Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sự cần thiết khách quan, các giải pháp và vận dụng thực tiễn tích lũy tư bản ở v...

Tài liệu Sự cần thiết khách quan, các giải pháp và vận dụng thực tiễn tích lũy tư bản ở việt nam

.DOCX
19
378
146

Mô tả:

Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân MỞ ĐẦU Ngày nay các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng để phát triển kinh tế, ngoài việc lựa chọn đường lối phát triển còn phải có yếu tố vật chất để thực hiện đường lối đó.Đối với các nước đã phát triển mạnh mẽ như Mỹ, Anh, Pháp… chúng ta đều thấy rằng họ có một tiềm lực kinh tế (đặc biệt là tiềm lực về vốn) rất mạnh. Còn đối với những nước đang phát triển như nước ta với điểm khởi đầu rất thấp, nguồn vốn tự có rất ít, mà một trong những đặc trưng của các nước đang phát triển là tỷ lệ tích lũy thấp, chỉ dưới 10% thu nhập, mà tích lũy thấp sẽ dẫn đến trình độ kĩ thuật và năng suất lao động thấp. Do đó đòi hỏi các nước đang phát triển phải tìm biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn này. Muốn vậy phải lựa chọn mô hình phát triển kinh tế phù hợp.Song trong các mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại, các nhà kinh tế đặc biệt nhấn mạnh vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Do đó vốn là cơ sở để phát huy tác dụng của các yếu tố khác. Vốn là cơ sở để tạo ra việc làm, để có công nghệ tiên tiến, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất theo chiều sâu và cuối cùng cơ cấu sử dụng vốn sẽ là điều quan trọng tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Với Việt Nam, các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là chúng ta đã có bước khởi đầu tốt đẹp trong giai đoạn phát triển mới. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 1 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân thời gian tới còn nhiều khó khăn. Một trong những khó khăn đó là thiếu vốn. Trên đây chúng ta đã thấy vốn quan trọng như thế nào đối với việc phát triển kinh tế. Vì vậy điều chúng ta cần giải quyết là làm sao để tăng nguồn vốn của mình bằng cách tích lũy, huy động vốn từ trong và ngoài nước. Song trong những cách để có được nguồn vốn thì tích lũy và huy động vốn từ trong nước là quan trọng nhất.Và có như thế chúng ta mới không bị phụ thuộc vào bên ngoài, vì sự phát triển từ nội lực bao giờ cũng là sự phát triển vững chắc nhất. Nhận thức được vai trò của việc tích lũy vốn mà em lựa chọn đề tài này. Trong bài viết em sẽ trình bày những lý luận chung về tích lũy và ứng dụng những lý luận đó trong phát triển nước ta hiện nay. I. THỰC CHẤT CỦA TÍCH LŨY TƯ BẢN VÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH QUY MÔ CỦA NÓ 1. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản Tái sản xuất giản đơn không phải là hình thái điển hình của chủ nghĩa tư bản. Hình thức tiến hành của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng.Tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa là sự lập lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn trước, với một lượng tư bản lớn hơn trước.Muốn vậu phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc sử dụng giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hóa giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy tư bản Như vậy, thực chất của tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư.Xét một cách cụ thể, tích lũy tư bản là tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày càng mở rộng.Sở dĩ giá trị thặng dư có thể chuyển TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 2 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân hóa thành tư bản được là vì giá trị thặng dư mang sẵn những yếu tố vật chất của tư bản mới. Có thể minh họa tích lũy tư bản và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa bằng ví dụ sau: Năm thứ nhất: 80c + 20v + 20m. Giả định 20m không bị nhà tư bản tiêu dùng tất cả cho cá nhân, mà được phân thành 10m1 + 10m2 (trong đó 10m2 giành cho tiêu dùng cá nhân của nhà tư bản, còn 10m1 dùng để tích lũy). Phần giá trị thặng dư 10m1 dùng để tích lũy được phân thành 8c1 + 2v1.Khi đó quy mô sản xuất của năm sau sẽ là 88c + 22v + 22m (nếu m’ vẫn như cũ).Như vậy, vào năm thứ hai, quy mô tư bản bất biến và tư bản khả biến đều tăng lên, giá trị thặng dư cũng tăng lên tương ứng. Nghiên cứu tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra những kết luận vạch rõ hơn bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: Một là, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư bản tích lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ tư bản.C.Mác nói rằng, tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dòng sông của tích lũy mà thôi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột chính người công nhân. Hai là, quá trình tích lũy tư đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, sự trao đổi giữa người sản xuất hàng hóa theo nguyên tắc ngang giá về cơ bản không dẫn tới người TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 3 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một phần lao động của công nhân, mà còn là người sở hữu hợp pháp lao động không công đó. Nhưng điều đó không vi phạm quy luật giá trị. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự lớn lên không ngừng của giá trị.Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích lũy và tái sản xuất mở rộng, xem đó là phương tiện căn bản để tăng cường bóc lột của người công nhân. Mặt khác, do cạnh tranh, các nhà tư bản không ngừng làm cho tư bản của mình tăng lên, bằng cách tăng nhanh tư bản tích lũy. Thật ra trong buổi đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ham muốn làm giàu của chủ nghĩa tư bản thường chi phối tuyệt đối, nhưng đến một trình độ phát triển nhất định, sự tiêu dùng xa xỉ của các nhà tư bản ngày càng tăng lên kèm theo sự tích lũy tư bản. 2. Những nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản Với một khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích lũy phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư để thành quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Nếu tỉ lệ phân chia đó đã có sẵn, thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích lũy sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. Do đó những nhân tố quyết định quy mô của tích lũy chính là những nhân tố quyết định quy mô của khối lượng giá trị thặng dư. Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản phải được chia làm hai trường hợp: TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 4 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Một là, trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành hai quỹ: quỹ tích lũy và quỹ tiêu dungfcuar nhà tư bản. Đương nhiên tỷ lệ quỹ này tăng lên thì tỷ lệ dành cho quỹ kia sẽ giảm đi. Hai là, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trong trường hợp này khối lượng giá trị thặng dư bi phụ thuộc vào những nhân tố sau đây: - Trình độ bóc lột sức lao động bằng những biện pháp: tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, cắt giảm tiền lương của công nhân. Có nghĩa là thời gian công nhân sang tạo ra giá trị thì càng được kéo dài ra nhưng chi phí càng được cắt giảm, do vậy khối lượng giá trị thặng dư càng lớn và quy mô của tích lũy tư bản càng lớn. - Trình độ năng suất lao động xã hội: năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tang quy mô của tích lũy. - Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị)tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị khấu hao từng phần. Như vậy là mặc dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị.Sự hoạt động này của máy móc được xem như là sự phục vụ không công. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 5 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô của tích lũy tư bản càng lớn. - Quy mô của tư bản ứng trước Với trình độ bóc lột không thay đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản. 3. Tích tụ và tập trung tư bản Quy mô của tư bản cá biệt tăng lên thông qua hai con đường: tập trung và tích tụ tư bản. Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị thặng dư. Tích tụ và tập trung tư bản có mối quan hệ với nhau, nhưng không đồng nhất với nhau.Sự khác biệt này không chỉ về chất, mà còn khác nhau về lượng. Tập trung tư bản tuy không làm tăng quy mô tư bản xã hội, nhưng có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa và quá trình chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao. 4. Cấu tạo hữu cơ của tư bản Quy mô của tư bản mà tăng lên thì cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng có sự biến đổi. C.Mác phân biệt cấu tạo kĩ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản. Về mặt hình thái vật chất, mỗi tư bản đều gồm có tư liệu sản xuất và sức lao động để sử dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Để tính cấu tạo kỹ thuật của tư bản, người ta thường dùng TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 6 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân chỉ tiêu như số năng lượng, hoặc số lượng máy móc do một công nhân sử dụng trong sản xuất, ví dụ 100kw điện/1 công nhân, 10 máy dệt/1 công nhân. Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia làm hai phần: tư bản bất biến (c) và tư bản khả biến (v). Tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản. Ví dụ, một tư bản mà đại lượng của nó là 12.000$, trong đó giá trị tư liệu sản xuất là 10.000$, còn giá trị sức lao động là 2.000$, thì cấu tạo giá trị của tư bản đó là 10.000$ : 2.000$ = 5:1. Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản quan hệ chặt chẽ với nhau. Nói chung, những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự thay đổi trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ đó, C.Mác dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư bản quyết định và phản ánh những biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. C.Mác viết: “…Tôi gọi kết cấu giá trị của tư bản là kết cấu hữu cơ của tư bản trong trừng mực mà kết cấu giá trị ấy được quyết định bởi kết cấu kỹ thuật của tư bản và phản ánh những sự biến đổi của kết cấu kỹ thuật này”. Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên là một quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tang, do đó cấu tạo giá trị của tư bản phản ánh cấu tạo kỹ thuật của tư bản cũng tăng nên cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng lên. Hơn nữa, việc nâng cao cấu TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 7 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân tạo hữu cơ của tư bản còn do yêu cầu của quy luật giá trị thặng dư và quy luật cạnh tranh chi phối. II. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, CÁC GIẢI PHÁP VÀ VẬN DỤNG THỰC TIỄN TÍCH LŨY TƯ BẢN Ở VIỆT NAM 1. Vai trò của tích lũy vốn ở Việt Nam Từ bài học của những quốc gia phát triển trên thế giới và từ thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định tích tụ và tập trung vốn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp hiện đại hóa đất nước cũng như đối với sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Việt Nam muốn đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” thì cần phải tích tụ và tập trung vốn với tỷ lệ cao để tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện Đại hội VIII đã chỉ ra rằng đến năm 2020 Việt Nam phải hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hóa, cải tiến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Vấn đề huy động vốn cho quá trình CNH-HĐH có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nước ta.Trước hết là huy động nguồn vốn từ nội bộ nền kinh tế trong nước.Đây là nguồn vốn có tính quyết định, là nhân tố nội lực. Nhờ tăng năng suất lao động xã hội một cách liên tục mà tạo ra nguồn vốn tự có. Nguồn vốn nội bộ còn được tạo ra từ sự liên doanh liên kết giữa các ngành, các lĩnh vực, các miền, các vùng của nền kinh tế đất nước. Nguồn vốn cò được tạo ra thông qua sự phát triển mạnh mẽ của các công ty cổ phần, thông qua việc huy động các tiền nhàn rỗi của dân cư, của các cơ sở kinh tế, các tổ chức đoàn thể, thông qua các khoản thế nộp ngân sách Nhà nước… TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 8 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Các quốc gia trên thế giới cũng như nước ta đều phải dùng mọi biện pháp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các hình thức: liên doanh, hợp tác kinh doanh, vay với lãi suất thấp, vốn viện trợ. Trong điều kiện nền kinh tế tích lũy vốn nội bộ còn thấp thì thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài là rất quan trọng. Từ nguồn vốn bên ngoài, biến thành nguồn lực trong nước, tạo điều kiện để đấy nhanh quá trình CNH-HĐH, tăng trưởng và phát triển. Để với việc huy động vốn đầu tư nước ngoài cần có cơ chế thu hút ngày càng nhiều và tranh thủ cùng với công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên nguồn vốn nước ngoài cũng chỉ có hạn và thường kèm theo những ràng buộc nhất định, số nước và số cá nhân có vốn đầu tư nước ngoài không tương đương với số nơi có nhu cầu nhận đầu tư, từ đó làm nảy sinh cạnh tranh. Cuộc cạnh tranh này đưa các nước kém phát triển hơn vào thế bất lợi.Còn việc vay vốn thì phải tính đến khả năng trả nợ, ngoài ra còn phải đảm bảo các yếu tố khác về độc lập chủ quyền, kinh tế, chính trị. Vì vậy, để quá trình CNH-HĐH và sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, tất yếu phải bảo toàn, phát triển vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 2. Thực trạng quá trình tích lũy vốn ở Việt Nam Trước đây, trong nền kinh tế bao cấp, chỉ huy khi mà cuộc sống của người dân còn vô cùng khó khan, tiêu dùng còn thiếu thốn thì quá trình tích lũy vốn còn gặp rất nhiều trở ngại. Mặt khác Nhà nước lại can thiệp quá sâu vào nền kinh tế dẫn đến việc các tổ chức doanh nghiệp không thể phát huy hết được khả năng tham gia vào thị trường của mình. Việc điều chỉnh mang nặng tính chỉ huy của TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 9 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Nhà nước làm cho nhiệm vụ tích tụ tập trung vốn không đạt được hiệu quả đặt ra.Người dân phải lo tiêu dùng từng ngày nên không thể chú trọng vào việc tích lũy.Nguồn viện trợ của nước ngoài lại chứa đựng nhiều yếu tố chính trị nên không được phát huy hết khả năng vốn có của nó.Các chủ doanh nghiệp chưa dám mạnh dạn đầu tư vì mức độ rủi ro cao, đồng tiền không ổn định, thị trường chưa đảm bảm được tính cạnh tranh vốn có của nó. Từ khi chuyển đổi cải cách nền kinh tế nhìn chung đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, tổng thu nhập quốc dân tăng nhanh thị trường hàng hóa phong phú và sôi động hẳn lên… những thành quả đạt được đó là không thể nghi ngờ. Quý I năm 2013, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Hà Nội, tuy thấp hơn kế hoạch năm 2013 của thành phố, nhưng cao hơn tốc độ tăng trưởng của cùng kì năm trước: Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 7.5%; vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tăng 11.7%; tổng mức bán hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng 11.6%; kim ngạch xuất khẩu tăng 0.3%... Dự kiến quý I năm 2013, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Hà Nội (vốn đầu tư xã hội) đạt 42.911,8 tỷ đồng, tăng 11.7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn nhà nước trên địa bàn tăng 16.3%; vốn ngoài nhà nước tăng 11.1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8% so với cùng kỳ.Chia theo khoản mục đầu tư: vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chiếm tỷ trọng 27.5%, tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất, chiếm tỷ trọng 18.5%, tăng 18%; Vốn đầu tư sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản, chiếm tỷ trọng 1%, tăng 10.9%; Vốn đầu tư bổ sung TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 10 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân vốn lưu động, chiếm tỷ trọng 48.1%, tăng 9.6%; Vốn đầu tư khác, chiếm tỷ trọng 4.9%, tăng 11.6%. Quý I năm 2013, các công trình, dự án có vốn chuyển tiếp tục được thực hiện. Một số dự án do các Sở làm chủ đầu tư có khối lượng thực hiện đạt khá (trên 25%) so với kế hoạch năm 2013.Thu hút vốn đầu tư nước ngoài quý I năm 2013 của Hà Nội đạt được kết quả khá so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến quý I năm 2013, trên địa bàn Hà Nội có 61 dự án đầu tư trong nước được cấp mới và tăng vốn, với tổng đầu tư đăng ký là 149 triệu USD. Tuy nhiên những gì mà chúng ta đạt đượcvẫn còn quá nhỏ bé. So với thế giới, nền kinh tế của ta vẫn còn lạc hậu, kém phát triển. Vậy nguyên nhân là do đâu? Chúng ta thấy rằng tiềm năng trong dân còn rất lớn nhưng tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư còn thấp, nhiều hộ gia đình và không ít những doanh nghiệp còn đầu tư chưa có hiệu quả, nguồn vốn vẫn không luân chuyển được từ nơi thừa đến nơi thiếu. Đầu tư của nhà nước tuy đã tăng lên nhưng còn dàn trải, còn lãng phí, thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn chậm phát triển, lãi suất tín dụng chưa phù hợp với việc đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung vốn, vì thế còn hạn chế đầu tư phát triển. Các hình thức tích tụ và tập trung vốn chưa tạo ra sức hấp dẫn với người có vốn và hệ số sử dụng vốn trong nền kinh tế còn thấp.Việc tích tụ và tập trung vốn từ các thành phần kinh tế ngoài ngân sách còn chậm và chưa đồng bộ.Hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng trung gian phục vụ cho việc giao lưu nguồn vốn tích lũy giữa những người có tiền nhàn rỗi với các đơn vị sản xuất kinh doanh còn chưa tác động tích cực mạnh mẽ.Đặc biệt là TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 11 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân các chính sách tài chính tiền tệ chưa giải quyết đúng và trúng các vấn đề bức xúc của nền kinh tế. Do đó nó chưa thực sự trở thành đòn bẩy có hiệu quả trong điều khiển kinh tế vĩ mô, nhằm thúc đẩy sản xuất, tạo và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu thuế…Ngoài ra ở giai đoạn này còn thiếu vắng nhiều giải pháp tích tụ và tập trung vốn hữu hiệu, trong đó có công cụ thị trường chứng khoán. Việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư còn phân tán, không tập trung tối đa vốn tiền mặt cũng như nhân tài vật lực để giải quyết với tốc độ nhanh các công trình thiết yếu mang tính chất “xương sống” của nền kinh tế, vẫn còn nhiều lãng phí và kém hiệu quả. Hệ thống hành chính nói chung còn lắm thủ tục phiền hà, vì thế người dân còn chưa hăng hái bỏ tiền ra đầu tư sản xuất xuất kinh doanh nói chung và đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp nói riêng. Thị trường chứng khoán nói chung cũng đang trong thời kỳ sơ khai nên chưa có hiệu quả tích cực. Quy mô nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách hiện nay còn hết sức nhỏ bé do mức thu nhập thực tế của Việt Nam còn thấp, các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đã chưa đủ sức hấp dẫn thu hút dân chúng bỏ vốn vào sản xuất thay cho việc tiêu dùng cá nhân. Do đó những nhà quản lý kinh tế cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp tích tụ và tập trung vốn đạt hiệu quả cao nhất, đáp ứng yêu cầu về vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 3. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình tích lũy vốn ở Việt Nam a. Xây dựng các mức lãi suất tiền gửi trung hạn và dài hạn hợp lý. TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 12 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Một chính sách lãi suất hợp lý là một chính sách được xây dựng có cơ sở khoa học và thực tiễn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện đại. Xây dựng các mức lãi suất tiền gửi trung hạn và dài hạn hợp lý cho giai đoạn hiện nay và thời gian tới, cần phải giải quyết theo các hướng sau: +Tiếp tục xác định mức lãi suất tiền gửi trung hạn và dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi ngắn hạn. Thời gian gửi càng dài lãi suất càng cao. +Lãi suất tiền gửi trung và dài hạn cần xây dựng thành nhiều mức khác nhau. Mỗi mức lãi suất cho khoảng thời gian bao lâu là tùy thuộc vào thời gian gửi tiền của dân cư và nhu cầu huy động vốn của mỗi ngân hàng. +Khi cần thiết phải huy động một lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho các công trình trọng điểm, ngân hàng có thể nâng mức lãi suất tiền gửi cao hơn lúc bình thường và trả lãi trước cho người gửi tiền. +Các ngân hàng nên trả lãi cho người gửi tiền khi họ gửi tiền với thời gian trung hạn và dài hạn nhưng có nhu cầu rút ra trước thời hạn. Mức lãi nên ở mức thấp hơn một mức của thời gian thực tế họ đã gửi. b. Huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt và đa dạng hóa. Ngân hàng nên hoàn thiện các hình thức vốn huy động, vốn truyền thống, đồng thời củng cố và mở rộng các hình thức huy động vốn mới: TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 13 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân +Phổ cập hóa các dạng sổ tiết kiệm hiện nay thành các khoản tiết kiệm của dân cư. Khi đó sẽ có thêm khách hàng có quan hệ tài khoản tại ngân hàng.Khách hàng mở tài khoản càng đông, huy động tiền gửi càng nhiều. +Ngân hàng nên gắn việc huy động tiền gửi với việc cho vay nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Ai gửi nhiều tiền dài hạn thì cũng được vay dài hạn nhiều.Với hình thức này vừa tạo được nguồn vốn vừa mở rộng thị trường đầu tư và khuyến khích việc tích lũy của nhân dân. +Ngân hàng có thể áp dụng cách nhận tiền gửi theo kiểu hộp đóng, khách hàng ký hợp đồng với ngân hàng gửi tiền dài hạn mà lãi suất được thỏa thuận và cố định trong suốt quá trình gửi tiền. Đối với hình thức này khách hàng có lợi thế là cho dù lãi suất thị trường có giảm thì họ vẫn được mức lãi suất đã ghi trong hợp đồng. c. Ngân hàng cần tạo được độ tin cậy của dân. Con người ta luôn có tư duy sinh lời, kiếm lợi nhuận nhưng bên cạnh đó do bản tính nên ở đâu an toàn thuận tiện thì ở đó sẽ được người dân tin cậy mà gửi gắm tài sản vào. Vì vậy khi ngân hàng không có đủ độ tin cậy đối với người dân thì rất khó có thể huy động được nhiều vốn trong dân, nhất là vốn nhàn rỗi dài hạn dưới hình thức dự trữ của cải. Muốn khuyến khích người gửi tiền thì trước hết phải gây được niềm tin ở công chúng, chẳng hạn ngân hàng phối hợp với các công ty bảo hiểm xúc tiến nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi nói riêng, bảo hiểm vốn của người đầu tư nói chung. TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 14 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Đó là tạo ra độ an toàn cao cho người gửi tiền. Mở rộng mạng lưới ngân hàng, thực tế cho thấy ở đâu có hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ, rộng khắp và hoàn thiện các nghiệp vụ, thì ở đó thu hút ngày càng nhiều vốn tiền tệ trong xã hội vào ngân hàng. d. Mở rộng và kích thích thị trường chứng khoán hoạt động. +Phải tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Muốn vậy phải đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác thành lập công ty cổ phần.Triển khai việc phát hành tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và cho phép mọi người dân được phép mua bán chuyển nhượng rộng rãi trên thị trường. +Đa dạng hóa nhiều lại mức mệnh giá cho thị trường chứng khoán, cũng như có sự tham gia của nhiều công ty cổ phần đại chúng. Điều này rất quan trọng để công chúng có thể dùng tiền tiết kiệm để đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau của nhiều công ty khác nhau, tránh rủi ro khi đầu tư. +Nhà nước ban hành các văn bản pháp lý cần thiết như luật, pháp lệnh, nghị định về hoạt động của thị trường chứng khoán. Phân chia rã ràng chức năng và nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 15 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân KẾT LUẬN Qua lý luận tích lũy tư bản (vốn) thấy rằng cùng với sự phát triển của xã hội tích lũy ngày càng đóng vai trò quan trọng và cần thiết. Nhờ tích lũy mà của cải của xã hội không ngừng được tăng lên. Tuy nhiên trong từng giai đoạn lịch sử tích lũy mang bản chất khác nhau: dưới chủ nghĩa tư bản tích lũy là phương tiện để giai cấp tư sản bóc lột lao động làm thuê, tích lũy càng nhiều lao độnglao động làm thuê càng bị bóc lột nặng nề gây nên mâu thuẫn đối kháng mà chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được dẫn đến sự nổi dậy của giai cấp vô sản giành chính quyền. Dưới chủ nghĩa xã hội, tích lũy tư bản là phương tiện làm tăng của cải của toàn dân, tích lũy càng cao thì đời sống của nhân dân càng được cải thiện, lợi ích của nhân dân lao động ngày càng cao bởi chủ nghĩa xã hội mặc dù tích lũy được coi trọng nhưng không có nghĩa tiêu dùng giảm đi mà phải không ngừng tăng lên (đó là mục tiêu của chế độ xã hội này đặt ra). Việt Nam hiện nay đang nằm trong khu vực hoạt động năng động và sôi nổi có rất nhiều thuận lợi và thách thức mà vị trí địa lý đem lịa cùng với việc vượt qua những thách thức của thời đại Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp CNH-HĐH một cách sâu sắc toàn diện từ địa phương tới trung ương. Quá trình này là đầu tư theo chiều sau (đổi mới công nghệ, cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa dây truyền sản xuất,…) và đầu tư xây dựng mới để chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên phạm vi rộng quy mô lớn. Do đó, vốn đã và đang trở thành vấn đề bức thiết đối với nước ta. TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 16 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Tuy nhiên việc sử dụng nguồn vốn như thế nào lại là điều mà mọi quốc gia cần phải hết sức quan tâm.Một nguồn vốn dù là lớn nhưng sử dụng không đúng mục đích thì nó cũng trở thành vô nghĩa.Vì vậy với điều kiện riêng từng quốc gia có phương pháp và giải pháp hữu hiệu cho quá trình huy động và sử dụng vốn đạt hiệu quả tối đa như tiềm năng mà quốc gia đó đã có. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình kinh tế chính trị học Mác – Lênin 2.Kinh tế chính trị học – nxb giáo dục 3.Tích tụ và tập trung vồn trong nước/ Trần Xuân Kiên 4.Tư bản - Quyển 1- Tập 3/ C.Mác 5.Nguồn Tổng cục thống kê của Quý 1/2013 TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 17 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................ 1 I. THỰC CHẤT CỦA TÍCH LŨY TƯ BẢN VÀ NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH QUY MÔ CỦA NÓ.................................................2 1. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản...............................2 2. Những nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản.................4 3. Tích tụ và tập trung tư bản......................................................5 4. Cấu tạo hữu cơ của tư bản.......................................................5 II. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN, CÁC GIẢI PHÁP VÀ VẬN DỤNG THỰC TIỄN TÍCH LŨY TƯ BẢN Ở VIỆT NAM.............6 1. Vai trò của tích lũy vốn ở Việt Nam.........................................6 2. Thực trạng quá trình tích lũy vốn ở Việt Nam........................8 3. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình tích lũy vốn ở Việt Nam 10 a. Xây dựng các mức lãi suất tiền gửi trung hạn và dài hạn hợp lý. 10 TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 18 Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân b. Huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt và đa dạng hóa..............................................................................................11 c. Ngân hàng cần tạo được độ tin cậy của dân..........................11 d. Ổn định giá trị đồng tiền............Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN......................................................................................13 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................14 TRỊNH THỊ HÀ - 11121072 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng