Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ So sánh vẻ đẹp của người phụ nữ việt nam qua thúy kiều (truyện kiều của nguyễn d...

Tài liệu So sánh vẻ đẹp của người phụ nữ việt nam qua thúy kiều (truyện kiều của nguyễn du) và vẻ đẹp người phụ nữ triều tiên qua sung chun hyang (truyện xuân hương)

.PDF
81
1108
77

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ========== KIM YU RI SO SÁNH VẺ ĐẸP NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA THÚY KIỀU (“TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU) VÀ VẺ ĐẸP NGƯỜI PHỤ NỮ TRIỀU TIÊN QUA SUNG CHUN HYANG (“TRUYỆN XUÂN HƯƠNG”) Chuyên ngành: Việt Nam học Mã số: 60 22 01 13 LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN TẤN HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những trích dẫn đều được chú nguồn đầy đủ, đúng quy cách. Nếu vi phạm tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2016 Học viên Kim Yu Ri MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: VẺ ĐẸP NGƯỜI PHỤ NỮ - MỘT PHƯƠNG DIỆN TẠO NÊN VẺ ĐẸP ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI DÂN TỘC ............................... 9 1.1. Một số vấn đề lí luận ................................................................................. 9 1.2. Vẻ đẹp đất nước, con người dân tộc qua hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm văn học ............................................................................................ 13 Chương 2: VẺ ĐẸP NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA HÌNH TƯỢNG THÚY KIỀU TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU ................... 28 2.1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm ................................................................... 28 2.2. Vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều .............................................................. 35 Chương 3: VẺ ĐẸP NGƯỜI PHỤ NỮ TRIỀU TIÊN QUA HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT XUÂN HƯƠNG TRONG TRUYỆN XUÂN HƯƠNG .......................................................................................................... 51 3.1. Giới thiệu tác phẩm ................................................................................. 51 3.2. Vẻ đẹp hình tượng nhân vật Xuân Hương ............................................... 54 3.3. So sánh nhân vật Thúy Kiều với nhân vật Xuân Hương ........................ 66 KẾT LUẬN ................................................................................................... 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 74 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Trong tiến trình phát triển của nhân loại, văn hóa có vai trò to lớn tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội và con người. Văn hóa góp phần định hình bản sắc từng khu vực, tạo nên nét đặc trưng cho mỗi dân tộc khác nhau trên thế giới. Văn hóa còn là một phương tiện giao tiếp thuận lợi, hữu hiệu giữa các dân tộc. Muốn hiểu được một dân tộc, một cộng đồng người thì con đường thuận lợi nhất chính là tìm hiểu văn hóa của họ. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu đã làm thay đổi nhiều quan điểm về giá trị truyền thống. Nghiên cứu văn hóa chính là sự trân trọng và bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Con người Việt Nam thân thiện, anh hùng. Thiên nhiên Việt Nam cũng hết sức đáng yêu. Việt Nam với ngàn năm lịch sử đã sáng tạo nên những giá trị tinh thần quý báu. Cùng với sự phát triển của lịch sử, đất nước Việt Nam cũng có một tài sản văn học nghệ thuật phong phú. Ẩn chứa trong mỗi tác phẩm văn học rất nhiều giá trị văn hóa đặc trưng, về lối hành xử, đời sống tình cảm và suy nghĩ của con người Việt Nam. Trong tiến trình phát triển của văn hóa, người phụ nữ với vai trò che chở và sáng tạo đã trở thành vẻ đẹp văn hóa đặc trưng theo cái nhìn cũa mỗi dân tộc trên thế giới. Tìm hiểu vẻ đẹp của người phụ nữ trong sáng tác văn học cũng là cách để người viết luận văn này được hiểu thêm về vẻ đẹp của người phụ nữ và cả văn hóa Việt Nam. 1.2. Truyện Kiều của Nguyễn Du được xem là một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam. Đây là tác phẩm được dịch và giới thiệu ra nhiều thứ tiếng của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Hàn Quốc, Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng được dịch và giới thệu. Trong những năm gần đây, do sự phát triển kinh tế, chính phủ của hai quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc đã có nhiều giao lưu, hợp tác thân thiết. Hai dân tộc cũng có nhiều chương trình giao lưu văn hóa. 1 Trước đó, tổ tiên của hai dân tộc cũng có nhiều giao lưu. Đó là cuộc tao ngộ giữa các nhà nho Việt Nam và Triều Tiên trong những chuyến công cán đi sứ trên đất Trung Hoa thời trung đại. Điều đó khẳng định bề dày trong mối bang giao giữa hai nước. Nghiên cứu so sánh vẻ đẹp của người phụ nữ trong Truyện Kiều với người phụ nữ trong Truyện Xuân Hương – một tác phẩm cũng nổi tiếng trong văn học trung đại Hàn Quốc sẽ giúp tôi hiểu thêm về văn hóa của Việt Nam. Hơn thế, trên nguyên tắc so sánh hai tác phẩm sẽ giúp tôi hiểu được những tương đồng và khác biệt trong văn hóa Việt Nam và Triều Tiên xưa và Hàn Quốc ngày nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dựa vào hệ thống tài liệu tham khảo và phương pháp giải quyết đề tài, chúng tôi tạm chia thành hai hướng nghiên cứu chính sau đây: 2.1. Những ý kiến bàn đến vẻ đẹp của người phụ nữ trong truyện Nôm Việt Nam thời trung đại Trong phạm vi quan sát của chúng tôi, thể loại truyện Nôm Việt Nam thời trung đại đã trở thành một đối tượng nghiên cứu khá thú vị. Bằng chứng đó là sự thu hút cảm hứng nghiên cứu của rất nhiều học giả. Bản thân nó vẫn còn hàm chứa nhiều vấn đề bí ẩn cần tiếp tục nghiên cứu. Ở đây chúng tôi chỉ chú ý đến những ý kiến bàn đến hình tượng người phụ nữ trong truyện thơ Nôm Việt Nam. Điều đó cho phép chúng tôi hình dung được những yếu tố tạo nên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống cũng như cái nhìn của nhà văn đương thời. Khi bàn đến người phụ nữ trong truyện thơ Nôm, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số nhận xét sau: Trong bài viết “Truyện Nôm khuyết danh – một hiện tượng đặc biệt của văn học Việt Nam” đăng trên Tạp chí Văn học (7/1960), tác giả Bùi Văn Nguyên cũng đề cập đến những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt nam trong truyện Nôm. Ông viết: “Trong việc xây dựng và giữ gìn hạnh phúc lứa 2 đôi người phụ nữ rất được đề cao. Họ đóng vai trò chủ động đấu tranh cho chính nghĩa, cho tình yêu, cho tình thủy chung, giải quyết khó khăn giúp người yêu thoát nạn. Người ta còn thấy nhiều khi bản lĩnh của người phụ nữ còn vững vàng hơ cả phía đàn ông” [31; tr. 11]. Chuyên luận Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm của tác giả Đặng Thanh Lê cũng gây ấn tượng mạnh mẽ trong giới nghiên cứu Truyện Kiều ở Việt Nam thế kỉ XX. Trong cuốn sách này, bà Lê đã nhận xét về người phụ nữ trong truyện Nôm như sau: “Cùng với hình tượng người nông dân trong văn học dân gian, hình tượng người phụ nữ trong truyện Nôm là một biểu hiện của yếu tố dân chủ, của tinh thần nhân đạo chủ nghĩa trong lịch sử tư tưởng, lịch sử văn hóa, lịch sử văn học dân tộc” [14; tr. 85]. Trong chuyên luận Truyện Nôm – nguồn gốc và bản chất thể loại, tác giả Kiều Thu Hoạch cho rằng: “cùng với chủ đề đấu tranh giành hạnh phúc lứa đôi, đấu tranh bảo vệ tình yêu chung thủy, truyện Nôm cũng còn bao hàm những chủ đề có ý nghĩa tư tưởng và xã hội khác... Đó là tôn vinh và ca ngợi những phẩm chất truyền thống của người phụ nữ Việt Nam như chịu thương, chịu khó, bất khuất kiên cường, trung hậu đảm đang...” [11; tr. 249]. Không dừng lại ở đó, tác giả tiếp tục đưa ra nhận xét về bản chất thẩm mĩ của truyện Nôm: “Trong bối cảnh trào lưu nhân văn, truyện Nôm sinh ra để nói về người phụ nữ, truyện Nôm như là thể loại tốt nhất, đầy đủ nhất về đề tài người phụ nữ, trong mọi quan hệ xã hội rộng lớn. Bởi thế, chủ đề về người phụ nữ đấu tranh cho tình yêu tự do, cho hạnh phúc lứa đôi và cho tình yêu chung thủy cũng là chủ đề có tính phổ biến nhất trong hệ thống truyện Nôm”. Tác giả đã nêu ra cảm hứng chủ đạo của truyện Nôm là đề cập đến người phụ nữ và ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam đương thời. 3 2.2. Những ý kiến bàn đến vẻ đẹp của Thúy Kiều ở Việt Nam và Xuân Hương ở Hàn Quốc 2.2.1. Những ý kiến bàn về vẻ đẹp của Thúy Kiều Với vị trí đỉnh cao trong văn học Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du và đặc biệt là hình tượng nhân vật Thúy Kiều đã được khá nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Chúng tôi chú ý đến nhận định của tác giả Đặng Thanh Lê khi bà cho rằng: “Thúy Kiều mang đầy đủ trong con người những nét tính cách xác thực, phong phú, đa dạng nhất so với bất cứ nhân vật nào trong các tác phẩm cổ điển. Và cũng do đó, về nhiều phương diện, Thúy Kiều đại diện cho tâm hồn, trái tim Việt nam. Ở nàng, ta thấy phảng phất những đường nét nào đó của người phụ nữ rạo rực yêu đương trong ca dao... của người thiếu phụ Túy Tiêu rơi vào tay Trụ quốc công trong Truyền kỳ mạn lục, của Phương Hoa thông tuệ trong Truyện Phương Hoa và cả cô Tấm mò cua bắt ốc trừng trị mẹ con Cám... Thúy kiều là nhân vật thể hiện lí tưởng đạo đức, thẩm mỹ của Nguyễn Du, của một thời kỳ văn học và của một truyền thống văn học dân tộc” [14; tr. 108]. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên khi viết lời nói đầu cho bộ sách Nguyễn Du toàn tập đã nhận xét: “Người ta nói Nguyễn Du trân trọng người phụ nữ. Đó là nét nổi trội của chủ nghĩa nhân đạo mới, từ Đông sang Tây, từ phục hưng đến thế kỉ XIX. Nguyễn Du cảm thương vô hạn trước những số phận người phụ nữ. Chưa có ai viết hay về Tiểu Thanh, Dương Quý Phi, người ca kỹ La Thành... như Nguyễn Du. Chưa có ai nói mình là người cùng hội cùng thuyền với nỗi oan của Tiểu Thanh... như Nguyễn. Những mạch nguồn nhân đạo ấy đã tích tụ lại và đã thành Kiều, đại dương mênh mông của chủ nghĩa nhân đạo. Nàng Kiều dù trong nhơ đục vẫn trong trắng, vẫn vươn lên trong kiếp người của mình, đứng cao hơn nó và có lúc Nguyễn Du đã đi tới đầu mút của chủ nghĩa nhân đạo: đục trong thân cũng là thân. Cái quý nhất 4 của con người chính là bản thân con người vậy: con người là thực thể cao nhất, con người là thượng đế của bản thân con người” [35; tr. 6]. Các tác giả cuốn Nguyễn Du – về tác gia và tác phẩm cũng có đoạn viết: “Truyện Kiều không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, ca ngợi tài năng của con người trong xã hội cũ mà còn đề cao khát vọng yêu thương, được hưởng hạnh phúc thông qua nhân vật Thúy Kiều – một người tài sắc vẹn toàn mà cuộc đời cứ xô đẩy, nhấn chìm nàng xuống đáy xã hội” [10; 4]. Ở đây, các tác giả không những nhấn mạnh vẻ đẹp của Kiều mà còn chỉ ra sự tiến bộ trong khám phá bản chất đời sống của Nguyễn Du. Họ Nguyễn đã hướng đến và đi vào khắc họa sự ngời sáng của người phụ nữ trong hoàn cảnh bi kịch. Đó cũng là vẻ đẹp của con người Việt Nam. Trong hoàn cảnh khó khăn nhưng con người Việt Nam cũng không ngừng vươn lên khẳng định sức mạnh của mình. Trong giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỷ XIX, Nguyễn Lộc viết: “Thúy Kiều không còn là một con người bình thường mà phải là một nhân cách, một thước đo, một nguyên lý cuộc sống để mọi giá trị thực hay giả của đời sống đối chiếu với nó hay soi mình vào đó sẽ bộc lộ tất cả những bản chất tuyệt vời, cao đẹp hay bỉ ổi, xấu xa không thể ngụy trang che dấu được” [16; tr. 326]. Với Nguyễn Lộc, Kiều vừa là chuẩn mực của cái đẹp mà người phụ nữ Việt Nam truyền thống vốn có nhưng đồng thời nàng Kiều còn mang một nhiệm vụ nghệ thuật mà Nguyễn Du trao cho nàng mang đi suốt hành trình vượt thời gian. Kiều là tấm gương soi tỏ nhân cách sống, là đại sứ của cảm hứng nhân đạo và lòng yêu thương con người đến với chúng ta giữa thế kỉ XXI này. 5 2.2.2. Những ý kiến bàn về vẻ đẹp của Xuân Hương trong Truyện Xuân Hương Chúng tôi chú ý đến một số ý kiến của các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp so sánh để tiến hành nghiên cứu Truyện Kiều và Truyện Xuân Hương và một số bàn luận về Truyện Xuân Hương ở Việt Nam. Những ý kiến này mang đến cho người viết một số gợi mở trong quá trình thực hiện hướng nghiên cứu của mình hoặc có cái nhìn khách quan về tác phẩm quen thuộc trên quê hương Thúy Kiều – một người bạn của Xuân Hương. Nhà nghiên cứu văn học người Nga Valentin Lý đã tiến hành so sánh hai tác phẩm Truyện kiều và Truyện Xuân Hương (ông phiên âm là Truyện Chunhan). Trong bài viết này ông nhận xét như sau: “Truyện Kiều và Truyện Chunhan, niềm tự hào của văn học Việt Nam và Triều Tiên, đã hào hứng ca ngượi tình yêu, dũng cảm đi ngược lại những điều cấm đoán của văn học trung đại, chúng thể hiện một cách độc đáo ước mơ về hạnh phúc con người, khát vọng tự do mãnh liệt, ý muốn phá tung những xiềng xích trói buộc con người trong xã hội phong kiến” [36; tr. 41]. Nhân dịp tác phẩm Truyện Xuân Hương được dịch và giới thiệu ở Việt Nam do ông Bae Yang Soo dịch, nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê viết lời giới thiệu, trong đó có đoạn viết: “Một tình yêu say đắm, táo bạo nhưng vẫn kết hợp với lý tưởng đạo dức lành mạnh, đẹp đẽ của nhân dân: tình yêu của Xuân Hương mang màu sắc vị tha đầy nữ tính và thể hiện một bản lĩnh thủy chung bất chấp cường quyền và bạo lực” [2; tr. 4] Một người Hàn Quốc yêu văn học Việt Nam là nhà nghiên cứu Bae Yang Soo cũng đã công bố nhiều công trình về Truyện Xuân Hương của mình ở Việt Nam dưới hình thức những bài báo và đặc biệt là luận án Tiến sĩ với đề tài So sánh Truyện Kiều và Truyện Xuân Hương bảo vệ năm 2001 tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Bản luận án đã nêu bật những nét tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm. 6 Việc giới thiệu và nghiên cứu Truyện Xuân Hương ở Việt Nam đã được tiến hành vào khoảng thập niên cuối của thế kỉ XX, tuy nhiên số công trình nghiên cứu về hai tác phẩm còn thưa vắng. Việc nghiên cứu mở rộng vẫn hứa hẹn nhiều triển vọng cho hoạt động giao lưu khoa học giữa các học giả của hai quốc gia. Trân trọng những nghiên cứu trước đó, chúng tôi lựa chọn đề tài Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam qua nhân vật Thúy Kiều (Truyện Kiều của Nguyễn Du) và vẻ đẹp người phụ nữ Triều Tiên qua nhân vật Sungchuhyang (Truyện Xuân Hương) (từ đây chúng tôi gọi nhân vật Sungchuhyang là Xuân Hương theo cách phiên âm của Bae Yang Soo). 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn chỉ ra những phương diện tạo nên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam được in dấu trên cứ liệu văn học. Trên cơ sở đó so sánh với vẻ đẹp của người phụ nữ Triều Tiên trong tác phẩm văn học để thấy được nét độc đáo về văn hóa của mỗi dân tộc. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Luận văn trình bày quan điểm nhìn nhận, nghiên cứu văn hóa thông qua vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm văn học. - Chỉ ra vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và so sánh với vẻ đẹp của hình tượng Xuân Hương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du và một tiểu thuyết diễm tình khuyết danh của văn học trung đại Triều Tiên - Truyện Xuân Hương. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát hai văn bản: Truyện Kiều của Nguyễn Du do ông Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, ông Hà Huy Giáp giới thiệu, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp ấn hành năm 1976; Truyện Xuân Hương do Bae Yang Soo dịch, bà Đặng Thanh Lê giới 7 thiệu, Nxb. Khoa học xã hội ấn hành năm 1996 tại Hà Nội. Lí do chúng tôi chọn bản dịch để quý vị tiện theo dõi hơn bản nguyên tác tiếng Hàn Quốc. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, luận văn vận dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu chính sau đây: (1) Phương pháp nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa; (2) Phương pháp loại hình học văn học; (3) Phương pháp so sánh - đối chiếu; (4) Phương pháp thống kê - phân loại. 6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 6.1. Ý nghĩa lí luận: Luận văn là công trình tiếp tục đi sâu nghiên cứu văn hóa Việt Nam theo hướng tiếp cận, phân tích trên cứ liệu văn bản văn học. Từ kết quả nghiên cứu sẽ khẳng định vai trò bảo lưu các giá trị truyền thống của tác phẩm văn học. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Nội dung của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai là người Hàn Quốc quan tâm đến văn hóa và văn học Việt Nam. Điều này sẽ được thực hiện khi chúng tôi dịch luận văn này sang tiếng Hàn Quốc. Đây cũng là tài liệu tham khảo cho những học viên người nước ngoài theo học chuyên nghành Việt Nam học và yêu thích văn hóa, văn học Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Chương 1: Vẻ đẹp người phụ nữ - một phương diện tạo nên vẻ đẹp đất nước, con người dân tộc; Chương 2: Vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam qua hình tượng Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du; Chương 3: Vẻ đẹp người phụ nữ Hàn Quốc qua hình tượng nhân vật Xuân Hương trong Truyện Xuân Hương. 8 Chương 1 VẺ ĐẸP NGƯỜI PHỤ NỮ - MỘT PHƯƠNG DIỆN TẠO NÊN VẺ ĐẸP ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI DÂN TỘC 1.1. Một số vấn đề lí luận 1.1.1. Quan điểm tiếp cận Tiếp cận văn bản văn học từ văn hóa là hướng nghiên cứu được ứng dụng chủ yếu vào khoảng hai thập kỉ trở lại đây ở Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra khả năng tích hợp và in đậm dấu ấn văn hóa của tác phẩm văn học, coi tác phẩm văn học là một chất liệu để tiến hành khảo sát những biểu hiện của văn hóa. Tất nhiên các nhà nghiên cứu cũng cảnh báo và lược bỏ cái nhìn chủ quan thuộc của cá nhân nhà văn trước khi phân tích tác phẩm văn học. Lúc đó tác phẩm văn học chỉ còn là những thành tố mang tính đặc trưng cho tính cách dân tộc. Trong phần này, chúng tôi chủ yếu tổng thuật lại một số ý kiến và quan điểm mang tính lí thuyết theo hướng tiếp cận văn học từ văn hóa của một số học giả ở Việt Nam. Tác giả Trần Lê Bảo đã trình bày quan điểm của mình về hướng nghiên cứu văn hóa trong tác phẩm văn học trong bài viết “Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học”. Theo ông, “Đối với tác phẩm văn học, nội hàm văn hóa một mặt bao hàm trong những nhân tố của nội dung, mặt khác thể hiện một loại tiềm ẩn vô thức văn hóa trong hình thức ngôn ngữ văn bản. Vì vậy phân tích văn hóa như một hình thức ngôn ngữ văn bản không chỉ làm cho việc khảo sát văn hóa trong tác phẩm văn học có được một tiền đề khoa học của một loại phê bình văn học mà quan trọng hơn, nó còn xem kết cấu ngôn ngữ của nhân loại là toàn bộ cơ sở vô thức của văn hóa nhân loại. Hình thức ngôn ngữ trở thành nơi chuyển tải trình hiện và ngưng tụ những lớp văn hóa ẩn tàng trong nội dung văn bản. Bản thân tầng diện này cũng đã bao hàm những thông tin văn hóa quan trọng, khiến cho nó trở thành một trong nhiều lớp văn hóa tất 9 yếu cần được giải thích trong tác phẩm văn học”. Ông Bảo cũng viện dẫn ý kiến của nhà nhân loại học Mỹ Kelefod. Gelkan cho rằng: “(văn hóa) do lịch sử truyền di, thể hiện ở những mô thức ý nghĩa trong những phù hiệu tượng trưng, mọi người mượn hệ thống này để giao lưu, duy trì những tri thức có quan hệ trong cuộc sống và có thái độ giao đãi thích hợp trong cuộc sống”. Không dừng lại ở đó, ông Trần Lê Bảo cũng lưu ý đến vấn đề phương pháp luận trong quá trình giải mã văn hóa trong tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Theo ông: “Trong quá trình thao tác phân tích cụ thể, các nhà phê bình dựa vào những mô hình biểu đạt ngôn ngữ đặc thù trong tác phẩm văn học như: hệ thống từ ngữ, hình thức cú pháp, kết cấu chương mục, hệ thống hình tượng và các quan hệ đan chéo khác nhau của văn bản, để phân tích lý giải những nhân tố tâm lý và nhân tố thẩm mỹ được hình thức ngôn ngữ chuyển tải; tiếp đến là đi sâu khai thác những nội hàm văn hóa đã ngưng tụ trong đó. Ở góc độ này có thể mở ra những kiến thức vô cùng phong phú về tư tưởng triết học, tôn giáo, đạo đức, phong tục tập quán… của một cộng đồng nhất định” [5]. Qua bai viết này, ông Trần Lê Bảo đã trình bày những suy tư về vai trò của văn hóa trong việc tham gia vào quá trình tạo nghĩa của tác phẩm văn học và tác phẩm văn học cũng trở thành mảnh đất bảo lưu những giá trị văn hóa của một thời kỳ, một cộng đồng dân tộc. Trong cuốn sách Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa, giáo sư Lê Nguyên Cẩn cũng có sự gặp gỡ với ông Bảo. Tuy nhiên, giáo sư Cẩn đã trình bày một cách cụ thể hơn khi cho rằng: “Bản thân văn hóa còn là phương thức, hình thức hành động, văn hóa là hình thức sản xuất mang tính công nghệ của hoạt động con người. Từ góc độ này, tác phẩm văn học miêu tả và mang trong nó các biểu hiện văn hóa qua hành vi ứng xử: ứng xử với môi trường, ứng xử với xã hội... ứng xử giữa người và người, tức là ứng xử giữa các mối quan hệ xã hội” [6; tr. 18 – 19]. Giáo sư Lê Nguyên Cẩn còn khẳng định: “Tác phẩm văn chương lấy con người làm đối tượng trung tâm của sự phản ánh cũng 10 chính là tập trung khắc họa tính chất văn hóa của con người. Văn hóa của con người, phụ thuộc vào sụ phát triển của con người, văn hóa thể hiện năng lực sáng tạo vô bờ bến của con người trong quá trình vươn lên làm chủ cuộc sống và vươn lên để hoàn thiện nó, tạo ra sự hoàn thiện và phát triển nhân cách con người, tạo ra vẻ đẹp của con người qua mỗi thời đại” [6; tr. 20]. Trong cuốn Văn học Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, ông Trần Nho Thìn đã trình bày quạn niệm của mình về văn hóa trong một hệ thống mở “Nhân học văn hóa”, “nhân chủng học văn hóa”. Theo ông, văn hóa Việt còn là sản phẩm của giao lưu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ... Vì thế, khái niệm văn hóa tương đối rộng. Văn hóa là phạm trù giá trị làm cho con người thoát ra khỏi tình trạng mong muội. Văn hóa gồm văn minh, kinh tế, sức khỏe, ăn uống, tâm linh, văn học... chứ không phải riêng lễ hội hay tập tục, tín ngưỡng tôn giáo... Bất kỳ một giá trị văn học nào cũng đều thoát thai từ một môi trường văn hóa, từ một đời sống tinh thần nhất định. Tác phẩm văn học là con đẻ của người nghệ sĩ, là sản phẩm của một thời đại. Nhà văn tồn tại trong không khí thời đại cùng với môi trường, đời sống văn hóa, vốn sống để từ đó hình thành nên tư tưởng thẩm mĩ được người nghệ sĩ thể hiện trong tác phẩm văn chương. Yếu tố văn hóa ảnh hưởng lớn đến sự thành công của tác phẩm. Đó là chất liệu quan trọng để nhà văn tư duy về đời sống, suy tư về đời sống. Cách tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu văn chương sẽ giúp bạn đọc khám phá được chân lý nghệ thuật và am hiểu vốn văn hóa của một giai đoạn, một dân tộc. Giáo sư Trần Nho Thìn đã chỉ ra một số bước tiếp cận theo phương pháp văn hóa học đối với văn học trung đại Việt Nam như sau: - Đối với văn học trung đại cần phu nguyên tái hiện không gian văn hóa cũng như những nhân tố thời đại tác động. - Tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm với văn hóa thời đại. 11 - Xác định cơ sở văn hóa xã hội đã định hình thành nên tác phẩm (chủ đề, hình thức nghệ thuật, cách cảm nhận và một số yếu tố cấu trúc tác phẩm khác). Như vậy, văn hoá chi phối sự phát triển của văn học, thì ngược lại, văn học cũng tác động đến văn hóa, hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc thông qua những bộ phận hợp thành khác của nó. Giữa văn học và văn hoá có mối quan hệ hữu cơ mật thiết. Việc tìm hiểu văn học dưới góc độ văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học, sử học… cách tiếp cận văn chương bằng văn hoá học giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được ký thác. Cách tiếp cận văn hoá như vậy là đặt văn học trong không gian văn hoá để thâm nhập một cách tinh vi vào thế giới sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. 1.1.2. Cách thức tiếp cận Bằng mô hình phản ánh luận, lý luận văn học mácxít cho rằng tác phẩm văn học có khả năng phản ánh và tái hiện đời sống. Điều đó đồng nghĩa với việc tác phẩm nghệ thuật ngôn từ có thể lưu giữ những chứng tích về đời sống, những truyền thống được coi là đặc trưng nhất cho một giai đoạn lịch sử của một cộng đồng nhất định. Trong khi đó, con người được xem là chủ thể của văn hóa. Con người bằng quá trình lao động, giao tiếp và những ứng xử trong tổng hòa các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội đã tạo nên văn hóa. Văn hóa chính là đời sống của con người. Con người là trung tâm của sáng tác văn học đồng thời cũng làm nhiệm vụ quan trọng là tự thân trở thành một phương tiện để thể hiện toàn bộ những biểu hiện được coi là giá trị văn hóa của một dân tộc. Nhân vật văn học vì thế trở thành chứng tích văn hóa cho một thời đại thuộc về nó. Nhân vật trong văn học mặc dù được xây dựng dựa trên cái nhìn chủ quan của nhà văn nhưng không hoàn toàn là một hình ảnh tư biện. Nhà văn không thể đứng ngoài những truyền thống, tín ngưỡng, những quy luật hành 12 xử, những ấn tượng hay ký ức thuộc về cộng đồng mà anh ta đã và đang tồn tại. Cái thuộc về cá tính sáng tạo của người viết là cách anh ta bố trí tác phẩm, quy mô, số lượng nhân vật hay cảm xúc thẩm mỹ của bản thân trước vấn đề chuẩn bị nói ra. Cái thuộc về khách quan hay chất liệu để nhà văn cụ thể hóa ý đồ nghệ thuật của mình lại thuộc về đặc trưng văn hóa dân tộc, mang màu sắc dân tộc. Đây là nguyên nhân khiến tác phẩm văn học không thể hòa lẫn với các tác phẩm cùng thể loại của các nên văn hóa khác được. Dựa trên nguyên tắc sáng tạo văn học và mối quan hệ giữa chủ thể văn hóa với các thành tố văn hóa đó, chúng tôi tiến hành khảo sát những biểu hiện văn hóa Việt Nam qua nhân vật Thúy Kiều. Chúng tôi không tiến hành phân tích hình tượng Thúy Kiều theo những lí thuyết phê bình văn học hay phương pháp luận nghiên cứu văn học mà các nhà nghiên cứu văn học hay dùng. Bởi đó là nhiệm vụ của người làm nghiên cứu văn học. Với mục đích tìm hiểu về văn hóa, đặc biệt là văn hóa truyền thống Việt Nam, chúng tôi xem hình tượng Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và Xuân Hương trong Truyện Xuân Hương là những ký hiệu, những biểu tượng văn hóa. Mọi biểu hiện xoay quanh nhân vật đều được xem là những mã văn hóa. Quá trình giải mã mà chúng tôi tiến hành là quá trình tìm hiểu toàn bộ những truyền thống văn hóa liên quan đến đời sống của một người phụ nữ cũng như cách nhìn của bản thân nhà văn khi đặt nhân vật của mình vào môi trường văn hóa ấy. 1.2. Vẻ đẹp đất nước, con người dân tộc qua hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm văn học 1.2.1.Trong văn học Việt Nam thời trung đại Là chủ thể của Văn hóa, con người Việt Nam được đặc biệt chú ý. Đã có rất nhiều nhận xét, theo tình cảm hoặc lý trí, từ các quan điểm truyền thống, hiện đại, từ các góc độ nhận thức dân tộc, thế giới... về con người Việt Nam từ xưa tới nay. Từ góc độ là chủ thể văn hóa, con người Việt Nam một 13 mặt là con người cá nhân, mặt khác mang trong mình tính dân tộc truyền thống. Bản sắc văn hóa Việt Nam là tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hình thành và xây dựng quốc gia. Chúng tôi xem những định vị về giá trị văn hóa Việt Nam là những cơ sở quan trọng để tìm hiểu vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam qua hình ảnh người phụ nữ trong các tác phẩm văn học. Tất nhiên, những biểu hiện hạn chế trong tính cách của người phụ nữ Việt Nam không phải là không có. Tuy nhiên, vấn đề này chúng tôi sẽ trở lại bàn luận trong một dịp khác. Ða số những nhà nghiên cứu Việt học đều nhận ra được một đặc tính tất yếu của nền văn hóa Việt, đó là ảnh hưởng tối quan trọng của người phụ nữ trong xã hội Việt. Nhiều giả thuyết đã được đề ra. Giả thuyết thường thấy hơn cả, đó là xã hội Việt cổ đại vốn là xã hội mẫu hệ, chỉ từ khi bị văn hóa Nho giáo thống trị mới đổi thành phụ hệ. Tuy bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, nhưng căn bản xã hội Việt vẫn lấy nông nghiệp là chủ đạo nên tầm quan trọng của người phụ nữ vẫn không phai nhạt bao nhiêu mà tín ngưỡng thờ nữ thần là một minh chứng. Văn học của các nhà nho Việt Nam thời trung đại là sản phẩm của tư duy trọng nam. Điều này biểu hiện rất rõ trong đội ngũ sáng tác văn chương. Người phụ nữ không được xâm nhập vào không gian trường học, không được học hành và giữ các cương vị xã hội. Chính vì vậy thời trung đại ở Việt Nam có rất ít người phụ nữ viết văn hay làm thơ. Ngược lại, vẻ đẹp của người phụ nữ lại ngời sáng trong văn chương nhà nho, nhất là sự hưởng ứng của trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn học Việt Nam ở giai đoạn sau của thời kỳ trung đại. Xu hướng khắc họa vẻ đẹp của người phụ nữ trong văn chương nói riêng và trong những bức phù điêu đình làng, trên chiếu chèo... nói chung đã tạo nên tiếng nói đa thanh trong cái nhìn về người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam. Đối với các nhân vật phụ nữ trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, thái độ các tác giả đều tập 14 trung khắc họa, ca ngợi sự đảm đang, chịu khó, chung thủy với tình yêu hay sự đảm đang, lòng hiếu thảo, nhan sắc... Nghĩa là họ ca ngợi những đặc tính mà đạo đức phong kiến trên một xuất phát điểm nào đó cũng có thể chấp nhận được. Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ, người phụ nữ Việt hiện lên đầy đủ cả vẻ đẹp hình thể lẫn vẻ đẹp tâm hồn. Trong truyền thống văn hóa người Việt, vẻ đẹp hình thể của người phụ nữ là đề tài khong thể thiếu được. Nó luôn được ca ngợi trên chuẩn mực của cư dân gốc nông nghiệp. Đó là sự phì nhiêu, màu mỡ phồn thực. Người phụ nữ vì thế luôn ở trong trạng thái xinh tươi mơn mởn đầy sức sống. Họ là những cô gái: “Chị cũng xinh mà em cũng xinh/ Đôi lứa như in tờ giấy trắng/ Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh”. Vẻ đẹp của họ còn khiến các bậc quân tử trong chốn nho trường phải ngẩn ngơ. Đó là Bạch Viên (Bạch Viên Tôn Các) sang trọng mơn mởn xuân xanh: Mấy đoạn sở vân xuôi tóc phượng/ Nửa vòng thu nguyệt vạnh mày nga”. Hay là Quỳnh Thư: “Mày ngang bán nguyệt miệng chào trăm hoa/ Nửa chiều cung quế hằng nga” (Sơ kính tân trang). Hay nàng cung nữ trong Cung oán ngâm khúc với tài sắc không ai bì kịp: “Trộm nhớ thủa gây hình tạo hóa,/ Vẻ phù dung một đóa khoe tươi” và một sắc đẹp tuyệt vời: “Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn/ Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ bay/ Hương trời đắm nguyệt say hoa,/ Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình”. Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương xuất hiện không còn cái khép nép trong mô thức “công, dung, ngôn, hạnh”... Nữ sĩ công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc đẳng cấp độc đáo nhất của thời đại. Bà chú ý đến những bộ phận thân thể thường được giấu kín của con người. Những bộ phận đó văn học thời đại thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt: Lược trúc chải dài trên mái tóc/ 15 Yếm đào trễ xuống dưới nương long/ Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm/ Một lạch Đào nguyên suối chửa thông (Thiếu nữ ngủ ngày) hoặc “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước). Đây là sự trinh trắng ngây thơ, là sự hồn nhiên trọn vẹn. Cách miêu tả của nhà thơ không có một chút bỡn cợt, trái lại thể hiện một thái độ hết sức nâng niu, trân trọng. Trong thời buổi suy tàn của xã hội phong kiến, con người bị chà đạp, bị giày xéo. Nhiều giá trị bị đảo lộn, bị nghi ngờ. Nhà thơ giữ cho mình nguyên vẹn cặp mắt trong veo để nhìn người, nhìn đời, để thấy hết mọi giá trị đẹp của con người. Cũng vì thế mà thơ Xuân Hương có giá trị nhân đạo sâu sắc và bà xứng đáng là nhà thơ của nữ quyền thời trung đại Việt Nam. Điểm qua một vài nhân vật như vậy cho thấy, các nhân vật nữ trong văn học trung đại Việt Nam thường mang một vẻ đẹp ước lệ tượng trưng. Họ không được vẽ lên bằng những nét vẽ cụ thể, trực tiếp mà được tác giả miêu tả trong mối tương quan với thiên nhiên. Dung mạo của họ được thể hiện bằng những sắc màu rực rỡ của đất trời, hoa lá. Bút pháp này làm cho hình tượng người phụ nữ hiện lên thanh khiết và đắm say lòng người. Dù trong hoàn cảnh nào, người phụ nữ cũng ý thức được phẩm hạnh, tài năng của mình và muốn khẳng định quyền sống của mình trong môi trường văn hóa nam quyền. Trong văn học trung đại Việt Nam đã có không ít tác giả tập trung xây dựng vẻ đẹp tài hoa trí tuệ và sự đa tình của người phụ nữ. Trong Thiên Nam ngữ lục, tác giả đã ca ngợi tài năng đánh giặc ngoại xâm của chị em bà Trưng. Hai bà đã đánh tan tướng giặc là Tô Định để giành độc lập về cho đất nước: “Ầm ầm tả đột hữu xông/ Chém Tô trong trận như rồng cuốn mây”. Đó là hình ảnh người phụ nữ có bản lĩnh, có tài lãnh đạo đã trở thành người nữ anh hùng huyền thoại làm gương sáng cho phụ nữ Việt nam tự hào. Nàng cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều cũng có tài nghệ vô song: 16 “Câu cẩm tú đàn anh họ Lý/ Nét đan thanh bậc chị chàng Vương/ Cờ tiên rượu thánh ai đang,/ Lưu Linh, Đế Thích là hàng tri âm”. Trong truyện Nôm bình dân Việt Nam, các cô gái đều có lý trí khá lớn cho thấy sự chi phối đậm nét của tư tưởng nho giáo áp đặt (điều này hoàn toàn khác biệt với người phụ nữ Triều Tiên xưa mà chúng tôi sẽ trình bày ở chương sau). Nàng Ngọc Hoa trong Phạm tải – Ngọc Hoa cũng như nàng công chúa trong Lý Công đã dũng cảm đấu tranh với những thế lực đen tối chống phá tình yêu của họ. Nàng Phương Hoa trong truyện Phương Hoa lại giả trai để đi thi với mong muốn gặp vua tố cáo tội ác của Tào trung úy và minh oan cho chồng chưa cưới của nàng. Ngoài ra, thơ Nôm dân tục của Hồ Xuân Hương cũng khắc họa tính cách tài hoa của người phụ nữ. Họ cũng mạnh mẽ, bản lĩnh không kém gì nam giới khi thách thức chế độ đương thời: “Ví đây đổi phận làm trai được/ Thì sự anh hùng há bấy nhiêu” (Đề đền Sầm Nghi Đống). Thậm chí người phụ nữ còn mạnh dạn khẳng định tài năng của mình bằng cách chê bai tài năng làm thơ của đám sĩ nhân quân tử: “Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ/ Lại đây chị dạy cho làm thơ” (Mắng học trò dốt). Tài làm thơ vốn được xem là một biểu hiện của nền giáo dục nho giáo vốn chỉ dành cho nam giới. Với sự tự tin ở đại từ nhân xưng “chị”, người phụ nữ thể hiện sự am tường về âm luật thi ca hơn cả người đàn ông. Họ đáng bậc chị trong khả năng làm thơ so với nam giới. Người phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương luôn sống trong tâm thế thách thức với xã hội nam quyền. Họ không chấp nhận diễn ngôn truyền thống vốn coi người phụ nữ kém cỏi và động viên họ phải “an bài”, vui vẻ thỏa hiệp với số phận. Bên canh việc đề cao, ngợi ca, các tác giả văn chương Việt Nam thời trung đại còn khám phá vẻ đẹp của người phụ nữ trong những hoàn cảnh bi kịch để từ đó tố cáo hiện thực. Trong đen tối của hoàn cảnh, phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ không hề bị nhấn chìm mà vẫn ngời sáng. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất