá các điểm tƣơng đồng, khác biệt về mặt nội dung, thi pháp và đặc điểm diễn xƣớng
của DCTTSH Tày, Thái trong mối liên hệ với các đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội,
lịch sử tộc ngƣời.
Việc so sánh dân ca để làm rõ bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái giúp hai dân
tộc tự khẳng định chính mình. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án có thể
đóng góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận trong việc tìm hiểu cái chung – cái riêng, hay
chính là cái phổ biến và cái đặc thù của dân ca các dân tộc, quan hệ giữa văn hóa dân
tộc, vùng miền với văn hóa quốc gia thống nhất.
6.2. Về thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa thực tiễn. Với mục đích hƣớng tới việc
tìm hiểu sâu sắc về những đặc điểm giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái, vai trò
của những đặc điểm đó trong việc thể hiện bản sắc văn hóa tộc ngƣời, hi vọng các kết
quả của luận án có thể là cơ sở cho việc thực thi bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa
đặc sắc của hai DTTS hiện đang giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng ở khu vực miền núi
phía Bắc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo đƣờng lối, chính sách chung của
Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án còn có giá trị đối với việc nghiên
cứu, giảng dạy DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái nói riêng, VHDG nói chung.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung
của luận án đƣợc triển khai với bốn chƣơng. Cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của luận án
Chƣơng 2: Khái quát về người Tày, Thái ở Việt Nam và dân ca trữ tình sinh hoạt của họ
Chƣơng 3: Những điểm tương đồng của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và
người Thái
Chƣơng 4: Những điểm khác biệt của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái
10
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
1.1.1.1. Tình hình sưu tầm dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
Trong kho tàng dân ca các DTTS, dân ca dân tộc Tày đƣợc sƣu tầm nhiều và
sớm hơn cả. Trong đó, dân ca nghi lễ nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà sƣu tầm sớm
hơn so với DCTTSH. Nếu nhƣ dân ca nghi lễ, mà cụ thể là dân ca đám cƣới Tày đƣợc
Nguyễn Văn Huyên sƣu tầm, công bố cả bản chữ Nôm Tày, bản phiên âm và bản dịch
bằng tiếng Pháp, đƣợc nhà in Viễn Đông Bác Cổ xuất bản từ năm 1941 với công trình
Những khúc ca đám cưới Tày ở Lạng Sơn và Cao Bằng (bản dịch tiếng Việt trong
cuốn Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam [55; tr. 497 – 482]), thì phải đến năm
1970, DCTTSH của ngƣời Tày mới đƣợc công bố lần đầu tiên qua cuốn Rọi – Vốn cổ
văn học dân tộc Tày Nùng [99] do nhóm các tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình
Tuấn, Trần Vĩnh, Võ Quang Nhơn sƣu tầm và dịch. Rọi (phuối rọi, phuối pác, lượn
tói) là một hình thức hát đối đáp theo kiểu ứng khẩu tự nhiên, không cầu kì. Trong
công trình, nhóm tác giả đã giới thiệu 231 bài, chủ yếu là về dân ca tình yêu. Điều
đáng quý là ngay từ công trình đầu tiên công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, các tác giả đã
có ý thức công bố dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt.
Năm 1987, các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân công bố tƣ liệu dân ca về
lượn cọi thông qua cuốn Lượn cọi Tày Nùng [76]. Hai tác giả đã căn cứ vào 10 bản
chữ Nôm Tày ghi chép về lượn cọi sƣu tầm đƣợc ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng để lọc lựa ra một số bài hay và giới thiệu tới độc giả. Đáng
tiếc, các tác giả chỉ giới thiệu bản dịch thơ ra tiếng Việt.
Những năm 90 của thế kỉ XX, giới trí thức dân tộc Tày đã rất nỗ lực trong việc
giới thiệu di sản DCTTSH của dân tộc. Sự ra đời của các cuốn sách Phong slư năm
1991 [115], Lượn slương năm 1992 [7], Lượn cọi năm 1994 [117] của tác giả Lục
Văn Pảo (còn gọi là Phƣơng Bằng) là kết quả của sự nỗ lực ấy. Trong đó, đáng chú ý
là lượn slương và lượn cọi có số lƣợng đƣợc công bố hết sức dồi dào (lượn slương
đƣợc công bố 2924 câu, lượn cọi đƣợc công bố 7465 câu). Trừ cuốn Phong slư cung
cấp tƣ liệu về các bức thƣ tình của nam nữ thanh niên Tày thời xƣa dƣới hình thức là
những tác phẩm độc lập riêng rẽ, không liên quan gì đến nhau, các cuốn sách Lượn
11
slương, Lượn cọi sắp xếp các bài dân ca theo trình tự của diễn xƣớng trong thực tế,
khiến qua đó ngƣời đọc hình dung đƣợc đáng kể về cuộc hát. Cả ba nhóm bài hát của
DCTTSH Tày đều đƣợc giới thiệu dƣới hình thức song ngữ, tức bao gồm phần phiên
âm tiếng Tày và phần dịch nghĩa sang tiếng Việt.
Một tác giả đƣợc gọi là “ông tiên núi” vì những đóng góp trong việc sƣu tầm,
nghiên cứu dân ca H’Mông là Doãn Thanh cũng để tâm sƣu tầm DCTTSH của ngƣời
Tày. Trong công trình Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Doãn Thanh đã công bố
các bài DCTTSH mà ông sƣu tầm đƣợc và có phân ra các bài lượn có lề lối và lượn tự
do, theo hình thức song ngữ.
Sang đầu thế kỉ XXI, tình hình công bố tƣ liệu DCTTSH ngày càng sôi động.
Có thể kể đến các công trình: Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng của
Hoàng Thị Quỳnh Nha năm 2003 [92], Chồm bjoóc mạ của Hoàng Thị Cấp năm 2005
[14], Lượn then ở miền đông Cao Bằng của Triệu Thị Mai năm 2010 [78], Thơ ca
dân gian Tày Nùng xứ Lạng của Nguyễn Duy Bắc năm 2012 [5], Iếu – dân ca dân
tộc Tày của nhóm tác giả Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng năm 2012
[22], Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương do Hoàng Văn Páo chủ biên năm
2012 [108], Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày của các tác giả Hoàng Triều
Ân, Hoàng Quyết năm 2014 [127], Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể do Nguyễn
Thị Yên chủ biên năm 2014 [192], Lượn rọi – hát đối đáp của của người Tày của các
tác giả Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào năm 2016 [128], Tàng pây kết chụ (Đường
đi kết bạn tình) của Hoàng Tƣơng Lai năm 2016 [70]. Ở những công trình này, bên
cạnh việc giới thiệu một vài làn điệu mới của DCTTSH Tày nhƣ lượn then, iếu, các
nhà sƣu tầm tiếp tục công bố tƣ liệu DCTTSH thuộc các làn điệu nhƣ lượn cọi, lượn
rọi, lượn slương… đã từng đƣợc giới thiệu từ cuối thế kỉ XX, cho thấy trữ lƣợng
phong phú của các nhóm bài hát này.
Trong một chuyến điền dã tại thôn Thiên Tuế, xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn
Chấn, tỉnh Yên Bái năm 2014, chúng tôi đã đƣợc nghệ nhân Hà Đình Tỵ cung cấp tƣ
liệu DCTTSH Tày bao gồm 64 bài cắm nôm dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt.
Qua điểm lại tình hình sƣu tầm nhƣ trên, có thể thấy kho tàng DCTTSH phong
phú, dồi dào và đã đƣợc sƣu tầm, công bố với số lƣợng khá lớn.
12
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày
Trong tƣơng quan so sánh với lịch sử nghiên cứu dân ca của các DTTS khác,
DCTTSH Tày đƣợc nghiên cứu từ khá sớm. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy có thể phân
loại tài liệu nghiên cứu về DCTTSH Tày thành hai dạng. Dạng thứ nhất là các công
trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, trong đó nội dung nghiên cứu thƣờng nằm ở các
bài giới thiệu ở đầu sách. Dạng công trình thứ hai là các công trình nghiên cứu về một
thể loại của DCTTSH Tày ở một địa phƣơng cụ thể, hoặc về một khía cạnh của dân ca
Tày. Ở các công trình thuộc hai dạng tài liệu này, các vấn đề của DCTTSH Tày ít
nhiều đƣợc nghiên cứu ở các phƣơng diện khác nhau. Chúng tôi lƣợc thuật kết quả
nghiên cứu ở hai dạng công trình đó nhƣ sau:
Thứ nhất, nhóm các chỉ dẫn sơ bộ, khái quát trong các bài giới thiệu ở các sách
công bố tư liệu DCTTSH Tày: Trong các bộ sƣu tập tài liệu dân ca, trƣớc khi công bố
với độc giả kết quả sƣu tầm, biên dịch của mình về DCTTSH, các soạn giả thƣờng có
một bài giới thiệu mang tính chỉ dẫn về đặc điểm của các bài hát đƣợc công bố. Nội
dung chính của hệ thống bài giới thiệu này là cái nhìn tổng thể về các bài hát đó nhƣ
tên gọi, sự phân loại và sơ bộ đặc điểm nội dung, nghệ thuật lời ca, phƣơng thức diễn
xƣớng của từng nhóm bài hát.
Về tên gọi, các nhà nghiên cứu trong các bài giới thiệu đầu bộ sách sƣu tập dân
ca có xu hƣớng coi lượn là dân ca giao duyên – một hình thức của DCTTSH Tày. Đây
là cách hiểu lượn theo nghĩa hẹp. Đại diện cho quan điểm này là Cung văn Lƣợc, Lê
Bích Ngân với công trình Lượn cọi Tày – Nùng xuất bản năm 1987 [76], Phƣơng
Bằng (hay chính là Lục Văn Pảo) và Lã Văn Lô với công trình Lượn slương xuất bản
năm 1992 [7], Lục Văn Pảo với công trình Lượn cọi xuất bản năm 1994 [117], Triệu
Thị Mai với công trình Lượn then ở miền đông Cao Bằng xuất bản năm 2010 [78],
Hoàng Văn Páo và nhóm tác giả với công trình Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn
slương xuất bản năm 2012 [108], Nguyễn Duy Bắc với công trình Thơ ca dân gian
Tày – Nùng xứ Lạng xuất bản năm 2012 [5], Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân với công
trình Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày xuất bản năm 2014 [127], Dƣơng
Văn Sách, Dƣơng Thị Đào với công trình Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày
xuất bản năm 2016 [128].
Ở sách Lượn cọi Tày – Nùng [76], các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân
nhấn mạnh ngƣời Tày - Nùng gọi các lời ca tiếng hát trữ tình là sli – lượn, nhƣng chỉ
13
những bài dùng để hát đối đáp nam nữ và theo làn điệu nhất định mới đƣợc gọi là
lượn, tức không bao gồm hát đám cƣới và hát then nghi lễ. Các tác giả tập trung giới
thiệu về lượn cọi. Lượn cọi có nhiều cung, mỗi cung lại gồm nhiều bài. Tuy nhiên,
những nhận định, phân tích về mảng dân ca này chƣa đƣợc các tác giả đi sâu.
Về phân loại, các tác giả Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn
trong công trình Văn hóa dân gian Tày đã có sự phân chia các thể tài thơ ca sinh hoạt
của ngƣời Tày khá rõ ràng và hợp lí thành ba nhóm: Những bài hát giao duyên nhƣ
lượn, phong slư; những bài hát vui chơi của trẻ em nhƣ đồng dao và hát ru em; các thể
loại trung gian bao gồm “một bộ phận cấu tố phức tạp (chữ dùng của Lục Văn Pảo)
đƣợc diễn xƣớng theo lối hát” [69; tr. 213]. Ở nhóm này, các tác giả đã đƣa ra những
nét phác thảo chung nhất về nội dung và đặc điểm diễn xƣớng. Tuy thế, có một điều
bất hợp lí nhỏ là các tác giả đã xếp cả tục ngữ, câu đố vào nhóm loại hình trung gian.
Tục ngữ Tày có phƣơng thức diễn xƣớng là nói, không hề có sự gắn kết với yếu tố âm
nhạc. Trong khi đó, một bộ phận câu đố Tày lại có cấu tạo dài thành bài, đƣợc hát
thành các bài hát đối đáp trong một cuộc hát hai vế nhƣ trong diễn xƣớng iếu. Vì thế,
sẽ là ổn thỏa hơn và phù hợp với thực tế kho tàng DCTTSH Tày hơn nếu nhƣ các tác
giả chỉ xếp phuối pác, phuối rọi và các câu đố dài vào nhóm các thể tài trung gian.
Năm 2012, trong công trình Thơ ca dân gian Tày - Nùng xứ Lạng [5], PGS.
TS Nguyễn Duy Bắc đã giới thiệu về thơ ca dân gian của ngƣời Tày, Nùng ở Lạng
Sơn theo hƣớng phân định rõ ràng Tày – Nùng, trong đó có phân loại DCTTSH của
ngƣời Tày. Theo đó, ngƣời Tày có lượn và phong slư. Lượn có lượn slương và lượn
cọi. Ở mỗi loại lượn này lại có những thành phần nhỏ hơn. Khi trình bày về lượn và
phong slư, tác giả đã chỉ rõ đặc điểm nội dung phản ánh hình thức. Bên cạnh đó, tác
giả còn giới thiệu dân ca nghi lễ Tày là quan lang, pả mẻ và then.
Về đặc điểm của từng nhóm bài hát: Các tác giả đã nêu ra những nét chung nhất
về nội dung phản ánh, nghệ thuật lời ca… trong các bài giới thiệu về nhóm bài hát
đƣợc công bố ở phần sau đó. Sớm nhất, có thể kể đến cuốn Rọi – Vốn cổ văn học dân
tộc Tày - Nùng của nhóm tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Võ Quang
Nhơn. Ở đây, các tác giả giới thiệu địa bàn lƣu truyền, nội dung, nghệ thuật và sự diễn
xƣớng của các bài rọi đƣợc công bố trong sách này. Theo đó, rọi rất phổ biến ở khu ta
và ngoài khu (khu với ý nghĩa chỉ khu tự trị Việt Bắc cũ). Nội dung của rọi chủ yếu là
phản ánh tình yêu nam nữ. Về diễn xƣớng, rọi thuộc kiểu hát đối đáp ứng khẩu song
14
- Xem thêm -