Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người tày và người thái ở việt nam...

Tài liệu So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người tày và người thái ở việt nam

.PDF
170
294
143

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ______________ HÀ XUÂN HƢƠNG SO SÁNH DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI Ở VIỆT NAM Ngành: VĂN HỌC DÂN GIAN Mã số: 9 22 01 25 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết luận khoa học trong đề tài là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong các công trình khác. Nội dung đề tài có tham khảo và sử dụng các thông tin đƣợc đăng tải trên các sách, tạp chí theo danh mục tài liệu tham khảo của đề tài. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng năm 201 TÁC GIẢ LUẬN ÁN HÀ XUÂN HƢƠNG LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới GS. TS Nguyễn Xuân Kính – ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án. Tôi xin chân thành cảm ơn Học viên Khoa học Xã hội đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa học và luận án này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã chia sẻ nhiều tƣ liệu và kinh nghiệm quý liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận án. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng năm 201 TÁC GIẢ LUẬN ÁN MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN ............................................................................................... 11 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................................. 11 1.2. Luận án, sự kế thừa và phát triển............................................................................ 25 1.3. Cơ sở lí luận............................................................................................................ 29 CHƢƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI TÀY, THÁI Ở VIỆT NAM VÀ DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA HỌ .................................................................... 45 2.1. Khái quát về ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam............................................... 45 2.2. Dân ca trữ tình sinh hoạt của ngƣời Tày và ngƣời Thái – nhận diện và phân loại........... 65 CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG ĐỒNG CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI .............................................. 73 3.1. Sự tƣơng đồng trong việc phản ánh đời sống hiện thực ở nông thôn miền núi và tình cảm con ngƣời ................................................................................................... 73 3.2. Sự tƣơng đồng về cách thức thể hiện tình cảm của nhân vật trữ tình .................... 85 3.3. Sự tƣơng đồng trong việc sử dụng biểu tƣợng hoa ................................................ 93 3.4. Sự tƣơng đồng về trình tự diễn xƣớng hát đối đáp và sự tham gia của âm nhạc vào diễn xƣớng .............................................................................................................. 97 3.5. Iếu và cắm nôm – sự giao thoa của dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái .............. 103 CHƢƠNG 4: NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA DÂN CA TRỮ TÌNH SINH HOẠT CỦA NGƢỜI TÀY VÀ NGƢỜI THÁI ...................................................... 109 4.1. Sự khác biệt về nhân vật trữ tình .......................................................................... 109 4.2. Sự khác biệt về thi pháp lời thơ nghệ thuật .......................................................... 117 4.3. Sự khác biệt về đặc điểm diễn xƣớng ................................................................... 138 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ........................ 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 152 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt STT Nghĩa của chữ viết tắt 1 DCTTSH Dân ca trữ tình sinh hoạt 2 DTTS Dân tộc thiểu số 3 Nxb Nhà xuất bản 4 PL Phụ lục 5 tr Trang 6 VHDG Văn học dân gian 7 VHSS Văn học so sánh DANH MỤC BẢNG Bảng 1: Tài liệu khảo sát .................................................................................................5 Bảng 2: Thông tin điền dã ...............................................................................................7 Bảng 2.1: Phân loại dân ca của ngƣời Tày và ngƣời Thái ............................................70 Bảng 3.1. Sự xuất hiện của các từ mang sắc thái cầu khiến ..........................................90 Bảng 4.1: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng là con ngƣời và các hình ảnh, biểu tƣợng nguồn gốc thiên nhiên trong DCTTSH Tày, Thái......................... 121 Bảng 4.2: Sự xuất hiện của hình ảnh, biểu tƣợng nƣớc và các hình ảnh, biểu tƣợng có nguồn gốc nhân tạo trong DCTTSH Tày, Thái .......................................... 125 Bảng 4.3: Khảo sát việc sử dụng điển tích trong DCTTSH Tày, Thái ...................... 131 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo lập nên dân tộc. Nó có quan hệ mật thiết với tinh thần, tâm hồn của cả chủng tộc, giúp tạo nên dấu ấn riêng, phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Văn học, với tƣ cách là một thành tố của văn hóa, cũng giữ vai trò ấy. Trong văn học, văn học dân gian (VHDG) giữ vị trí đáng kể và có nhiều ƣu thế trong việc phản ánh tƣ duy, tình cảm của dân tộc. Nghiên cứu VHDG là cần thiết và quan trọng đối với việc góp phần nghiên cứu, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là đối với việc xây dựng khối thịnh vƣợng chung của cộng đồng quốc gia dân tộc trong bối cảnh giao lƣu thời toàn cầu hóa hiện nay. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Bức tranh văn hóa Việt Nam đa diện, đa sắc màu, đƣợc tạo nên bởi quá trình tích hợp các giá trị văn hóa tộc ngƣời vào văn hóa Việt Nam – một phức thể văn hóa đa dạng mà thống nhất. Qua VHDG, chúng ta có thể nhận diện đƣợc sự hòa hợp trong đa dạng của mối quan hệ văn hóa giữa các tộc ngƣời. Vì thế, con đƣờng nghiên cứu so sánh VHDG của các tộc ngƣời sẽ đem tới nhiều khả năng cho việc phát hiện ra những yếu tố văn hóa truyền thống mang tính đặc trƣng tộc ngƣời cũng nhƣ những nét chung, mang tính phổ biến. 1.2. Tày và Thái là hai dân tộc có số dân đông thứ hai và thứ ba trong 54 dân tộc Việt Nam, sinh sống rải rác trong cả nƣớc song tập trung nhiều nhất ở khu vực miền núi phía Bắc. Ngƣời Tày giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng Đông Bắc, ngƣời Thái giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng Tây Bắc. Với những giá trị đặc sắc về văn hóa, hai dân tộc giữ vị trí quan trọng trong tổng thể văn hóa dân gian Việt Nam. Trong đó, phải kể đến vai trò của kho tàng VHDG thấm đẫm hồn cốt dân tộc. 1.3. Trong kho tàng VHDG của ngƣời Tày và ngƣời Thái, truyện cổ và dân ca là hai bộ phận phong phú và tiêu biểu nhất. Dân ca Tày, Thái – với tƣ cách là những bộ phận của văn hóa và VHDG, đã thể hiện khá sinh động và rõ nét đời sống văn hóa và tâm hồn dân tộc bởi nó ra đời từ đời sống của nhân dân, rồi lại quay trở lại phục vụ chính đời sống ấy trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với phong tục, tập quán, tín ngƣỡng, hội hè… của tộc ngƣời. Do đó, có thể nói, dân ca Tày, Thái thể hiện một cách tập trung nhất và rõ ràng nhất bản sắc văn hóa của hai dân tộc. 1 1.4. Dân ca có ở hầu hết các dân tộc và là nghệ thuật mang tính chất tổng hợp, gồm ngôn từ, diễn xƣớng, âm nhạc, vũ đạo, đạo cụ. Ở ngƣời Kinh, do điều kiện riêng nên bộ phận ngôn từ trong dân ca dần tách thành một thể loại độc lập là ca dao. Trái lại, ở các dân tộc thiểu số (DTTS), bộ phận ngôn từ chƣa phân thành một thể loại độc lập. Vì thế, các nhà nghiên cứu thƣờng nhắc đến dân ca các DTTS mà không nhắc đến ca dao của họ nhƣ với ngƣời Kinh. Đây cũng là lí do để dân ca đƣợc coi là đối tƣợng nghiên cứu của VHDG, dù nó là nghệ thuật biểu diễn. 1.5. Xét riêng về DCTTSH, nếu nhƣ ngƣời Tày có lượn cọi (hát gọi bạn yêu), lượn slương (hát thƣơng yêu), lượn nàng ới (hát gọi ngƣời con gái), lượn then (hát then), phong slư (thƣ tình con trai gửi cho con gái và ngƣợc lại)… thì ngƣời Thái có khắp báo xao (hát trai gái), khắp xai peng (hát dây tình), khắp hạn khuống (hát nơi sàn chơi), khắp loong tôông (hát nơi cánh đồng), khắp xư (hát thơ)… Sự phong phú, đa dạng, sự đặc sắc cả về nội dung, thi pháp lời thơ nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng của DCTTSH và mức độ gắn bó của chúng với mọi mặt đời sống nhân dân khiến chúng tôi đặc biệt quan tâm đến loại dân ca này. DCTTSH của mỗi dân tộc vừa mang những điểm tƣơng đồng, vừa mang những điểm dị biệt. Một sự so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái sẽ góp phần khám phá tính chung, tính phổ biến trong văn hóa của hai dân tộc này, đồng thời làm phát lộ tính riêng đặc thù của mỗi dân tộc trong bức tranh văn hóa Việt Nam, góp phần khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vấn đề này lại chƣa nhận đƣợc sự quan tâm thỏa đáng từ các nhà nghiên cứu VHDG. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề So sánh dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái ở Việt Nam làm đề tài nghiên cứu với mong muốn chỉ ra và lí giải đƣợc những điểm giống và khác nhau của hai bộ phận dân ca, trên cơ sở đó thấy đƣợc cái chung của văn hóa các dân tộc trên đất nƣớc Việt Nam, đồng thời thấy đƣợc nét đặc thù dân tộc của văn hóa ngƣời Tày và ngƣời Thái. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Thực hiện luận án này, chúng tôi xác định mục đích nghiên cứu là qua so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, thấy rõ tính thống nhất và đa dạng của dân ca các dân tộc Việt Nam nói chung, DCTTSH Tày, Thái nói riêng, lí giải nguyên nhân của sự thống nhất, đa dạng đó. 2 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tập hợp, hệ thống theo lựa chọn có chủ ý các tƣ liệu DCTTSH Tày, Thái dựa trên các nguồn tƣ liệu sƣu tầm, công bố tƣ liệu dân ca dƣới hình thức song ngữ. - Điền dã, khảo sát diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái (còn quan sát đƣợc), phỏng vấn hồi cố các nghệ nhân ngƣời Tày, Thái ở khu vực miền núi phía Bắc; khảo sát các tƣ liệu phục dựng diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái; quan sát mối quan hệ giữa văn bản và diễn xƣớng trong thực tế đời sống của hai dân tộc Tày, Thái. - Tìm hiểu các vấn đề về lí luận văn học so sánh (VHSS) nói chung và VHSS trong nghiên cứu văn hóa, VHDG nói riêng; hệ thống hóa lí luận về bản sắc văn hóa dân tộc, dân ca và diễn xƣớng. - Khái quát về tộc ngƣời và diện mạo DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. - Khảo sát các khía cạnh của DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái (qua văn bản là chính, kết hợp với sự quan sát diễn xƣớng dân ca), lấy đó làm cơ sở cho sự so sánh. - Phân tích các điểm tƣơng đồng và khác biệt của DCTTSH Tày, Thái. - Lí giải nguyên nhân của sự tƣơng đồng và khác biệt đó, chỉ ra nội hàm văn hóa ẩn chứa trong đó để dẫn tới nhận thức rằng sự tƣơng đồng chính là tính thống nhất, sự khác biệt chính là bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái, tạo nên tính đa dạng của văn hóa các dân tộc. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Thực hiện đề tài so sánh DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái ở Việt Nam, chúng tôi chỉ nghiên cứu loại dân ca này của ngƣời Tày ở vùng Đông Bắc và ngƣời Thái ở vùng Tây Bắc. Vùng Đông Bắc bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lào Cai và một phần của tỉnh Yên Bái. Vùng Tây Bắc bao gồm các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình và một phần tỉnh Yên Bái. Về nguồn tƣ liệu, các kết quả so sánh của chúng tôi trong luận án là dựa trên cơ sở khảo sát kĩ càng các nguồn tƣ liệu DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Song, chúng tôi nhận thấy kho tàng DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái có số lƣợng tƣơng đối lớn và phong phú về thể loại. Hơn nữa, việc đƣa toàn bộ các tài liệu vào trong công trình 3 là không thật cần thiết. Chúng ta hoàn toàn có thể sử dụng vai trò đại diện của tài liệu VHDG trong công việc nghiên cứu. Lí do của sự không cần thiết nói trên nằm ở tính lặp lại của VHDG nói chung, dân ca nói riêng. Nếu nhƣ ở văn học viết, nhà nghiên cứu cần đọc hết các tác phẩm của một tác giả nào đó thì mới có thể đƣa ra những nhận định, đánh giá khoa học về tác giả đó. Nhƣng, ở VHDG, nhà nghiên cứu chỉ cần biết một số lƣợng tác phẩm vừa đủ, có tính chất đại diện. VHDG là mảnh đất của những yếu tố lặp đi lặp lại, của những điểm chung mang tính cộng đồng, thời đại. Riêng ở dân ca, tính lặp lại của các yếu tố trong dân ca là rất cao và phổ biến. Chỉ bằng quan sát, bạn đọc cũng dễ dàng nhận ra những sự giống nhau giữa các văn bản dân ca. Do vậy, quan điểm của chúng tôi là chỉ cần khảo sát giới hạn ở một số lƣợng tác phẩm mà ngoài số lƣợng đó chúng ta không phát hiện thêm điều gì mới. Sự hạn chế nguồn tƣ liệu của chúng tôi là giống nhƣ việc làm của tác giả V.IA. Propp trong công trình Hình thái học truyện cổ tích [165]. Khi thống kê, chúng tôi sử dụng các tƣ liệu dân ca dẫn từ các tài liệu đã đƣợc xuất bản và dƣới hình thức song ngữ Tày – Kinh đối với DCTTSH Tày và Thái – Kinh đối với DCTTSH Thái. Các tài liệu đƣợc lựa chọn phải có sự ăn khớp nhau về số dòng thơ trong bản phiên âm và bản dịch sang tiếng Việt, đồng thời bản dịch phải sát nghĩa. Trong đó, chúng tôi ƣu tiên những công trình mà tác giả là những ngƣời con của dân tộc Tày, Thái hoặc từng có thời gian sinh sống cùng ngƣời bản tộc, có lợi thế trong việc am hiểu văn hóa và ngôn ngữ dân tộc. Họ dành rất nhiều công sức, tâm huyết, trung thực và trách nhiệm trong việc sƣu tầm, biên soạn. Vì thế, việc biên dịch của các tác giả đó khá sát với cách cảm, cách nghĩ và đặc trƣng thi pháp thể loại của DCTTSH Tày, Thái. Những tiêu chí nhƣ vậy sẽ đem đến tính tin cậy cho tài liệu đƣợc lựa chọn để khảo sát, nghiên cứu của luận án. Vì những lí do này, đối với DCTTSH Tày, trong rất nhiều mảng, chúng tôi lựa chọn iếu, lượn slương, lượn cọi, phong slư, rọi. Ở từng mảng, chúng tôi chỉ lựa chọn những bản tiêu biểu, có chất lƣợng để khảo sát. Cụ thể, chúng tôi lựa chọn dẫn 500 bài dân ca với 4216 câu. Đối với DCTTSH Thái, chúng tôi dẫn 286 bài DCTTSH Thái với 6068 câu. Sự lựa chọn dẫn này là có chủ ý khi chúng tôi nhận thấy các hiện tƣợng đã đƣợc hàm chứa khá đầy đủ trong 500 bài DCTTSH Tày và 286 bài DCTTSH Thái đƣợc dẫn. Số lƣợng bài cụ thể trong các tài liệu dân ca đƣợc lựa chọn nhƣ sau: 4 Bảng 1: Tài liệu khảo sát STT Mã tài liệu Tài liệu Số bài đƣợc lựa chọn Tày 1 Phƣơng Bằng (sƣu tầm, phiên âm chữ Nôm và dịch) [6] 5 (2012), Phong Slư, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 2 Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng (sƣu [22] tầm, biên dịch) (2012), Iếu – Dân ca dân tộc Tày, Nxb 50 Văn hóa dân tộc, Hà Nội 3 Nhiều tác giả (1970), Rọi (Vốn cổ văn học dân tộc Tày – [99] 50 Nùng), Nxb Dân tộc Việt Bắc 4 Nhiều tác giả (2012), Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, [108] lượn slương, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 200 5 Lục Văn Pảo (sƣu tầm, phiên âm, dịch) (1994), Lượn [117] 150 cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 6 Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào (sƣu tầm) (2016), [128] Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 45 Tổng 500 Thái 7 Nguyễn Văn Hòa (sƣu tầm, biên dịch) (2001), Truyện cổ [50] và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 49 8 Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm, biên dịch) (2012), [121] Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 – Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân tộc, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu, Hà Nội 190 9 Đỗ Thị Tấc (sƣu tầm và dịch) (2012), Dân ca Thái Lai [134] 47 Châu, Quyển 1 – Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội Tổng 286 5 Số lời còn lại của các công trình kể trên và các tài liệu DCTTSH khác của ngƣời Tày, Thái, chúng tôi sử dụng làm cơ sở tham khảo, đối chiếu, kiểm tra. Chẳng hạn, ở DCTTSH Tày có các công trình nhƣ Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng [92], Chồm bjoóc mạ [14], Lượn then ở miền đông Cao Bằng [78], Tàng pây kết chụ (Đường đi kết bạn tình) [70], Thành ngữ - tục ngữ - ca dao dân tộc Tày [127], Thơ ca dân gian Tày Nùng xứ Lạng [5], Tục ngữ, ca dao Tày vùng hồ Ba Bể [192], tƣ liệu điền dã của tác giả luận án; ở ngƣời Thái có công trình: Khắp sứ lam của người Thái đen xã Noong Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên [49]. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Theo Hà Văn Tấn, “phƣơng pháp luận khoa học là hệ thống lí thuyết lí giải đối tƣợng nghiên cứu cũng nhƣ lí giải các phƣơng pháp tiếp cận đối tƣợng đó” [55; tr. 10]. Tác giả Nguyễn Thiện Giáp trong cuốn Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ [40] cũng nói tƣơng tự nhƣ vậy. Vậy, phƣơng pháp luận định hƣớng cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án này là: Trong khi sử dụng các quy phạm của nghiên cứu văn học, không quên tính đặc thù của VHDG; khi so sánh DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, chúng tôi chú ý đến mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Cái chung ở đây là tính toàn nhân loại của VHDG, tính tƣơng đồng cao của dân ca các dân tộc ở Việt Nam. Cái riêng ở đây là tính đặc thù của DCTTSH mỗi dân tộc. Theo ý nghĩa triết học, cái chung đƣợc lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tƣợng hay quá trình riêng lẻ khác; cái riêng là một sự vật, một hiện tƣợng, một quá trình riêng lẻ nhất định. Phƣơng pháp luận cũng chỉ ra rằng, để thực hiện bản luận án này, chúng tôi cần áp dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: phƣơng pháp điền dã, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp liên ngành. 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp điền dã Luận án thực hiện trên cơ sở tƣ liệu là DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Đây là đề tài nghiên cứu dân ca nên cần đặt nó trong môi trƣờng diễn xƣớng cụ thể để thấy đƣợc hết tính sinh động của diễn xƣớng và thấy đƣợc mối liên hệ giữa dân ca với phong tục, tập quán, tín ngƣỡng... của dân tộc. Vì thế, chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp điền dã. Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành điền dã tại một số vùng cƣ trú của đồng bào Tày, Thái ở vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Tại đó, chúng tôi quan sát 6 đời sống sinh hoạt của đồng bào Tày, Thái, phỏng vấn ngƣời dân, tiếp cận với các diễn xƣớng DCTTSH Tày, Thái. Chúng tôi đƣợc chứng kiến các diễn xƣớng có tính ngẫu hứng khi làm ngô, làm lúa, các điệu hát rong chơi… của ngƣời Thái ở Yên Bái, diễn xƣớng lượn slương của ngƣời Tày ở Bắc Kạn và đƣợc chứng kiến các nghệ nhân phục hồi các diễn xƣớng lượn của ngƣời Tày ở Bắc Kạn, Hà Giang, Lạng Sơn và khắp của ngƣời Thái ở Yên Bái. Chúng tôi lựa chọn các địa bàn điền dã nhƣ thế bởi đó là nơi tập trung đông đồng bào Tày/ Thái sinh sống, còn lƣu giữ đƣợc nhiều đặc điểm văn hóa truyền thống của dân tộc. Các thông tin đƣợc cụ thể hóa trong bảng dƣới đây: Bảng 2: Thông tin điền dã Địa điểm STT Thời gian Thông tin viên Tày 1 Xã Quỳnh Sơn, huyện Bắc Sơn, 15/2 – 5/3/ 2017 tỉnh Lạng Sơn 2 3 Dƣơng Công Thông Dƣơng Công Nam Thị trấn Yên Minh, huyện Yên 24/4 - 28/4/2018 Nguyễn Thị Hà Minh, tỉnh Hà Giang Hoàng Thị Đại Xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn 7/2 - 12/2/2014 Hà Đình Tỵ Chấn, tỉnh Yên Bái 4 Xã Lam Sơn, huyện Na Rì, tỉnh 12/2 – 19/2/2016 Nông Minh Cƣơng Bắc Kạn Thái 4 5 Xã Sơn A, huyện Văn Chấn, tỉnh 7/2 – 21/2/2016 Lò Thị Sa Yên Bái Sầm Văn Tuấn Xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn, 11/7 - 18/7/2018 Lƣờng Thủy Chung tỉnh Yên Bái Vì Thị Pọm Lò Thị Sáng Lò Thị Tía Qua điền dã, chúng tôi thu thập các thông tin hữu ích cho quá trình so sánh và lí giải. Việc thu thập các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội tộc ngƣời sẽ cho kết quả là những 7 thông tin định tính góp phần chứng minh và lí giải cho những đặc điểm tƣơng đồng và khác biệt của DCTTSH của hai dân tộc. 4.2.2. Phương pháp thống kê Về phƣơng pháp thống kê, trong công trình Văn hóa dân gian – Những phương pháp nghiên cứu [101; tr. 127 – 141], Nguyễn Xuân Kính đã khẳng định đây là một trong số các phƣơng pháp nghiên cứu chính xác bởi mục đích của việc nghiên cứu là tìm ra giá trị và giải thích, làm sáng tỏ các quy luật, tức những sự lặp lại của các hiện tƣợng cùng loại ở một mức độ nhất định nào đó. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi thống kê thông tin về các tài liệu công bố dân ca theo năm và theo dân tộc phục vụ cho việc lƣợc thuật tình hình sƣu tầm, nghiên cứu, thống kê các bài DCTTSH Tày, Thái đƣợc lựa chọn làm đối tƣợng khảo sát. Đặc biệt, chúng tôi thống kê các số liệu cụ thể liên quan đến nội dung, thi pháp của DCTTSH Tày, Thái nhƣ tần suất xuất hiện của các điển tích, biểu tƣợng, thể thơ. Các kết quả thống kê mang tính định lƣợng nhƣ thế sẽ là căn cứ để chúng tôi đƣa ra các suy luận, nhận định khoa học. Đồng thời, việc sử dụng các phƣơng pháp này cũng giúp tăng thêm sức thuyết phục, độ chính xác, tin cậy cho những nhận định khoa học của chúng tôi. 4.2.3. Phương pháp so sánh Ở góc độ là một phƣơng pháp nghiên cứu khoa học, so sánh là phƣơng pháp quen thuộc, đƣợc sử dụng trong nhiều ngành khoa học khác nhau để định tính, định lƣợng hoặc xác định ngôi thứ của các sự vật, hiện tƣợng. Trong nghiên cứu văn hóa dân gian, VHDG, phƣơng pháp so sánh đƣợc dùng để xác định, đánh giá các hiện tƣợng trong mối quan hệ giữa chúng với nhau. Chúng tôi lựa chọn phƣơng pháp so sánh vì mục đích chính của đề tài là làm folklore so sánh. Chỉ có qua so sánh mới chỉ ra đƣợc những tƣơng đồng, khác biệt của hai bộ phận dân ca này ở hai tộc ngƣời Tày, Thái. Dạng thức chính của phƣơng pháp so sánh mà chúng tôi sử dụng là so sánh loại hình lịch sử. Sử dụng phƣơng pháp này, chúng tôi nhằm nhận thức DCTTSH Tày, Thái thông qua việc tìm ra sự tƣơng đồng và khác biệt giữa các yếu tố nhƣ nội dung, thi pháp lời thơ nghệ thuật, đặc điểm diễn xƣớng trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Chúng tôi tìm ra kết cấu bên trong, sự liên hệ giữa DCTTSH Tày, Thái với các yếu tố lịch sử, xã hội để giải thích nguyên nhân, ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng, dị biệt đó. 4.2.4. Phương pháp liên ngành Phƣơng pháp liên ngành là phƣơng pháp nghiên cứu có sự kết hợp giữa nhiều ngành khoa học, trong đó có một ngành đóng vai trò trung tâm, nhƣ tác giả Đinh Gia 8 Khánh đã phân tích trong cuốn sách Văn hóa dân gian – Những phương pháp nghiên cứu [101; tr. 113]. Ở đây, khoa nghiên cứu văn học chú ý đến tính đặc thù của sáng tác dân gian đóng vai trò trung tâm, các ngành khoa học khác nhƣ dân tộc học, lịch sử, văn hóa học… đóng vai trò bổ trợ. Chúng tôi sử dụng các kiến thức về dân tộc học, lịch sử, địa lí… trong một đề tài folklore so sánh để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu về nguyên nhân và ý nghĩa những đặc điểm tƣơng đồng, khác biệt trong DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái. Cụ thể, thông qua nghiên cứu tài liệu và nghiên cứu các dữ liệu thu thập đƣợc từ việc quan sát văn hóa, lịch sử, xã hội… của tộc ngƣời Tày, Thái, chúng tôi nhằm phát hiện ra sự chuyển hóa các dữ liệu văn hóa, lịch sử, xã hội… thành các dữ liệu văn học, lấy đó làm cơ sở cho những lí giải về sự giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái; nhận định về mối liên hệ cũng nhƣ vai trò của của DCTTSH đối với văn hóa tộc ngƣời nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên đặt DCTTSH – một bộ phận quan trọng của VHDG nói riêng, văn hóa nói chung của ngƣời Tày và ngƣời Thái - dƣới góc nhìn so sánh. Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc, luận án đã kế thừa, bổ sung và phát triển sâu hơn các luận điểm đó, đặt chúng trong một hệ quy chiếu mới là sự so sánh, đối chiếu. Công trình đã chỉ ra và lí giải nguyên nhân, ý nghĩa của những điểm tƣơng đồng và khác biệt trên nhiều phƣơng diện nhƣ: nội dung, thi pháp, đặc điểm diễn xƣớng của DCTTSH Tày, Thái. Luận án hƣớng tới việc từ các đặc điểm của dân ca để góp thêm tiếng nói khẳng định tính chung của văn hóa các dân tộc Việt Nam, là cơ sở để xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất; đồng thời, khẳng định tính đặc thù dân tộc về văn hóa của hai dân tộc Tày, Thái, giúp khu biệt hai dân tộc vốn gần gũi với nhau về nhiều mặt. Luận án đƣợc thực hiện trong sự quan sát, liên tƣởng với văn học, văn hóa của ngƣời Kinh nhằm cung cấp một góc độ nhìn nhận toàn diện hơn, rõ ràng và khách quan hơn về tính chung và tính riêng của DCTTSH Tày, Thái. Kết quả nghiên cứu của luận án khẳng định hƣớng nghiên cứu so sánh DCTTSH nói riêng, VHDG nói chung là hƣớng nghiên cứu có tính khả thi, mang lại kết quả là sự nhận thức sâu sắc hơn về mối liên hệ giữa văn học với môi trƣờng tự nhiên, văn hóa, lịch sử… của dân tộc, và quan trọng nhất, là làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc trong sự hài hòa với văn hóa cộng đồng mang tính khu vực, cao hơn là quốc gia, nhân loại. 9 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về lí luận Vận dụng kết hợp các dạng thức khác nhau của phƣơng pháp so sánh: so sánh loại hình lịch sử, so sánh từ cách tiếp cận dân tộc học, luận án bƣớc đầu làm rõ và đánh giá các điểm tƣơng đồng, khác biệt về mặt nội dung, thi pháp và đặc điểm diễn xƣớng của DCTTSH Tày, Thái trong mối liên hệ với các đặc điểm tự nhiên, văn hóa, xã hội, lịch sử tộc ngƣời. Việc so sánh dân ca để làm rõ bản sắc văn hóa của ngƣời Tày, Thái giúp hai dân tộc tự khẳng định chính mình. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án có thể đóng góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận trong việc tìm hiểu cái chung – cái riêng, hay chính là cái phổ biến và cái đặc thù của dân ca các dân tộc, quan hệ giữa văn hóa dân tộc, vùng miền với văn hóa quốc gia thống nhất. 6.2. Về thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa thực tiễn. Với mục đích hƣớng tới việc tìm hiểu sâu sắc về những đặc điểm giống và khác nhau của DCTTSH Tày, Thái, vai trò của những đặc điểm đó trong việc thể hiện bản sắc văn hóa tộc ngƣời, hi vọng các kết quả của luận án có thể là cơ sở cho việc thực thi bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa đặc sắc của hai DTTS hiện đang giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng ở khu vực miền núi phía Bắc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo đƣờng lối, chính sách chung của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án còn có giá trị đối với việc nghiên cứu, giảng dạy DCTTSH của ngƣời Tày và ngƣời Thái nói riêng, VHDG nói chung. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung của luận án đƣợc triển khai với bốn chƣơng. Cụ thể nhƣ sau: Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận của luận án Chƣơng 2: Khái quát về người Tày, Thái ở Việt Nam và dân ca trữ tình sinh hoạt của họ Chƣơng 3: Những điểm tương đồng của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái Chƣơng 4: Những điểm khác biệt của dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái 10 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA LUẬN ÁN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày 1.1.1.1. Tình hình sưu tầm dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày Trong kho tàng dân ca các DTTS, dân ca dân tộc Tày đƣợc sƣu tầm nhiều và sớm hơn cả. Trong đó, dân ca nghi lễ nhận đƣợc sự quan tâm của các nhà sƣu tầm sớm hơn so với DCTTSH. Nếu nhƣ dân ca nghi lễ, mà cụ thể là dân ca đám cƣới Tày đƣợc Nguyễn Văn Huyên sƣu tầm, công bố cả bản chữ Nôm Tày, bản phiên âm và bản dịch bằng tiếng Pháp, đƣợc nhà in Viễn Đông Bác Cổ xuất bản từ năm 1941 với công trình Những khúc ca đám cưới Tày ở Lạng Sơn và Cao Bằng (bản dịch tiếng Việt trong cuốn Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam [55; tr. 497 – 482]), thì phải đến năm 1970, DCTTSH của ngƣời Tày mới đƣợc công bố lần đầu tiên qua cuốn Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày Nùng [99] do nhóm các tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Trần Vĩnh, Võ Quang Nhơn sƣu tầm và dịch. Rọi (phuối rọi, phuối pác, lượn tói) là một hình thức hát đối đáp theo kiểu ứng khẩu tự nhiên, không cầu kì. Trong công trình, nhóm tác giả đã giới thiệu 231 bài, chủ yếu là về dân ca tình yêu. Điều đáng quý là ngay từ công trình đầu tiên công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, các tác giả đã có ý thức công bố dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt. Năm 1987, các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân công bố tƣ liệu dân ca về lượn cọi thông qua cuốn Lượn cọi Tày Nùng [76]. Hai tác giả đã căn cứ vào 10 bản chữ Nôm Tày ghi chép về lượn cọi sƣu tầm đƣợc ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Cao Bằng để lọc lựa ra một số bài hay và giới thiệu tới độc giả. Đáng tiếc, các tác giả chỉ giới thiệu bản dịch thơ ra tiếng Việt. Những năm 90 của thế kỉ XX, giới trí thức dân tộc Tày đã rất nỗ lực trong việc giới thiệu di sản DCTTSH của dân tộc. Sự ra đời của các cuốn sách Phong slư năm 1991 [115], Lượn slương năm 1992 [7], Lượn cọi năm 1994 [117] của tác giả Lục Văn Pảo (còn gọi là Phƣơng Bằng) là kết quả của sự nỗ lực ấy. Trong đó, đáng chú ý là lượn slương và lượn cọi có số lƣợng đƣợc công bố hết sức dồi dào (lượn slương đƣợc công bố 2924 câu, lượn cọi đƣợc công bố 7465 câu). Trừ cuốn Phong slư cung cấp tƣ liệu về các bức thƣ tình của nam nữ thanh niên Tày thời xƣa dƣới hình thức là những tác phẩm độc lập riêng rẽ, không liên quan gì đến nhau, các cuốn sách Lượn 11 slương, Lượn cọi sắp xếp các bài dân ca theo trình tự của diễn xƣớng trong thực tế, khiến qua đó ngƣời đọc hình dung đƣợc đáng kể về cuộc hát. Cả ba nhóm bài hát của DCTTSH Tày đều đƣợc giới thiệu dƣới hình thức song ngữ, tức bao gồm phần phiên âm tiếng Tày và phần dịch nghĩa sang tiếng Việt. Một tác giả đƣợc gọi là “ông tiên núi” vì những đóng góp trong việc sƣu tầm, nghiên cứu dân ca H’Mông là Doãn Thanh cũng để tâm sƣu tầm DCTTSH của ngƣời Tày. Trong công trình Lượn cằm Tày Hoàng Liên Sơn [138], Doãn Thanh đã công bố các bài DCTTSH mà ông sƣu tầm đƣợc và có phân ra các bài lượn có lề lối và lượn tự do, theo hình thức song ngữ. Sang đầu thế kỉ XXI, tình hình công bố tƣ liệu DCTTSH ngày càng sôi động. Có thể kể đến các công trình: Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở Cao Bằng của Hoàng Thị Quỳnh Nha năm 2003 [92], Chồm bjoóc mạ của Hoàng Thị Cấp năm 2005 [14], Lượn then ở miền đông Cao Bằng của Triệu Thị Mai năm 2010 [78], Thơ ca dân gian Tày Nùng xứ Lạng của Nguyễn Duy Bắc năm 2012 [5], Iếu – dân ca dân tộc Tày của nhóm tác giả Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tƣớc, Hoàng Nừng năm 2012 [22], Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương do Hoàng Văn Páo chủ biên năm 2012 [108], Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày của các tác giả Hoàng Triều Ân, Hoàng Quyết năm 2014 [127], Tục ngữ ca dao Tày vùng hồ Ba Bể do Nguyễn Thị Yên chủ biên năm 2014 [192], Lượn rọi – hát đối đáp của của người Tày của các tác giả Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào năm 2016 [128], Tàng pây kết chụ (Đường đi kết bạn tình) của Hoàng Tƣơng Lai năm 2016 [70]. Ở những công trình này, bên cạnh việc giới thiệu một vài làn điệu mới của DCTTSH Tày nhƣ lượn then, iếu, các nhà sƣu tầm tiếp tục công bố tƣ liệu DCTTSH thuộc các làn điệu nhƣ lượn cọi, lượn rọi, lượn slương… đã từng đƣợc giới thiệu từ cuối thế kỉ XX, cho thấy trữ lƣợng phong phú của các nhóm bài hát này. Trong một chuyến điền dã tại thôn Thiên Tuế, xã Thƣợng Bằng La, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái năm 2014, chúng tôi đã đƣợc nghệ nhân Hà Đình Tỵ cung cấp tƣ liệu DCTTSH Tày bao gồm 64 bài cắm nôm dƣới hình thức song ngữ Tày – Việt. Qua điểm lại tình hình sƣu tầm nhƣ trên, có thể thấy kho tàng DCTTSH phong phú, dồi dào và đã đƣợc sƣu tầm, công bố với số lƣợng khá lớn. 12 1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày Trong tƣơng quan so sánh với lịch sử nghiên cứu dân ca của các DTTS khác, DCTTSH Tày đƣợc nghiên cứu từ khá sớm. Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy có thể phân loại tài liệu nghiên cứu về DCTTSH Tày thành hai dạng. Dạng thứ nhất là các công trình công bố tƣ liệu DCTTSH Tày, trong đó nội dung nghiên cứu thƣờng nằm ở các bài giới thiệu ở đầu sách. Dạng công trình thứ hai là các công trình nghiên cứu về một thể loại của DCTTSH Tày ở một địa phƣơng cụ thể, hoặc về một khía cạnh của dân ca Tày. Ở các công trình thuộc hai dạng tài liệu này, các vấn đề của DCTTSH Tày ít nhiều đƣợc nghiên cứu ở các phƣơng diện khác nhau. Chúng tôi lƣợc thuật kết quả nghiên cứu ở hai dạng công trình đó nhƣ sau: Thứ nhất, nhóm các chỉ dẫn sơ bộ, khái quát trong các bài giới thiệu ở các sách công bố tư liệu DCTTSH Tày: Trong các bộ sƣu tập tài liệu dân ca, trƣớc khi công bố với độc giả kết quả sƣu tầm, biên dịch của mình về DCTTSH, các soạn giả thƣờng có một bài giới thiệu mang tính chỉ dẫn về đặc điểm của các bài hát đƣợc công bố. Nội dung chính của hệ thống bài giới thiệu này là cái nhìn tổng thể về các bài hát đó nhƣ tên gọi, sự phân loại và sơ bộ đặc điểm nội dung, nghệ thuật lời ca, phƣơng thức diễn xƣớng của từng nhóm bài hát. Về tên gọi, các nhà nghiên cứu trong các bài giới thiệu đầu bộ sách sƣu tập dân ca có xu hƣớng coi lượn là dân ca giao duyên – một hình thức của DCTTSH Tày. Đây là cách hiểu lượn theo nghĩa hẹp. Đại diện cho quan điểm này là Cung văn Lƣợc, Lê Bích Ngân với công trình Lượn cọi Tày – Nùng xuất bản năm 1987 [76], Phƣơng Bằng (hay chính là Lục Văn Pảo) và Lã Văn Lô với công trình Lượn slương xuất bản năm 1992 [7], Lục Văn Pảo với công trình Lượn cọi xuất bản năm 1994 [117], Triệu Thị Mai với công trình Lượn then ở miền đông Cao Bằng xuất bản năm 2010 [78], Hoàng Văn Páo và nhóm tác giả với công trình Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương xuất bản năm 2012 [108], Nguyễn Duy Bắc với công trình Thơ ca dân gian Tày – Nùng xứ Lạng xuất bản năm 2012 [5], Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân với công trình Thành ngữ - Tục ngữ - Ca dao dân tộc Tày xuất bản năm 2014 [127], Dƣơng Văn Sách, Dƣơng Thị Đào với công trình Lượn rọi – Hát đối đáp của của người Tày xuất bản năm 2016 [128]. Ở sách Lượn cọi Tày – Nùng [76], các tác giả Cung Văn Lƣợc, Lê Bích Ngân nhấn mạnh ngƣời Tày - Nùng gọi các lời ca tiếng hát trữ tình là sli – lượn, nhƣng chỉ 13 những bài dùng để hát đối đáp nam nữ và theo làn điệu nhất định mới đƣợc gọi là lượn, tức không bao gồm hát đám cƣới và hát then nghi lễ. Các tác giả tập trung giới thiệu về lượn cọi. Lượn cọi có nhiều cung, mỗi cung lại gồm nhiều bài. Tuy nhiên, những nhận định, phân tích về mảng dân ca này chƣa đƣợc các tác giả đi sâu. Về phân loại, các tác giả Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn trong công trình Văn hóa dân gian Tày đã có sự phân chia các thể tài thơ ca sinh hoạt của ngƣời Tày khá rõ ràng và hợp lí thành ba nhóm: Những bài hát giao duyên nhƣ lượn, phong slư; những bài hát vui chơi của trẻ em nhƣ đồng dao và hát ru em; các thể loại trung gian bao gồm “một bộ phận cấu tố phức tạp (chữ dùng của Lục Văn Pảo) đƣợc diễn xƣớng theo lối hát” [69; tr. 213]. Ở nhóm này, các tác giả đã đƣa ra những nét phác thảo chung nhất về nội dung và đặc điểm diễn xƣớng. Tuy thế, có một điều bất hợp lí nhỏ là các tác giả đã xếp cả tục ngữ, câu đố vào nhóm loại hình trung gian. Tục ngữ Tày có phƣơng thức diễn xƣớng là nói, không hề có sự gắn kết với yếu tố âm nhạc. Trong khi đó, một bộ phận câu đố Tày lại có cấu tạo dài thành bài, đƣợc hát thành các bài hát đối đáp trong một cuộc hát hai vế nhƣ trong diễn xƣớng iếu. Vì thế, sẽ là ổn thỏa hơn và phù hợp với thực tế kho tàng DCTTSH Tày hơn nếu nhƣ các tác giả chỉ xếp phuối pác, phuối rọi và các câu đố dài vào nhóm các thể tài trung gian. Năm 2012, trong công trình Thơ ca dân gian Tày - Nùng xứ Lạng [5], PGS. TS Nguyễn Duy Bắc đã giới thiệu về thơ ca dân gian của ngƣời Tày, Nùng ở Lạng Sơn theo hƣớng phân định rõ ràng Tày – Nùng, trong đó có phân loại DCTTSH của ngƣời Tày. Theo đó, ngƣời Tày có lượn và phong slư. Lượn có lượn slương và lượn cọi. Ở mỗi loại lượn này lại có những thành phần nhỏ hơn. Khi trình bày về lượn và phong slư, tác giả đã chỉ rõ đặc điểm nội dung phản ánh hình thức. Bên cạnh đó, tác giả còn giới thiệu dân ca nghi lễ Tày là quan lang, pả mẻ và then. Về đặc điểm của từng nhóm bài hát: Các tác giả đã nêu ra những nét chung nhất về nội dung phản ánh, nghệ thuật lời ca… trong các bài giới thiệu về nhóm bài hát đƣợc công bố ở phần sau đó. Sớm nhất, có thể kể đến cuốn Rọi – Vốn cổ văn học dân tộc Tày - Nùng của nhóm tác giả Trƣơng Lạc Dƣơng, Nông Đình Tuấn, Võ Quang Nhơn. Ở đây, các tác giả giới thiệu địa bàn lƣu truyền, nội dung, nghệ thuật và sự diễn xƣớng của các bài rọi đƣợc công bố trong sách này. Theo đó, rọi rất phổ biến ở khu ta và ngoài khu (khu với ý nghĩa chỉ khu tự trị Việt Bắc cũ). Nội dung của rọi chủ yếu là phản ánh tình yêu nam nữ. Về diễn xƣớng, rọi thuộc kiểu hát đối đáp ứng khẩu song 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan