HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY
Sù BIÕN §æI V¡N HãA LµNG NGHÒ TRUYÒN THèNG
ë Hµ NéI HIÖN NAY
(Qua trường hợp làng Triều Khúc và Thiết Úng)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI – 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY
Sù BIÕN §æI V¡N HãA LµNG NGHÒ TRUYÒN THèNG
ë Hµ NéI HIÖN NAY
(Qua trường hợp làng Triều Khúc và Thiết Úng)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62 31 06 40
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Lê Quý Đức
2. TS. Lê Trung Kiên
HÀ NỘI - 2015
.
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
9
1.1.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
9
1.2.
Cơ sở lý luận
28
Chương 2: KHÁI LƢỢC VỀ LÀNG NGHỀ HÀ NỘI, LÀNG NGHỀ TRIỀU
40
KHÚC, THIẾT NG VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HOÁ LÀNG NGH
2.1.
Khái lược làng nghề Hà Nội
40
2.2.
Làng nghề truyền thống Triều Khúc và Thiết Úng
50
2.3.
Nhân tố tác động đến sự biến đổi văn hoá làng nghề Hà Nội
62
Chương 3:
77
SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG TRIỀU KHÚC VÀ THIẾT ÚNG
3.1.
Biến đổi lĩnh vực văn hóa vật chất và cảnh quan môi trường
77
3.2.
Biến đổi lĩnh vực văn hóa tổ chức cộng đồng
92
3.3.
Biến đổi lĩnh vực văn hóa tinh thần
106
Chương 4:
122
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN BÀN LUẬN VÀ CÁC NHÓM GIẢI
PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY VĂN HÓA LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG
4.1.
Một số vấn đề cần bàn luận
122
4.2.
Các nhóm giải pháp bảo tồn, phát huy văn hoá làng nghề truyền thống
132
KẾT LUẬN
147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
151
PHỤ LỤC
164
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCHTW
: Ban Chấp hành Trung ương
CNH
: Công nghiệp hóa
G.S
: Giáo sư
PGS.TS
:
HĐH
: Hiện đại hóa
HĐND
: Hội đồng nhân dân
HTX
: Hợp tác xã
KTTT
:
NXB
: Nhà xuất bản
NCS
: Nghiên cứu sinh
UBND
: Ủy ban nhân dân
UNESCO
: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc
Tr
: Trang
TW
: Trung ương
VHTT&DL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch
WTO
: Tổ chức Thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 3.1. Địa điểm sản xuất của thợ thủ công
86
Bảng 3.2. Đánh giá về cảnh quan làng nghề
90
Bảng 3.3. Đánh giá các mối quan hệ gia đình, dòng họ
95
Bảng 3.4. Hình thức giao dịch trong quan hệ bán hàng
95
Bảng 3.5. Đối tượng truyền nghề
105
Bảng 3.6. Nhóm đối tượng được gia đình truyền nghề
105
Bảng 3.7. Đánh giá việc duy trì tín ngưỡng lễ hội
110
Bảng 3.8. Đánh giá vấn đề đạo đức trong quan hệ bạn hàng
119
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ năm 1986, khi Đảng và Nhà nước thực hiện đường lối đổi mới, nền
kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cũng vì thế, biến đổi văn hoá làng nghề truyền thống Hà Nội diễn ra như một
điều tất yếu của sự phát triển. Biến đổi văn hóa ở các làng nghề truyền thống Hà
Nội không chỉ tác động đến cơ cấu tổ chức, diện mạo làng nghề, quy trình sản
xuất, mẫu mã, hình thức, chất lượng sản phẩm, phong tục tập quán…. của mỗi
làng nghề mà còn tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô Hà Nội
và cả nước trong quá trình công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) hiện
nay. Xu hướng biến đổi trên thực sự là vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu
kịp thời để đưa ra những căn cứ khoa học, những giải pháp phù hợp, giúp các
nhà hoạch định chính sách có những quyết sách hợp lý, vừa gìn giữ, vừa phát
huy được giá trị văn hóa truyền thống của các làng nghề.
,
số 33, Hội nghị lần thứ 9 BCHTW
Đảng khóa XI
, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Trong đó các làng nghề truyền thống đóng
vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh CNH, HĐH nông thôn, nông ngh
, vì
phát triển làng nghề truyền thống tạo ra một khối lượng hàng hóa đa dạng, phong
phú, góp phần thúc đẩy gia tăng thu nhập, tạo việc làm, cải thiện đời sống dân cư
nông thôn, tăng tích lũy, giảm di dân tự do, chuẩn bị cho đội ngũ lao động có
khả năng thích ứng với lĩnh vực công nghiệp, tạo
doanh nghiệp hiện đại, phát
cơ sở vệ tinh cho các
n làng nghề truyền thống còn góp phần bảo tồn
và gìn giữ giá trị văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng nghề
Hà Nội cho đến nay chưa nhiều, mới chỉ có một số công trình
nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng nghề vùng châu thổ sông Hồng, qua nghiên
2
cứu một số làng ở Hà Tây (cũ), Thái Bình, Hà Nội, mà chưa có công trình
nghiên cứu sâu, riêng biệt về sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống Hà Nội
hiện nay, đặc biệt là vai trò chủ thể của cư dân làng nghề trong sự biến đổi đó.
Vì vậy, nghiên cứu sự biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống Hà Nội nói
chung và hai làng nghề dệt Triều Khúc (huyện Thanh Trì), đồ gỗ mỹ nghệ Thiết
Úng (huyện Đông Anh) nói riêng không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn đáp ứng
nhu cầu cấp bách của thực tiễn trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa các làng
nghề truyền thống ở nước ta hiện nay trước yêu cầu CNH, HĐH và toàn cầu hóa.
Vì những lý do trên, nghiên cứu sinh (NCS)
tài “Sự biến đổi văn hóa làng nghề
thấy việc nghiên cứu đề
ng ở Hà Nội hiện nay” (Qua
trường hợp làng Triều Khúc và Thiết Úng) là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn trong bối cảnh đổi mới của xã hội.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong tổng số hơn 750 tài liệu trong nước và nước ngoài nghiên cứu về
Hà Nội, có hơn 100 tài liệu nghiên cứu về làng nghề, phố nghề, văn hóa làng
nghề Hà Nội từ trước giai đoạn đổi mới (năm 1986) đến hiện nay, chưa có công
trình nghiên cứu riêng biệt, chuyên sâu về biến đổi văn hóa làng nghề truyền
thống Hà Nội
).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở trình bày một số khái niệm cơ bản
, NCS phân tích, đánh giá thực trạng biến đổi của văn hóa làng nghề
truyền thống trên địa bàn Hà Nội,
qua nghiên cứu trường hợp làng nghề
dệt Triều Khúc và làng nghề gỗ mỹ nghệ Thiết Úng.
3.2. Nhiệm vụ
-
và
về
;
- Khảo sát thực trạng về sự biến đổi của văn hóa làng n
Triều Khúc, Thiết Úng và so sánh với một số làng nghề khác trên địa bàn thành
phố Hà Nội.
3
- Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy văn hóa làng nghề truyền
thống Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự biến đổi của văn hóa làng nghề
truyền thống của thành phố Hà Nội qua khảo sát
làng Triều Khúc (xã Tân
Triều, huyện Thanh Trì) và Thiết Úng (xã Vân Hà, huyện Đông Anh).
.
,
,
đây
,
, NCS
,
bàn
.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Hai làng nghề truyền thống trên là khách thể nghiên cứu
được chọn theo tiêu chí NCS tự đặt ra. Làng nghề truyền thống Triều Khúc trước
đây sản xuất các sản phẩm phục vụ triều đình phong kiến, nay sản xuất các sản
phẩm phục vụ đời sống xã hội và xuất khẩu. Về không gian, làng Triều Khúc
nằm sát kinh thành Thăng Long xưa và nay là làng ven đô
. Làng nghề Thiết Úng xưa sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt vật chất, nhiều thợ giỏi được triều đình trưng dụng vào thành làm
đền đài, lăng tẩm, nay sản xuất các sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của xã
hội, nhu cầu tâm linh. Về không gian, làng Thiết Úng nằm ở vùng ngoại thành
và có quan hệ với những làng nghề truyền thố
p
4
?
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu
từ năm 2000
năm 2000, Việt Nam là một trong những nước có mức tăng tr
Hà Nội
mặt của
, dẫn đến sự biến đổi về mọi
truyền thống Hà Nội.
4.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Văn hóa làng nghề truyền thống Hà Nội hiện nay
như thế nào?
- Vai trò của chủ thể văn hóa trong sự biến đổi đó ra sao?
- Vấn đề gì đặt ra đối với làng nghề truyền thống trước sự biến đổi hôm nay?
Luận án nghiên cứu đời sống thực tiễn văn hóa làng nghề truyền thống hai
làng Triều Khúc, Thiết Úng và đối chiếu với một số làng nghề khác để trả lời
những vấn đề trên.
5.
5
và phƣơng pháp nghiên cứu
luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận sau:
- Triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và
ý thức xã hội; giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
- Quan niệm về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của
nhà
,
- Lý thuy
Trong các tác phẩ
.
.
, C.Mác và Ăngghen đã chứng minh rằng: tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, ý thức
xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản
xuất biến đổi thì những tư tưởng và những nhận thức của con người, những quan
điểm về chính trị, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật sớm muộn cũng biến đổi theo.
Triết học Mác - Lênin đã chỉ ra: sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động
mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con
5
người, mà trước hết là do sự biến đổi lực lượng sản xuất của xã hội quy định.
Dựa trên nền tảng của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội, ta nhận thấy việc biến đổi phương thức sản xuất sẽ
kéo theo hàng loạt các biến đổi khác. Do vậy, văn hóa làng nghề
biến đổi cũng là hệ quả tất yếu của sự biến đổi về phương thức sản xuất, công cụ
sản xuất. Việc biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống trong xã hội hiện nay còn
do ý thức chủ quan của con người, đặc biệt tính năng động, nhạy bén của người
thợ thủ công. Vì vậy, cần phân tích để thấy được mối quan hệ biện chứng trên
thông qua vai trò của người lao động - người thợ thủ công vừa là chủ thể của văn
hóa làng nghề truyền thống, vừa là bộ phận cơ bản của lực lượng sản xuất ở làng
nghề truyền thống, vừa là sản phẩm của văn hóa làng nghề truyền thống.
Quan điểm về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định:
“toàn bộ những sáng tạo và phát minh” của con người ra “những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày” và “các phương thức sử dụng chúng cho ăn, mặc, ở” trong
lĩnh vực văn hóa sản xuất vật chất mà còn khẳng định năng lực “thích ứng” với
“những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” là động lực của sự biến đổi
văn hóa sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội [30, tr.431].
L
văn hóa học của A.A.Radughin về văn hóa
cho việc nghiên cứu đề tài, trong đó có những phân tích khá rõ
rằng: văn hóa
vật chất trước hết là “những phương tiện đa dạng của sản
xuất vật chất (là những công cụ lao động)”; l “
“văn minh”
, nói cách khác là “văn hóa
”, “
công nghệ
”,
”. Không
những thế, văn hóa sản xuất vật chất còn chứa đựng các giá trị nhân văn, nhân
đạo: “Văn hóa học nghiên cứu văn hóa sản xuất từ góc độ, mức độ hoàn thiện
của nó về mặt nhân văn hoặc nhân đạo”, còn “trên quan điểm kinh tế thì sản xuất
vật chất được nghiên cứu từ góc độ kỹ thuật, tức là hiệu quả của nó, hệ số sử
dụng của nó, giá thành, mức độ lợi nhuận” [3, tr.112]. Tham chiếu vào văn hóa
làng nghề truyền thống Hà Nội, lý thuyết của A.A.
khái quát những vấn đề nghiên cứu, như những phương tiện, công cụ, máy móc
6
được sử dụng trong quá trình chế tạo sản phẩm; phương thức, cách thức chế tạo
sản phẩm; phương thức, cách thức mua bán và trao đổi sản phẩm; cách thức ứng
x
,v
.
Bên cạnh việc sử dụng lý thuyết văn hóa học để lý giải quan niệm về văn
hóa sản xuất vật chất, NCS sử dụng lý thuyết về biến đổi văn hóa
nghiên cứu biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống. Biến đổi văn hóa ngày
nay được coi là vấn đề mang tính toàn cầu, việc biến đổi diễn ra ở nhiều chiều và
nhiều cấp độ khác nhau, như biến đổi niềm tin, tôn giáo, tín ngưỡng, biến đổi
văn hóa xã hội, biến đổi văn hóa nghệ thuật…. Toàn cầu hóa, hiện đại hóa là
những nhân tố tác động và ảnh hưởng lớn đến quá trình biến đổi văn hóa ở tất cả
các quốc gia, các cộng đồng xã hội, đặc biệt là trong xã hội nông nghiệp như
Việt Nam hiện nay. Những biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống Hà Nội diễn
ra trên mọi mặt của đời sống cộng đồng, từ sản xuất vật chất đến tổ chức đời
sống xã hội và sinh hoạt tinh thần của con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu sự biến đổi văn hóa làng nghề
đem lại hiệu
quả, việc áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, dựa vào quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước về phát triển văn hóa là việc làm cần thiết. Bên cạnh đó, kết hợp sử dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương
pháp điều tra xã hội học, phương pháp điền dã, tham dự của nhân học văn hóa.
- Phương pháp liên/ đa ngành
Nghiên cứu biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống Hà Nội là sự thu
thập, tổng hợp kết quả nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học chuyên ngành
như nhân học văn hóa, nhân học xã hội, dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, sử
học… Cho nên, các thao tác nghiên cứu của luận án được thực hiện thông qua sự
kết hợp linh hoạt các phương pháp trên. Sử dụng phương pháp liên/đa ngành vào
đề tài luận án, giúp cho việc khai thác và xử lý hiệu quả các nguồn tư liệu khác
nhau trong vấn đề nghiên cứu.
7
- Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để
, liên
quan đến vấn đề nghiên cứu, nhằm tìm ra điểm tương đồng và khác biệt trong
biến đổi văn hóa ở các làng nghề truyền thống. Từ đó đưa ra những nhận định
làm rõ biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống.
- Phương pháp điều tra xã hội học
NCS xây dựng và sử dụng 145 bảng hỏi anket khảo sát làng Triều Khúc,
182 bảng hỏi anket khảo sát làng Thiết Úng, 20 phiếu phỏng vấn sâu những
người thợ, cán bộ, nhân viên UBND xã Tân Triều và Vân Hà về 5 nội dung liên
quan đến biến đổi văn hóa làng nghề để có kết quả và thông tin khách quan.
-
:
,
NCS
giữa
nghề truyền thống.
- Phương pháp thống kê, so sánh
Sử dụng phương pháp này để thu thập các số liệu thống kê
, sau đó khái quát lại các vấn đề nghiên cứu
khách quan về những biến đổi văn hóa hai làng
.
- Phương pháp chuyên gia
Trên cơ sở nội dung của luận án, NCS
các chuyên gia, những người am hiểu về làng nghề, thu thập, bổ sung
được nhiều ý tưởng, thông tin mới.
5.3. Các thao tác nghiên cứu
- Khảo sát thực tế: Thực hiện những chuyến đi điền dã, NCS trực tiếp
tham dự vào cuộc sống, sinh hoạt, lao động sản xuất, lễ hội… của các làng nghề
truyền thống, từ đó thu thập được những thông
cho luận án.
c tế, NCS g
.
8
- Ghi hình, chụp ảnh, ghi âm: Trong quá trình khảo sát thực tế, NCS thực
hiện công việc ghi hình, chụp ảnh, ghi âm. Đây là việc làm hết sức cần thiết để
ghi lại một cách khách quan, trung thực về cảnh quan, di tích, nhà ở, quy mô,
quy trình sản xuất, quan hệ bạn hàng, phường thợ, quan hệ gia đình của người
dân làng nghề để làm tư liệu nghiên cứu cho đề tài luận án.
6. Kết quả và đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về văn hóa
, tác động của văn hóa làng nghề truyền thống đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội trong quá trình CNH, HĐH đất nước; vai trò của người sản xuất
ở các làng nghề đối với việc bảo tồn và phát huy văn hóa làng nghề truyền thống
trong sự biến đổi của chúng hiện nay.
- Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những
học viên, sinh viên chuyên ngành văn hóa học, xã hội học, kinh tế học nghiên
cứu những vấn đề về biến đổi văn hóa, về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế,
vấn đề ngoài lĩnh vực văn hóa đối với sự phát triển hiện nay.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
-
hỉ ra xu hướng biến đổi văn hóa làng nghề truyền thống, giúp các
nhà quản lý tham khảo để từ đó nghiên cứu, xây dựng những chính sách văn hóa
hợp lý cho sự phát huy văn hóa làng nghề truyền thống Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy văn hóa làng nghề
truyền thống Hà Nội trong quá trình CNH, HĐH và ĐTH hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội
dung của luận án được kết cấu thành 4 chương,
.
9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Từ xưa đến nay Hà Nội được mệnh danh là vùng “đất trăm nghề”, các sản
phẩm thủ công qua bàn tay người thợ tài hoa đã làm nên một nét riêng biệt, độc
đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Điều đó mang lại sức hấp dẫn, cuốn hút
cho các nhà nghiên cứu trong nước và d
nước ngoài từ nhiều thế kỷ trước.
lịch sử, các công trình, sách, vở, bài viết của
các tác giả về nghề, làng nghề rất phong phú, đa dạng. Riêng bài viết về văn hóa
làng nghề và biến đổi văn hóa làng nghề Việt Nam nói chung và Hà Nội nói
riêng trong thời gian từ khi đổi mới đến nay đã được các tác giả dành một vị trí
nhất định để có những phân tích mang tính cụ thể hơn cùng với sự đổi thay và
phát triển của xã hội. Công trình nghiên cứu về nghề, làng nghề, văn hóa làng
nghề, biến đổi văn hóa làng nghề Hà Nội
hơn 100 tài liệu, nhưng
cũng đặt ra tầm quan trọng của việc nghiên cứu những vấn đề trên, đặc biệt là
trong điều kiện đổi mới hiện nay. Nghiên cứu về tài liệu, công trình khoa học
trên, NCS kế thừa và tiếp thu những kiến thức quý giá mà các học giả đã dày
công tìm hiểu. Trên cơ sở nghiên cứu tư liệu của các tác giả,
những nội
dung đã được trình bày, NCS chia làm 3 nhóm tài liệu có liên quan đến luận án:
1.1.1. Nghiên cứu về nghề, làng nghề, văn hóa làng nghề Hà Nội
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thời nhà Trần, vào năm 1230, kinh đô
Thăng Long được mở rộng thêm, khu vực người dân ở được chia thành 61
phường
.
Một số làng ven đô đã hình thành các làng thủ công, trong đó có làng gốm Bát
Tràng. Đến năm 1274, có khá nhiều thương nhân
đến buôn bán và
được nhà Trần cho mở chợ, lập phố buôn bán. Chính sách trên của nhà Trần đã
tạo cơ hội cho các nghề thủ công có điều kiện thuận lợi để trao đổi và mua bán
hàng hóa [43].
10
, cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi viết, dân cư ở 36 phường
làm ăn, buôn bán nhộn nhịp, đặc biệt là những phường thủ công. Trong 36
phường đó, thợ thủ công và nhà buôn chia nhau ở các phường tùy theo tính chất
nghề nghiệp cụ thể. Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi viết về điều kiện tự nhiên, vị trí
địa lý, sản vật, nghề thủ công, trong đó có nghề dệt lụa ở Hà Đông, nghề dệt vải
lụa phượng ở Thụy Chương, nghề làm giấy dó ở Yên Thái, nghề làm võng lọng,
áo giáp, gấm triều ở phường Tàng Kiếm (Hàng Trống).
Tuyển tập tư liệu phương Tây là một cuốn sách được Nguyễn Thừa Hỷ
tổng hợp
. Mặc dù những tư liệu trong tuyển tập
, nhưng đây là nguồn tư liệu có thể tham khảo cho
nhiều nhà nghiên cứu sau này [35]. Với NCS, khi nghiên cứu về làng nghề thủ
công truyền thống cũng đã kế thừa và tham khảo được một số bài viết trong cuốn
sách, đó là:
Paul Bourde - phóng viên tờ “Le tempt” viết về chợ phố Hà Nội năm 1884
trong chương XII với tựa đề Les industries indig e (Các ngành kỹ nghệ bản xứ)
trong cuốn sách De Paris au Tonkin (Từ Paris đến Bắc Kỳ). Với cái nhìn khá
toàn diện, Paul Bourde viết khá kỹ về các chợ phiên tại Hà Nội, về những người
thợ thủ công ở các vùng lân cận mang các sản phẩm mỹ nghệ thủ công vào các
phố chuyên bán từng mặt hàng, như phố Hàng Đồng chuyên bán cuốc xẻng, đồ
đồng; phố Hàng Tơ (Hàng Đào) chuyên bán đồ tơ lụa. Tác giả đánh giá nghệ
thuật chạm khắc của người dân Bắc Kỳ vào loại tài nghệ độc đáo qua các tác
phẩm chạm khắc ở chùa Khổ Hình (Hà Nội) [35].
Là bạn của Paul Bourde, Paul Bonnetain - với tư cách là phóng viên báo
“Le Figaro” có thời gian ở Hà Nội lâu hơn Paul Bourde, khi về Pháp, Paul
Bonnetain
ập hợp các bài ông đã viết về Hà Nội, về Bắc Kỳ và tổng hợp lại
trong cuốn Au Tonkin (Ở Bắc Kỳ). Trong chương XI, XII của tập 2, Paul
Bonnetain có viết về khu phố buôn bán, nghệ thuật của người An Nam ở
Hà Nội. Tác giả mô tả sự kiên nhẫn, tỷ mỷ của những người thợ thủ công với sự
kiên trì, miệt mài và khéo léo để làm ra nhiều sản phẩm đẹp đẽ mà không cần đo
11
vẽ. Nhưng ông cũng cho rằng, các sản phẩm thủ công được lưu truyền từ đời cha
đến đời con này phải có sự thay đổi, không nên cứ dập khuôn mãi theo mẫu mã
đã có sẵn từ trước được. Theo ông, có như vậy mới khuyến khích được tính sáng
tạo của người thợ [35].
Paul Doumer - toàn quyền Đông Dương (1897 - 1902) trong nhiệm kỳ
làm việc của mình, đã huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư, kiện toàn cơ sở
hạ tầng kỹ thuật để xây dựng Hà Nội thành một thành phố Âu hóa, đáng kể là
mạng lưới xe lửa và cây cầu Doumer (cầu Long Biên). Sau khi hết nhiệm kỳ làm
việc, Paul Doumer về Pháp, năm 1905 ông viết và được Nhà xuất bản Vuibert &
Nony ấn hành ở Paris cuốn L’Indochine Francaise - souvenirs (Xứ đông Pháp Những kỷ niệm). Trong cuốn sách có nhiều trích đoạn Paul Doumer viết về các
phố nghề Hà Nội, về mỹ nghệ thủ công. Nhiều đoạn viết trong cuốn sách được
ông miêu tả khá kỹ về những người thợ đúc đồng, thợ kim hoàn, thợ thêu, thợ
chạm khắc… Bắc Kỳ khéo léo, cần cù, chăm chỉ, có nghệ thuật thẩm mỹ cao.
Paul Doumer cho rằng những sản phẩm thêu của người thợ Bắc Kỳ tốt và cẩn
thận hơn những sản phẩm thêu của người Nhật Bản và Trung Quốc. Đặc biệt,
Paul Doumer còn có sự so sánh về những sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ của người
An Nam, trong đó ông nhận định rằng những người thợ khảm xà cừ An Nam,
nhiều người thợ giỏi hầu hết ở Hà Nội và Nam Định [35] .
ách Introduction générale à
l’étude de la technologie du peuple Annamite. Essai sur la vie matériele, les arts
et les industries du peupele Annamite (Nhập môn nghiên cứu kỹ thuật của người
An Nam. Tiểu luận về đời sống vật chất, mỹ nghệ
kỹ nghệ của dân tộc An
Nam) (1909) của Henri Oger. Mặc dù được điều từ Pháp sang Việt Nam để làm
việc cho chính quyền Pháp, nhưng Henri Oger đã say mê và có những nghiên
cứu khá sâu về nền văn hóa truyền thống của người Việt Nam, về nghề thủ công
truyền thống của nhân dân Hà Nội. Henri Oger đã cùng một số thợ chạm khắc gỗ
Việt Nam đi khắp 36 phố phường Hà Nội, ra cả vùng ngoại thành để phác họa
hình ảnh đời sống của người dân Hà thành. Trong
, Henri Oger đã
12
phản ánh rõ nét và sinh động mọi mặt của đời sống văn hóa người dân Hà Nội
hơn 100 năm trước [35].
Bài
Hà Nội những năm 1886 - 1887
Paulin Vial được in trong
cuốn hồi ký Nos premières annés au Tonkin (Những năm đầu tiên của chúng tôi
ở Bắc Kỳ)
khá sâu sắc khi ông nghĩ đến một kế hoạch:
Sửa sang lại đường phố Hà Nội cho thẳng hàng, trong sạch, thoáng
khí và sáng sủa mà không phá hủy đi những di tích thú vị nhất của quá
khứ, không dồn ra xa đám dân chúng làm nghề thủ công và buôn bán,
đã làm nên sự giàu có của thành phố [35, tr.558].
Paulin Vial có những tìm hiểu khá kỹ các ngành nghề, phố nghề Hà Nội,
ông viết trong hồi ký của mình về sự khéo léo, kiên trì và một nghệ thuật không
thể bắt chước được của những người thợ thủ công ở các làng nghề khảm, thêu,
đúc đồng, mộc, rèn như sau: Thật không thể tưởng tượng được rằng người ta lại
có thể làm được nhiều đồ vật xinh đẹp đến như thế mà lại bằng những phương
tiện hết sức thô sơ [35, tr.561].
Nghiên c
Le paysan du delta Tonkinois
(Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ) của Piere Gourou (1936), ngoài việc phân
loại các làng ở châu thổ
các
ngành nghề truyền thống của người dân châu thổ Bắc Kỳ, tính thụ động của họ
và một số nghề mới được du nhập từ phương Tây sang. Sau này, nhiều nhà
nghiên cứu Việt Nam đã sử dụng cuốn sách của Piere Gourou làm nguồn tài liệu
tham khảo không thể thiếu cho nhiều bài viết, công trình khoa học [78].
Bài thuyết trình Hà Nội thời người Bồ Đào Nha và Hà Lan
- Section des Amis du Vieux Ha Noi), sau đó được chỉnh lý và in trong
chương XII cuốn sách Pour le comprehension de l’Indochine et de l’Occident
(Để tìm hiểu Đông Dương và phương Tây) đã dẫn lại nhận xét của Paul Bourde
về khu phố buôn bán ở Hà Nội vào những ngày chợ phiên vô cùng náo nhiệt:
13
Những thương nhân và thợ thủ công đủ mọi loại đến từ các
[35, tr.79].
Nghiên cứu về người nông dân Bắc Bộ nói riêng (trong đó có thợ thủ công)
và Đông Nam Á nói chung còn có hai nhà nhân học là Scotte C. Jame và Samuel L.
Popkin đã dành nhiều thời gian, công sức để nghiên cứu về tính duy lý hay duy tình
của người nông dân Việt Nam. Năm 1976, Scotte C. Jame xuất bản cuốn The Moral
Economy of the Peasant: Rebellion and Subsistence in Southeast Asia (Kinh tế đạo
lý của nông dân: nổi dậy và sinh tồn ở Đông Nam Á) [140]. Sau đó 3 năm, vào năm
1979 Samuel L. Popkin giới thiệu đến bạn đọc cuốn: The Rational Peasant: The
Political Economy of Rural Society in Vietnam (Người nông dân hợp lý - Kinh tế
học chính trị về xã hội nông thôn Việt Nam) [139]. Đây là hai nhà nhân học đầu
tiên khởi xướng nghiên cứu về tính duy lý hay duy tình của người nông dân Việt
Nam. Trong công trình của mình, hai ông nói về tính thụ động của người nông dân
Bắc Bộ còn chậm chạp trước những đổi thay của xã hội, trong đó có nói đến tính trì
trệ thụ động của người thợ thủ công
).
Sách Những nghề thủ công truyền thống gia đình ở tỉnh Hà Đông của Hoàng
Trọng Phu không đi sâu vào từng nghề, mỗi nghề chỉ giới thiệu rất khái quát, ngắn
gọn, nhưng đã hệ thống được các nghề thủ công tỉnh Hà Đông. Đặc biệt, riêng về
nghề thủ công ở làng Triều Khúc, Hoàng Trọng Phu giới thiệu 15 nghề chính của
làng, trong đó có nói đến nghề dệt thao đã được dân làng không ngừng giữ gìn, sáng
tạo và trao truyền cho các thế hệ con cháu. Đây là cuốn sách được nhiều nhà nghiên
cứu về thủ công Việt Nam sau này tìm đọc và coi như một nguồn tài liệu quý [70].
Sách Sơ thảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam của Phan Gia
Bền dày gần 200 trang đưa ra một số khái niệm về nghề thủ công và thợ thủ
công. Cùng với hai cuốn sách của Hoàng Trọng Phu và Piere Gourou, cuốn sách
trên của Phan Gia Bền thực sự là nguồn tư liệu quý giúp cho việc nghiên cứu về
nghề thủ công ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng [5].
14
Đầu những năm 1990, thời kỳ địa giới hành chính Hà Nội được mở rộng
thêm, một số huyện Ba Vì, Đan Phượng, Phúc Thọ, Hoài Đức, Thạch Thất, thị
xã Sơn Tây, Mê Linh nhập vào Hà Nội. Ngay sau đó, năm 1991 Sở Văn hóa
Thông tin Hà Nội chủ trì nghiên cứu, xuất bản công trình Địa chí văn hóa dân
gian Thăng Long - Hà Nội. Đây là công trình được các nhà khoa học nghiên cứu
khá kỹ không chỉ về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, mà các tác giả còn dành
hẳn một chương để viết về các nghề thủ công và mỹ nghệ dân gian, một chương
viết về kiến trúc và điêu khắc của Hà Nội.
Cùng với công trình Địa chí văn hóa dân gian Thăng Long - Hà Nội, năm
1994 Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội xuất bản cuốn Tìm hiểu di sản văn hóa dân
gian Hà Nội
tập hợp nghiên cứu của nhiều tác giả viết cho các đề tài khoa học
cấp thành phố, trong đó có những bài viết về phố nghề, làng nghề, các nghề thủ
công mỹ nghệ, được một số nhà nghiên cứu phân tích và đánh giá khá cao về giá
trị, đóng góp của chúng trong tiến trình lịch sử phát triển của Hà Nội [129].
Sách
Việt Nam, một số vấn đề kinh tế - xã hội của Phan Đại Doãn
viết về sự phát triển của nghề thủ công ở Việt Nam. Đặc biệt từ thời kỳ Lý Thái
Tổ dời đô về thành Thăng Long, kinh thành dần được mở rộng ra ngoài hoàng
thành, nhiều phường hội thủ công được thành lập, thợ từ
nơi khác về Thăng
Long làm ăn, sinh sống [14].
Sách Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam 1858 - 1945 của Vũ Huy Phúc [72],
của Lưu Thị Tuyết Vân, Tiểu thủ công nghiệp nông thôn
đồng bằng sông Hồng (1954 - 1994) đã
xuyên suốt cả một chặng
đường lịch sử của làng nghề thủ công từ năm 1858 khi Pháp nổ súng vào cửa
biển Đà Nẵng đến những năm cuối của thế kỷ XX [120].
Cuốn Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề [128] và
cuốn Làng nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội của GS.Trần Quốc Vượng và
PGS.TS. Đỗ Thị Hảo giới thiệu một cách khái quát, nhưng cũng tương đối đầy
đủ về nghề thủ công Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Tác giả chỉ ra
rằng, ban đầu nghề thủ công ở các làng quê chỉ là nghề phụ, người dân thường
- Xem thêm -