Tiểu luận
SỰ PHÂN CẤP TÀI KHÓA VÀ QUY MÔ CHÍNH PHỦ
MỘT NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI QUỐC GIA CHÂU ÂU
(Fiscal Decentralization and the size of Government
A European country empirical analysis)
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang1
1. GIỚ I THIỆU
Kể từ cuối những năm 1980, sự phân cấp đó là việc chuyển giao quyền lực chính t rị, tài chính và
hành chính cho các chính quyền địa phương, đã nổi lên như một t rong những xu hướng quan t rọng
nhất trong chính sách phát triển. Vì vậy, thiết lập các mối quan hệ tài khóa giữa các cấp của chính phủ
các nước thành viên Liên minh châu Âu đã t hu hút sự quan t âm về việc chuyển giao quyền hạn thu
thuế cho cấp địa phương. Các tổ chức siêu quốc gia, chẳng hạn như Ngân hàng T hế giới (2000) hoặc
OECD (2002a, 2002b), hỗ trợ phân cấp t ài khóa ở các nước Đông Âu, cho rằng một di chuyển theo
hướng phân cấp hơn sẽ thúc đẩy phát triển kinh t ế cũng như hiệu quả của khu vực công. Báo cáo của
Ngân hàng T hế giới khi bước vào thế kỷ 21 ghi lại rằng mong muốn về việc tự quyết định và chuyển
giao quyền lực là động lực chính "định hình thế giới, t rong đó phát t riển sẽ được xác định và t hực
hiện" 1 trong thập niên đầu của thế kỷ này.
Một số lý thuyết khác về hành vi của chính phủ đề xuất t rong các t ài liệu tài chính công t húc đẩy
giả thuyết cho rằng phân cấp tài khóa có thể hạn chế quy mô của khu vực công. Oat es (1972) lập luận
rằng chính quyền địa phương có thông t in về sở thích của người dân tốt hơn so với chính phủ liên
bang và trung ương, có nghĩa là phân cấp trong việc cung cấp hàng hóa công cho công chúng sẽ hiệu
quả hơn cung cấp tập trung. T uy nhiên, ông cũng lưu ý rằng trong khi hàng hóa công đáp ứng t ốt hơn
nhu cầu của người dân (phù hợp với T iebout1956), tăng nhu cầu t rong nước đối với các dịch vụ công
có thể làm tăng quy mô của khu vực công (Oates1985). Trong việc giới thiệu giả thuyết Leviathan nổi
tiếng của họ, Brennan và Buchanan (1980 , p.185) thừa nhận rằng "tổng can thiệp của chính phủ trong
nền kinh tế nên nhỏ hơn, các yếu tố khác không đổi, thì mức độ mà các loại thuế và chi phí được phân
cấp lớn hơn". Chính phủ diễn tả khi tối đa hoá nguồn thu, các tác giả, và các tài liệu t iếp theo về sự lựa
chọn công, cho rằng, miễn là căn cứ tính thuế linh động, phân cấp tài khóa các cấp chính quyền tham
gia vào cạnh tranh về thuế, do đó hạn chế sự độc quyền của Leviathan về thuế. T uy nhiên, mô hình
cho thấy khi một số cấp chính quyền độc lập định ra mức t huế của họ, trên cơ sở thuế chung (ví dụ,
chia sẻ cơ sở thuế), kết hợp (t ổng hợp) thuế suất cân bằng của hai cấp chính quyền để tối đa hóa nguồn
thu sẽ cao hơn so với nguồn thu tối đa hóa tỷ lệ thuế của chính phủ duy nhất (Flowers1988; Shughart
và T ollison 1991; Keen 1995; Wrede1996; Keen và Kotsogiannis2004). T hật vậy, không có sự đồng
thuận lý thuyết về mối quan hệ giữa phân cấp t ài khóa và quy mô của khu vực nhà nước t ừ những
người đặt câu hỏi về mô hình Leviathan cũng phác thảo cho thấy phân cấp có t hể không dẫn đến một
1
World Development Report on Entering the 21st Century qu oted by Ebel and Yilmaz (200 2, p. 3).
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang2
khu vực công gọn gàng hơn, đó là hiệu ứng fly-paper (giấy bẫy ruồi) nổi tiếng và vấn đề hàng hóa t iêu
dùng chung (để xem chi t iết hơn,x xem Jin và Zou2002 , t rang 273-274).
T heo nghiên cứu thực nghiệm Oates (1972 , 1985 ), nhiều tài liệu đã cố gắng để kiểm tra tác động
của việc phân cấp trên quy mô của chính phủ. T uy nhiên, kết quả là không t huyết phục (xem Feld et
al. 2003, một tài liệu nghiên cứu đầy đủ). Kết quả của tài liệu này cho thấy quy mô của chính phủ
thường được đánh giá trên khía cạnh nguồn thu thuế hoặc chi tiêu chính phủ, trong khi hầu hết các chỉ
số phân cấp tài khóa có nguồn gốc từ T hống kê T ài chính của Chính phủ (GFS) do Quỹ T iền t ệ quốc
tế (IMF), thì được xác định trên cơ sở một khía cạnh của phân cấp, có nghĩa là, các địa phương chia sẻ
nguồn thu hoặc chi phí của chính phủ. T uy nhiên, các chỉ số tài chính t hông t hường đánh giá quá cao
mức độ phân cấp tài khóa hoặc tự chủ tài chính t rong hầu hết các nước, như vậy họ không có kiểm
soát tài khoản nắm giữ bởi chính quyền địa phương trên căn cứ tỷ lệ tính thuế (Stegarescu 2004). Phân
cấp chi tiêu mà không giao quyền hạn về thu thuế địa phương tương ứng có t hể không tạo ra sự cạnh
tranh thuế hạn chế hành vi của Leviathan. Phân cấp tài khóa được t ài t rợ bởi nguồn chung, như là trợ
cấp hoặc chia sẻ nguồn thu được kiểm soát bởi T rung Ương (t ức là, sự mất cân bằng t heo chiều dọc),
có thể có ảnh hưởng ngược lại, bằng cách phá vỡ các liên kết giữa lợi ích được hưởng và các loại t huế
phải nộp. Phân cấp có thể hạn chế hoặc tăng cường sự phát triển của chính phủ, tùy thuộc vào bản chất
của việc phân cấp (Rodden 2003). Một vài t ài liệu dựa t rên t hông t in từ các nước OECD (2001)(Organizat ion of Economic Co-oporation and Development-T ổ chức hợp t ác và phát t riển kinh t ế),
tính đến kiểm soát chính quyền địa phương trên căn cứ tính thuế hoặc tỉ lệ trong các nước chuyển đổi
Châu Âu (Ebel và Yilmaz 2002) và ở một số nước OECD (Rodden 2003 Meloche et al.2004). Nhiều
nghiên cứu trong số những nghiên cứu này kết luận rằng quyền t ự chủ tài khóa dẫn đến các quốc gia
nhỏ hơn trong khi các khoản trợ cấp có t ác động t ích cực đối với quy mô của khu vực công. T uy
nhiên, Jin và Zou (2002), trong một nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng t rên 32 quốc gia, cho thấy phân
cấp tài khóa ảnh hưởng khác nhau đến quy mô của chính phủ, địa phương và cả hai.
T heo tài liệu này, các bài báo hiện nay tập trung vào những ảnh hưởng của phân cấp t ài khóa trên
quy mô chính phủ sử dụng một dữ liệu bảng của các nước châu Âu. Điều này tạo thành một đóng góp
độc đáo cho sự hiểu biết về mối quan hệ giữa phân cấp t ài khóa và quy mô của chính phủ liên quan
đến một số khía cạnh cụ thể. T heo tác giả, đây là bài báo đầu tiên kết hợp chỉ báo của OECD phân cấp
nguồn thu2 với thước đo của sự mất cân bằng theo chiều dọc, cho một mẫu gồm 15 quốc gia EU. T ác
giả sử dụng một mô hình dữ liệu bảng chịu t ác động về thời gian và không gian để đưa vào khoản chi
tiêu chính phủ có thể thay đổi chậm theo thời gian và có t hể có một số mối t ương quan giữa chi t iêu
2
Tác giả sử dụng dữ li ệu của Stegarescu (2004) trong đó sử dụng các (1999) cách tiếp cận OECD tự chủ nguồn thu của chính
quy ền địa phương. Stegarescu mở rộng số lượng các quốc gia và mở rộng dữ li ệu để đạt được một bảng dữ liệu tập hợp đầy
đủ.
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang3
công của các nước. T ác giả ước tính cả các mối quan hệ dài hạn giữa phân cấp và chi tiêu công và một
mô hình sai số để phân biệt tác động ngắn hạn và dài hạn của phân cấp. T heo tác giả, đây cũng là bài
báo đầu tiên phân tích các tác động của phân cấp t rên t oàn bộ quy mô của chính phủ, quốc gia và địa
phương, bằng cách tách biệt các tác động dài hạn của việc phân cấp từ các động lực ngắn hạn. Các đối
số liên quan phân cấp cho quy mô của chính phủ có t hể được hiểu t ốt nhất như đề cập đến điểm cân
bằng dài hạn.
Đầu tiên, tác giả xác nhận mức độ cao duy trì trong chi t iêu công ở các nước châu Âu. Có sự
tương tác về mức chi t iêu công giữa các cấp và chính phủ ở 15 quốc gia EU. T ác giả cũng t hấy rằng
phân cấp ảnh hưởng đến toàn bộ, cả quy mô địa phương và chính phủ cũng như tác động của phân cấp
trên quy mô của mỗi cấp chính quyền phụ thuộc vào bản chất của sự chuyển giao quyền lực. Về lâu
dài, chúng ta thấy rằng quyền tự chủ thuế của chính quyền địa phương tăng nhiều hơn thì tương ứng là
việc giảm của chính phủ, dẫn đến chính phủ tổng hợp lớn hơn. T ác giả cũng thấy rằng sự mất cân bằng
theo chiều dọc có xu hướng làm tăng quy mô của các địa phương, chính phủ và t oàn bộ quốc gia.
Bài viết này được cấu trúc như sau. Phần tiếp theo là tóm tắt các nghiên cứu t hực nghiệm. T rong
mục 3, tác giả trình bày các đặc điểm kỹ thuật t hực nghiệm và dữ liệu. Các kết quả được t rình bày
trong mục 4 và 5. Phần cuối cùng là kết luận.
2. TỔ NG Q UAN C ÁC NGHIÊN C ỨU TRƯỚ C ĐÂY
Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm về phân quyền và quy mô chính phủ được kiểm định bởi
Bren-Nan và giả thuyết Buchanan Leviathan (xem Feld et al. 2003, tóm tắt lý t huyết hoàn chỉnh).
T rong bài báo này, tác giả chỉ thảo luận các kiểm định về các cấp độ quốc gia. Đầu t iên, Oat es (1972
,t rang 209-213 ) đánh giá các nghiên cứu thực nghiệm của giả thuyết phân cấp trên hơn 57 quốc gia.
Ông đã sử dụng tỷ trọng nguồn thu thuế trong t hu nhập quốc gia như đại diện cho quy mô của chính
phủ, trong khi tỷ lệ nguồn thu thuế của chính phủ trung ương t rên t ổng nguồn t hu thuế được sử dụng
để đo lường quyền lực của CP trung ương. Ông ta thu được một mối quan hệ tiêu cực giữa chỉ số
quyền lực của CP trung ương với quy mô chính phủ, nhưng kết quả dường như không có nhiều ý
nghĩa khi ông kiểm soát thu nhập. Edhaie (1994) chỉ trích nghiên cứu của Oat es, cho rằng mối quan hệ
giữa nguồn thu thuế và chi tiêu nên được xem xét đồng thời trong quá trình phân cấp. Ông t hấy rằng,
trong một mẫu của 30 quốc gia năm 1987 và 1977, sự phân cấp đồng t hời của t huế Chính phủ và
quyền hạn chi tiêu có xu hướng làm giảm quy mô ở khu vực công. T hế nhưng, một số nghiên cứu t ìm
thấy một tác động tích cực đáng kể về mặt t hống kê của quy mô chính phủ : nghiên cứu của Stein
(1999) cho 19 quốc gia châu Mỹ La tinh t ừ năm 1990 đến năm 1995, và Heil (1991) nghiên cứu 22
quốc gia OECD và 39 quốc gia của IMF.
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang4
Một số nghiên cứu cho rằng phân cấp tài khóa có t hể hạn chế hoặc t ăng cường sự phát t riển của
chính phủ, tùy thuộc vào loại phân cấp. Phân cấp chi tiêu mà không đi kèm với sức mạnh thu thuế của
địa phương sẽ không tạo ra thuế cạnh tranh –kiềm chế hành vi của Leviathan. Và phân cấp được t ài
trợ bởi nguồn phổ biến, chẳng hạn như trợ cấp hoặc chia sẻ thu nhập được kiểm soát bởi t rung ương,
có thể có ảnh hưởng ngược lại bằng cách phá vỡ các liên kết giữa thuế phải nộp và lợi ích được huỏng.
Hơn nữa, theo mô hình Brennan và Leviathan Buchanan, hệ thống các khoản trợ cấp có t hể được hiểu
như là một hình thức t hỏa t huận thông đồng giữa các chính quyền địa phương để phá vỡ những t ác
động hạn chế của phân cấp tài khóa ( Feld et al. 2003). JinandZou(2002), dựa t rên IMF GFS (T hống
kê T ài chính Chính phủ ) dữ liệu của 17 nước công nghiệp và 15 nước đang phát triển, thấy rằng phân
cấp chi tiêu và sự mất cân bằng t heo chiều dọc làm t ăng quy mô của t ổng khu vực công, trong khi
nguồn thu từ phân cấp tạo ra kết quả ngược lại. Họ cũng cho t hấy phân cấp t ài khóa có những ảnh
hưởng khác nhau đối với quy mô của chính quyền địa phương, trung ương và toàn quốc gia. Phân cấp
nguồn thu được cho rằng để tăng quy mô ở chính quyền địa phương thì giảm ở chính quyền trung
ương ít hơn, dẫn đến làm quy mô ở toàn quốc gia nhỏ hơn. Ebel và Yilmaz (2002) và Fiva (2006) sử
dụng chỉ số mới của phân cấp tài khóa dựa trên phân loại các nước OECD (1999), nó cung cấp t hêm
thông tin về nguồn t hu thuế và về chia sẻ quyền lực, qua đó chính quyền địa phương có quyền kiểm
soát đáng kể. Ebel và Yilmaz (2002) thấy rằng quyền t ự chủ thuế địa phương có t ác động t iêu cực
đáng kể đến quy mô của khu vực công trong 10 quốc gia chuyển tiếp cho giai đoạn 1997-1999, t rong
khi sử dụng dữ liệu trên 18 quốc gia OECD, Fiva (2006) cho thấy rằng quyền tự chủ thuế địa phương
là vấn đề cho cả quy mô tổng thể và thành phần của chi tiêu chính phủ. Một mô hình ước tí nh sai số
ECM cho một dữ liệu bảng, được th iết lập từ 59 quốc gia từ năm 1978 và n ăm 1997, Rodden (
2003 ) thấy rằng phân cấp được đo lường bằng nguồn thu của địa phương, có tác động tiê u cực
đế n phát tri ển của chính phủ, trong khi phân cấp tài khóa được đo bằng chuyển giao liên Chính
phủ, thì có tương quan tí ch cực với sự tăng trưởng của khu vực công. Cuối cùng, Ashwort h et al.
(2008) sử dụng dữ liệu bảng để phân biệt những ảnh hưởng dài hạn và ngắn hạn của việc phân cấp.
Kết quả cho thấy sự gia t ăng số lượng nguồn t hu do chính phủ địa phương dẫn đến một sự sụp đổ dài
hạn trong quy mô của Chính phủ (ví dụ , t ổng chi tiêu công), trong khi các khoản t rợ cấp có t ác dụng
ngược lại .
3. PHƯƠ NG PHÁP NGHIÊN C ỨU
T rong bài báo này, tác giả kiểm tra xem phân cấp t ài khóa có ảnh hưởng đến quy mô của chính
phủ ở Các nước châu Âu. Các đặc điểm chung của mô hình t hực nghiệm là:
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang5
Với i ∈ [1, 15] (nghiên cứu 15 nước) và t ∈ [1, 33] (t rong 33 năm), và GOVSIZE là biến phụ
thuộc, quy mô chính phủ, DEC là những chỉ số phân cấp, X là một vector của các biến kiểm soát, ηi là
một nước ảnh hưởng ổn định, ηt là một hiệu ứng cố định t rong t hời gian t rước đó và ε là sai số.
3.1 Q uy trì nh k inh tế lượng
T ừ khi tác giả muốn kiểm tra sự tồn tại của những tương t ác chi t iêu giữa các quốc gia châu Âu ở
cấp độ bang và liên bang, chúng t a cần phải xem xét sự phụ thuộc không gian trong một dữ liệu bảng.
T ác giả chọn hai hệ thống tỷ trọng: một hệ thống tỷ trọng phân chia dựa trên khoảng cách địa lý 3 W Dist
và một hệ thống cung cấp tỷ trọng tương tự đến tất cả các nước (W NW ). Tất cả các yếu tố trong ma t rận
được chuẩn hóa để tổng các yếu tố trong mỗi hàng có tổng = 1. Nếu mỗi quốc gia phản ứng với sự lựa
chọn chi tiêu của quốc gia khác, thì sau đó quyết định chi tiêu của nước láng giềng là nội sinh và
tương quan với sai số ( ε )(->>tức là quyết định chi t iêu của nước láng giềng là biến nội sinh phụ thuộc
vào quyết định chi tiêu của QG khác). T ác giả chọn sử dụng phương pháp tiếp cận các biến công cụ (
IV ) 4 , đó là việc sử dụng trung bình có trọng số biến ngoại sinh của các nước láng giềng hoặc các biến
kiểm soát,( WX ), như là những công cụ ( Kelejian và Robinson năm 1993; Kelejian và Prucha 1998).
Hơn nữa, vì có sự tồn tại của những khoản chi tiêu, nó có thể thích hợp để ước t ính hệ thống GMM (
Veiga và Veiga 2007). (Biến nội sinh là biến phụ thuộc, biến ngoại sinh là biến độc lập)
Có hoặc không có sự phụ thuộc không gian, tác giả sử dụng các ước lượng hệ thống GMM được
phát triển bởi Blundell và Bond ( 1998) 5 . T ính hợp lý của các công cụ được sử dụng t rong các ước
lượng hồi quy là sử dụng hai số liệu t hống kê khác nhau. T hử nghiệm Sargan ( hoặc t hử nghiệm hạn
chế overident ifying) xem xét giả thuyết cho rằng các biến công cụ không liên quan đến một số thiết
lập của phần dư. Thứ hai, thử nghiệm được đề xuất bởi Arellano và Bond ( 1991). T hử nghiệm này
xem xét các giả thuyết rằng các số dư t ừ phương t rình ước lượng sai phân đầu t iên không chịu tương
quan bậc hai (second-oder correlated). Một N nhỏ ( như t rong t rường hợp của tác giả ) giới hạn số
lượng các biến công cụ có thể được sử dụng cho các ước t ính, mà cũng có t hể có hậu quả cho các
thuộc tính của các ước lượng. T uy nhiên, Sot o (2007), phân tích hiệu suất của hệ thống GMM, khi số
3
Chương trìn h này áp đặt một sâu khoảng cách trơn tru, với trọng lượng Wij do 1/dij nơi dij là kh oảng cách Euclide giữa các
nước i và j cho j = i.
4
Ng hi ên cứu thực nghiệm sử dụng phương pháp tiếp cận IV để ước tính hệ số kh ông gian bao gồm Ladd (1992), Kel ejian và
Rob in so n (1993), Ngân hàng Thế gi ới (2000), Heyndels và Vuchelen (1998), Figlio et al. (19 99), Buettner (2001), và Revel li
(20 01 ).
5
Blu nd ell và trái phiếu (1998) cho thấy ước lượng GMM mở rộng của họ được ưa chuộng của Arellano và trái phiếu (1991)
nếu biến phụ th uộc và / hoặc các bi ến độc lập được liên tục.
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang6
lượng các đơn vị của bảng dữ liệu tiêu biểu là nhỏ, t hì sử dụng giả định Monte Carlo. Ông t a chỉ ra
rằng số lượng các đơn vị liên quan là nhỏ thì ảnh hưởng không quan t rọng đến đặc t ính phác t hảo
trước đó trong hệ thống ước lượng GMM.
Cuối cùng, cho bộ dữ liệu với một số lượng nhỏ các quan sát t rong bảng dữ liệu t iêu biểu không
phụ thuộc vào vị trí địa lý, ước lượng Least square dummy variable correct ed (LSDVC) được phát
triển bởi Kiviet (1995), có thể được sử dụng kể từ khi nó sửa chữa cho vài khuynh hướng và tương đối
hiệu quả.
Bước thứ 2, nếu như chuỗi thời gian chi phối bảng dữ liệu t iêu biểu, tác giả cần t hực hiện t rên
chuỗi dữ liệu gốc, kiểm tra phần nhập dữ liệu và ước lượng mô hình hiệu chình sai số (see Sect 15)
3.2 Dữ liệ u
T ác giả ước lượng mô hình (1) bằng cách sử dụng dữ liệu hàng năm của các nước t hành viên của
liên minh Châu Âu, tác giả có bảng dữ liệu tiêu biểu của 15 nước thành viên t rong vòng 33 năm
(1972-2004). Bảng 1 t óm tắt báo cáo t hống kê và nguồn dữ liệu trong bài nghiên cứu này
3.2.1 Q uy mô chính phủ
T ác giả phân tích 3 biến phụ thuộc khác nhau. T rong khi, Fiva (2006) nghiên cứu về quy mô và
thành phần của tổng chi tiêu chính phủ (khoản chi an sinh xã hội và t iêu dùng của chính phủ), tác giả
điều tra nghiên cứu quy mô các khu vực công khác nhau của chính phủ. Biến phụ thuộc đầu t iên là
quy mô chi tiêu của chính phủ, là t ổng chi t iêu khu vực công( tính bằng % t rên GDP). Bởi vì tác giả
muốn nghiên cứu sự phân cấp ảnh hưởng đến quy mô chính quyền địa phương và chính phủ trung
ương như thế nào. T ác giả sử dụng tổng chi tiêu công của chính quyền địa phương ( t ính bằng % trên
GDP) và t ổng chi t iêu của chính phủ quốc gia ( tính bằng % t rên GDP)
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang7
Tất cả các bi ến đều tính % trên GDP ngoại trừ GDP bình qu ân đầu người và mật độ dân số . Tổng các bi ến quan sát là
49 5 biến . TDE C là thuế tự thu của chính qu yền địa phương trên tổng nguồn thu của chính phủ. VI các kh oản chuy ển giao
của li ên chí nh phủ cho chí nh quyền địa phương, AME CO cơ sở dữ li ệu kin h tế vĩ mô hàng năm của Ủy ban châu Âu,
3.2.2 Ph ân cấp tài k hóa
Rất khó để xác định và đo lường mức độ phân cấp vì bản thân khái niệm của nó rất rộng, và cũng
phức tạp về các chỉ số định lượng và định tính (Ngân hàng T hế giới 2004). T hật vậy, phân cấp bao
gồm các lĩnh vực như chính trị, hành chính và ngân sách. T uy nhiên, các biện pháp thông t hường về
mức độ phân cấp tài khóa được sử dụng t rong các tài liệu liên quan đến nguồn thu chính quyền địa
phương (hoặc chi tiêu) để hợp nhất nguồn thu chung của Chính phủ (chi t iêu), như bắt nguồn từ IMF
GFS. T uy nhiên, các chỉ số tài khóa chung có xu hướng đánh giá quá cao mức độ phân cấp tài khóa,
đặc biệt là ở các quốc gia liên bang so với các nước đơn nhất, vì họ không cung cấp bất kỳ thông tin về
tỷ lệ mà chính quyền địa phương có quyền kiểm soát đáng kể. Do đó, họ xuyên tạc mức độ thực t ế của
phân cấp tài khóa ở một số nước (như Áo và Đức) và ra sai lệch trong kết quả nghiên cứu thực nghiệm
(Stegarescu 2004). T heo nghiên cứu gần đây về chủ đề này, tác giả sử dụng hai chỉ số đại diện cho các
khía cạnh khác nhau của phân cấp. Để kiểm tra giả thuyết cho rằng quyền tự chủ tài khóa dẫn đến một
quy mô nhà nước nhỏ hơn, đầu tiên tác giả sử dụng đo lường phân cấp nguồn thu dựa t rên một khung
phân tích được cung cấp bởi các nước OECD (1999), trong đó phân loại thuế theo mức độ quyết định
của địa phương. T ác giả cũng bao gồm đo lường sự mất cân bằng theo chiều dọc, có nghĩa là, mức độ
mà chính quyền địa phương dựa vào thu ngân sách trung ương để hỗ trợ cho chi tiêu của họ. Sự mất
cân bằng theo chiều dọc (sự giảm chi t iêu ở cấp trung ương và tăng chi t iêu ở cấp địa phương) có khả
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang8
năng làm tăng kích thước của khu vực công khi trách nhiệm chi t iêu của chính quyền địa phương
không phù hợp với sức mạnh tăng nguồn thu của họ.
T ác giả sử dụng hai đo lường sau đây:
1. Một th ước đo về phân cấp ngu ồn th u (TDe c) giải t hích sự chủ động về thuế của chính
quyền địa phương trong trường hợp chính quyền địa phương có quyền kiểm soát thuế trên tổng số
hoặc một phần đáng kể. Sau khi phân loại trong OECD (1999), đây là trường hợp nếu chính quyền địa
phương xác định thuế suất và căn cứ tính t huế hoặc nếu chính quyền địa phương chỉ quyết định mức
thuế suất hoặc nếu chính quyền địa phương chỉ xác định cơ sở thuế (xem ví dụ, Ebel và Yilmaz 2002;
Stegarescu 2004). Lưu ý rằng chỉ số này không mở rộng phân tích cho tất cả các nguồn thu công nào,
bỏ qua, ví dụ như, nguồn thu không phải thuế, như phí sử dụng hoặc thặng dư hoạt động của các
doanh nghiệp, và nguồn thu vốn mà cũng có t hể được phân loại như nguồn thu riêng.
2. Mất cân bằng th eo chiều dọc (VI) được đo bằng chuyển giao liên chính phủ như một phần
của chi tiêu địa phương.6
Cũng lưu ý rằng hệ số tương quan đơn giản của hai chỉ số phân cấp là không đáng kể vì vậy chúng
ta có thể bao gồm chúng lại với nhau trong phương trình tính toán. Phù hợp với Jin và Zou (2002), tác
giả chọn không đưa các chỉ số phân cấp thuế và phân cấp chi tiêu cùng một lúc, bởi vì các chỉ số phân
cấp chi tiêu chuẩn (tỷ lệ chi tiêu công địa phương trong tổng chi tiêu công) có liên quan với các chỉ số
phân cấp khác.
3.2.3 Biế n k iể m soát
T ác giả bao gồm trong mô hình một số biến kiểm soát, phản ánh tác động của sự khác biệt về các
yếu t ố kinh tế và nhân khẩu học được nhóm trong vector X trong (1). Sau khi nghiên cứu t hực nghiệm,
tác giả nhận thấy một số biến giải thích có thể ảnh hưởng đến nhu cầu chi t iêu công. Đầu t iên là GDP
bình quân đầu người (GDPCAP). Biến nguồn lực kinh tế này có t hể được sử dụng như thước đo của
thu nhập quốc gia. T ập dữ liệu thứ hai bao gồm các biến nhân khẩu-xã hội, chẳng hạn như tỷ lệ thất
6
Tuy nhiên , bi ện pháp này không phân bi ệt giữa đi ều kiện & mục đích chu yển giao chung . Tài trợ mục đích chun g có thể
được sử dụng như là nguồn thu riên g, nh ưng có thể được phân bổ dựa trên các tiêu chí khách quan ho ặc theo quyết định của
chí nh quyền trung ương. Các khoản tài trợ cụ thể, mặt khác, được sử dụng cho các mục đích chi tiêu nh ất định và có thể có
đi ều kiện qu a chí nh quyền địa phương.
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang9
nghiệp (UNEMP), mật độ dân số (DENS), và tỷ lệ dân số ngoài 65 tuổi trong dân số (P P65). Các biến
này có thể được coi là chỉ số về nhu cầu chi tiêu và có t hể biểu hiện một dấu hiệu t ích cực. Các biến
PP65 được thiết kế để nắm bắt được nhu cầu chính t rị cho các dịch vụ xã hội của các t hành viên lớn
tuổi của công chúng. Phân khúc này của dân số tạo t hành một nhóm lợi ích với quyền lực chính t rị
ngày càng tăng, và PP65 là dự kiến sẽ tác động tích cực đến qui mô thực chính phủ.
Sau Persson et al. (2005), tác giả đã cố gắng bao gồm một số biến chính trị như sự kiểm soát (định
hướng chính trị, hệ thống đa nguyên, phân mảnh bên). Không có biến chính trị nào là quan t rọng. T ác
giả quyết định không bao gồm chúng trong các hồi quy cơ sở để hạn chế số lượng biến dụng cụ.
Mức độ mà một nền kinh tế mở cửa cho thương mại nước ngoài (OPEN) có t hể sẽ có ảnh hưởng
đến quy mô của chính phủ. T ỷ lệ phần trăm của GDP trong thương mại nước ngoài càng lớn, thu nhập
trong nước càng không ổn định và không chắc chắn, và nhận thức về điều đó sự bất an lớn hơn dẫn
đến sự phụ thuộc lớn của cộng đồng vào chính phủ, làm t ăng quy mô của chính phủ (Rodrik, 1998).
T ừ một quan điểm lựa chọn công truyền t hống, mở cửa gây nên cạnh t ranh nước ngoài và làm t ăng
khó khăn về khả năng của chính phủ đến thuế liên quan đến các nước láng giềng (Ferris và West
1996). Điều này sau đó làm giảm đi chứ không phải là làm t ăng tỷ lệ mà chính phủ có t hể mở rộng.
T ác giả bao gồm một biến cho phần lực lượng lao động được tự làm việc (SELF). Vì nó có t hể dễ
dàng hơn cho lực lượng lao động tự làm việc che giấu thu nhập (Kau và Rubin 1981), một phần lớn
hơn của người lao động t ự do dự kiến sẽ tăng tương đối việc trốn thuế và có tác động tiêu cực đến quy
mô chính phủ (Backhaus& Wagner 2004).
Cuối cùng, để giải t hích các yếu tố được phổ biến đến tất cả các nước, chúng t a cần phải bao gồm
thời gian danh nghĩa. T uy nhiên, thời gian danh nghĩa không thể được bao gồm trong các hồi quy năng
động cùng với chi t iêu công trung bình không tỷ trọng của các quốc gia cạnh t ranh (xem, ví dụ, các
cuộc biểu tình của Devereux et al. (2008, p. 1224). Do đó tác giả sử dụng một xu hướng thời gian bậc
hai. Hệ số trên biến này cho t hấy một xu hướng phi tuyến tính trong các dữ liệu theo t hời gian.
4. NỘ I DUNG VÀ CÁC KẾT Q UẢ NGHIÊN C ỨU
4.1 Ảnh hưởng của phân cấp tài khóa lên chi ti êu công
T ác giả điều tra mối liên hệ giữa phân cấp t ài khóa và ba loại quy mô chính phủ - toàn quốc gia,
trung ương và địa phương. T ác giả ước tính (1) có tính đến các giá trị trễ của biến phụ thuộc (β ≠0) và
biến phụ thuộc trễ về không gian trong dự toán chi t iêu công hợp nhất và quốc gia (α ≠ 0). Cột 1-6
trong Bảng 2 báo cáo kết quả ước lượng của mô hình năng động này cho mỗi cấp độ của chi tiêu chính
phủ (toàn quốc gia, trung ương và địa phương). T ác giả ước t ính ước lượng mở rộng GMM theo đề
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang10
nghị của Blundell và Bond (1998). Giá trị xác suất cao tương ứng cho kiểm định của Sargan và
Arellano-Bond không tạo ra câu hỏi về tính hợp lệ cho các kết quả của bất kỳ hàm hồi quy. Với Chi
tiêu chính quyền địa phương (không có các biến phụ thuộc không gian), chúng ta có một mẫu nhỏ, nên
Kiviet đề nghị dùng phương pháp LSDVC.
Đầu tiên, như Bảng 2 cho thấy, biến nội sinh trễ (GOVSIZEit -1) luôn luôn là quan t rọng và có dấu
hiệu t ích cực trong tất cả các thông số kỹ thuật. Kết quả này khẳng định cả hai đều thống nhất các đặc
điểm kỹ thuật tự hồi quy trong công thức (1) và giả thuyết cho rằng chi tiêu chính phủ có t hể thay đổi
một cách chậm chạp theo thời gian. T ác giả cũng tìm thấy một hệ số tích cực và có ý nghĩa đáng kể
gắn liền với bình quân gia quyền chi tiêu công của các quốc gia cạnh t ranh, sử dụng 2 hệ thống t ỷ
trọng của tác giả. Sự tồn t ại của chi t iêu phụ thuộc lẫn nhau là phù hợp với các kết quả trên chi t iêu
công tổng hợp thu được bởi Redoano (2007) dựa trên một bộ dữ liệu của 15 nước EU (cộng với T hụy
Sĩ và Na Uy) cho giai đoạn 1970-1999. Một lời giải thích cho chi tiêu phụ thuộc lẫn nhau này có thể là
sự tồn tại của một xu hướng trí tuệ chung mà đưa đến chi t iêu công theo cùng một hướng. Một sự giải
thích khác có thể dựa trên tiêu chuẩn đánh giá sự cạnh t ranh giữa các chính phủ. Chính phủ tính đến
những sự lựa chọn chi t iêu của các nước láng giềng, được các cử tri biết đến nhiều nhất, và dễ dàng
hơn so với các lựa chọn chi tiêu của mình. Một lời giải thích thứ ba được đề xuất bởi Feld et al.
(2003): các nước không cạnh tranh t rực t iếp về chi t iêu công, nhưng sự cạnh t ranh thuế suất có t ác
động đến nguồn thu t huế và trong chi t iêu công.
Kết quả quan t rọng nhất trong bảng 2 là các ước lượng t ham số cho hai chỉ số phân cấp của tác
giả. T heo dự kiến, phân cấp nguồn thu có thể tăng qui mô của chính quyền địa phương và giảm qui mô
của chính phủ trung ương. T uy nhiên, qui mô của các chính phủ hợp nhất không t hu nhỏ: kết quả này
cho thấy rằng phân cấp nguồn thu tăng kích t hước của chính quyền địa phương đến một mức độ lớn
hơn là nó làm giảm qui mô của chính phủ trung ương.
BẢNG 2
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang11
->>(t thống kê trong dấu ngoặc đơn. * Ý ng hĩa ở mức 10%, ** ý ng hĩa ở mức 5%; ** * có ý nghĩa ở mức 1%. Mỗi biến
nội sin h (GOVSIZE i; t -1; WGOVSIZEi ; t; UNEMPi; t; GDPCAPi; t) được hình thành bởi các gi á trị có 2 độ trễ của chúng ,
các biến ngo ại sin h, WP P 65 và WG DP CAP )
T ác giả tìm thấy những dấu hiệu t ích cực và quan t rọng dự kiến sẽ cho chỉ số phân cấp dựa trên
ngân sách Chính phủ (VI), trong các hồi quy mô chính quyền địa phương và trung ương. Điều này có
lẽ có thể được giải t hích bởi sự tồn tại của hiệu ứng giấy bẫy ruồi (Hiệu ứng giấy bẫy ruồi chỉ hiện
tượng các khoản hỗ trợ tài chính của chính quyền trung ương cho chính quyền địa phương nhằm m ục
đích bình đẳng hóa bị biến thành các khoản tài trợ thâm hụt ngân sách địa phương. Vì nhiều nguyên
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang12
nhân, một chính quyền địa phương có thể không đủ thu ngân sách để cung cấp hàng hóa công cộng
địa phương cho người dân trên địa bàn của m ình ở mức tối thiểu quốc gia, trừ phi họ phải khiến
người dân nộp thuế nhiều hơn. Khi ấy, chính quyền trung ương với mục tiêu bình đẳng hóa lợi ích tài
chính cho người dân giữa các địa phương và bảo đảm chuẩn tối thiểu quốc gia về lợi ích thụ hưởng
hàng hóa công cộng phải cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính cho chính quyền địa phương đó. Tuy
nhiên, điều này lại có thể dẫn tới chính quyền địa phương mất đi những nỗ lực quản lý ngân sách hiệu
quả và nâng cao trách nhiệm tài chính (thu đủ và tiết kiệm chi) ở cấp chính quyền địa phương). Chính
quyền địa phương sẽ chi tiêu bất kỳ khoản trợ cấp được nhận dễ dàng hơn họ sẽ chi tiêu từ thu thuế địa
phương T heo đề nghị của Jin và Zou (2002) và Stein (1999), phân cấp tài t rợ từ các nguồn phổ biến,
chẳng hạn như tài trợ hoặc chia sẻ nguồn thu mà được kiểm soát bởi trung ương, có thể làm trầm trọng
thêm vấn đề hàng hóa t iêu dùng chung. Sự thiếu kết nối giữa những người hưởng lợi từ các dịch vụ
công và những người trả tiền cho các dịch vụ này sẽ làm tăng qui mô của chính quyền địa phương. Kết
quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả trong Oat es (1985), Grossman (1989), Edhaie (1994), Stein
(1999) và Jin và Zou (2002). Mở rộng khu vực công ở cấp địa phương do sự chuyển giao trợ cấp từ
trung ương này sẽ buộc chính phủ trung ương phát t riển tương ứng (Jin và Zou 2002). Do đó, phần
ngân sách Chính phủ địa phương chi tiêu công càng lớn, quy mô của chính phủ quốc gia càng mở
rộng: sự mất cân bằng theo chiều dọc là t ích cực liên quan đến qui mô của chính phủ quốc gia.
Về các biến kiểm soát , ngoại trừ hệ số hồi quy địa phương có dấu hiệu t ích cực dự kiến , GDP
bình quân đầu người là không bao giờ có ý nghĩa . Theo dự kiến, một phần lớn của dân số độ tuổi t rên
65 có mức chi tiêu công cao hơn cho thấy tầng lớp này của dân số có quyền lực chính t rị yêu cầu một
số phân bổ chi tiêu cụ thể. T ỷ lệ thất nghiệp cao cũng dẫn đến một quy mô chính phủ lớn hơn. Khi các
thông số liên quan đến mật độ dân số là đáng kể và t iêu cực này có ý nghĩa cho sự tồn tại của nền kinh
tế quy mô trong việc cung cấp hàng hóa công. Hơn nữa, tác giả nhận thấy rằng, khi hệ số của SELF rất
có ý nghĩa , nó có tác động t iêu cực đến quy mô của chính phủ. Các quốc gia có t ỷ lệ những cá nhân
làm việc theo hợp đồng độc lập (self employed) cao hơn t rong lực lượng lao động có khả năng t rốn
thuế và do đó có mức độ chi t iêu công thấp hơn. T ác giả cũng nhận t hấy một dấu hiệu t iêu cực với
OPEN khi mà sự mở cửa gây nên cạnh tranh nước ngoài và gia tăng hạn chế về khả năng chính phủ có
thể áp đặt t huế, so với các nước láng giềng của họ ( Ferris andWest 1996). Cuối cùng, chỉ trong các
chỉ số hồi quy quốc gia đã phát hiện được một xu hướng quan trọng bậc hai, chỉ ra rằng những chi t iêu
công quốc gia giảm trong t hời gian tác giả nghiên cứu nhưng sau đó chững lại .
T heo lời khuyên của người thứ ba, tác giả sử dụng phương pháp “ Broad government”, ví dụ, chỉ
số tự do kinh tế Viện Fraser. Quy mô chính phủ theo nghĩa rộng bao gồm thuế / chi t iêu cũng như
những quy định, chính sách thương mại và tiền tệ bóp méo, hầu hết chúng không được phản ánh trong
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang13
ngân sách tài chính cho bất kỳ mức độ lớn. Chỉ số tự do kinh t ế T hế giới đo lường mức độ mà các
chính sách và tổ chức của các nước ủng hộ tự do kinh tế . Nền tảng của tự do kinh tế là sự lựa chọn cá
nhân, tự nguyện trao đổi, tự do cạnh tranh, và an ninh của tài sản t huộc sở hữu t ư nhân. 42 biến được
sử dụng để xây dựng một chỉ số tóm tắt và để đo lường mức độ tự do kinh tế trong 5 nhân t ố chính: (
1) kích thước của chính phủ7 , (2) cơ cấu pháp lý và an ninh của quyền sở hữu, (3 ) tiếp cận với sou nd
mon e y (m ột đồng tiền được hỗ trợ bởi một hàng hóa hữu hình như vàng, bạc hoặc bạch kim, có giá trị
nội tại nhưng nhạy cảm với giảm phát hơn tín tệ), (4) tự do t hương mại quốc t ế , và (5 ) quy định t ín
dụng , lao động và kinh doanh ( Gwart ney và Lawson 2008). Chính xác hơn, các quốc gia với phần chi
tiêu chính phủ thấp hơn tổng số chi tiêu chính phủ, khu vực doanh nghiệp nhà nước nhỏ hơn, và mức
thuế suất cận biên t hấp hơn thì xếp hạng cao nhất t rong khu vực này. chỉ số này có sẵn cho các năm
1970, 1975, 1980, 1985, 1990, 1995, và 2000-2006 8 . Tác giả trình bày các kết quả ước lượng trong cột
7 và 8.
Như trong các dự đoán trước đây, chúng ta có thể thấy rằng chỉ số tự do kinh tế chỉ thay đổi chậm
theo thời gian. T ác giả tìm thấy một hệ số tích cực nhưng không quan trọng đáng kể liên quan đến việc
trọng chỉ số tự do kinh tế trung bình của các nước láng giềng (sử dụng cả hai phương án). Nó có t hể là
khó khăn cho chính phủ trong việc bắt chước nhau sử dụng chỉ số tổng hợp này dựa trên 42 biến. Biện
pháp “ Broad government ”này mang lại kết quả tương t ự đối với các tác động của phân cấp quản lý
thuế. T ác giả thấy rằng phân cấp quản lý thuế có tác động tích cực và có ý nghĩa về tự do kinh t ế. T uy
nhiên, sự mất cân bằng theo chiều dọc không có tác động đáng kể vào chỉ số. Cuối cùng, các biến
kiểm soát là không bao giờ có ý nghĩa.
4.2 Động lực n gắn h ạn và dài h ạn
T ác giả kiểm tra động lực ngắn hạn và dài hạn của mối quan hệ giữa phân cấp và quy mô của khu
vực công sử dụng một bước ECM tổng quát 9 ước lượng sử dụng ước lượng LSDVC. Đầu t iên, tác giả
7
Bốn thành phần trong mô của chính phủ cho thấy mức độ mà các nước dựa vào chính trị xử lý phân bổ nguồn
lực, hàng hóa và dịch vụ. Tiêu dùng của chính phủ như một phần của tổng tiêu thụ, chuyển tiền và các khoản trợ
cấp như một phần của GDP, là những chỉ số quy mô của chính phủ. Thành phần thứ ba đo lường mức độ mà các
nước sử dụng DN tư nhân hơn là các doanh nghiệp nhà nước để sản xuất hàng hóa và dịch vụ . Thành phần thứ
tư được dựa trên mức thuế suất thuế thu nhập cận biên cao nhất hay thu nhập cận biên cao nhất, mức thuế suất
thuế biên chế và ngưỡng thu nhập hơn là tỷ lệ này áp dụng ( Gwartney và Lawson 2008).
8
Các quan sát bỏ qua chịu bị biến đổi spline (Trong toán học, một spline là một hàm đa thức đầy đủ được định
nghĩa theo từng phần, và có trình độ cao ở những nơi mà các mảnh đa thức kết nối.)
9
P hương pháp này dùng để phân tí ch động lực ngắn hạn và dài hạn sử dụng dử liệu bảng phù hợp với Bond và các cộng sự
(199 7, 199 9), Mairesse et al. (1999), Yasar et al. (2006).
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang14
cần kiểm tra tính dừng của biến. Sau đó nếu biến được lấy tích phân trên thứ tự của I(1), tác giả kiểm
tra đồng liên kết bảng dử liệu Pedroni để kiểm tra trạng t hái cân bằng dài hạn của các biến.
4.2.1 Kế t quả sơ bộ: nghiệ m đơn vị và đồng l iê n k ế t.
Đầu tiên tác giả tiến hành kiểm tra nghiệm đơn vị dữ liệu của Im-Shin-Pesaran cho mỗi biến để
kiểm tra tính dừng. Nếu biến được lấy tích phân theo I(1), tác giả có t hể kiểm tra đồng liên kết bảng
dữ liệu P edroni để nhìn thấy có hay không cân bằng dài hạn giữa các biến của chúng ta (xem Pedroni
1996,1999, 2000, 2004). T ừ kiểm tra tính dừng, t ất cả các biến dừng khác nhau vì giả thuyết nghiệm
đơn vị được bác bỏ cho tất cả các biến khác. T rong khi đó các biến chi t iêu công và phân cấp không
dừng, các biến kiểm soát và chỉ số Fraser dừng bậc khác nhau. T hông thường, sự phân cấp và biến chi
tiêu được lấy tích phân trên i(1) trong khi đó các biến kiểm soát và chỉ số Fraser được lất t ích phân
trên i(0).
T ác giả tiến hành kiểm tra đồng liên kết cho mỗi cấp biến của biến i(1). Sau khi áp dụng kiểm tra
đồng liên kết, tác giả không t hể chấp nhận giả thuyết không có giá trị của không đồng liên kết giữa
phân cấp và chi tiêu công. Bước tiếp theo là ước lượng quan hệ dài hạn với FMOLS. Bảng 3 t rình bày
được t hay đổi hoàn toàn nhóm bảng của mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa phân cấp và quy mô khu
vực công trong giai đoạn 1972 -2004. Ước lượng mức ý nghĩa được điều chỉnh hoàn t oàn của bảng có
và không thời gian danh nghĩa. Thời gian danh nghĩa này được đưa vào trong hồi quy để nhận bất kỳ
sự nhiễu thường thấy nào ảnh hưởng tới các thành viên t rong bảng. T ác giả chỉ thảo luận những kết
quả này với thời gian danh nghĩa, điều này có nghĩa rằng những cú sốc cơ bản gặp bởi các quốc gia
đều được đưa vào t ính t oán.
Sự co giãn của chi tiêu công địa phương liên quan t ới sự tự chủ về thuế (T DEC) cho t hất dấu hiệu
kỳ vọng t ích cực và là đáng chú ý. Hơn t hế nữa, những kết quả này là rõ ràng với chi t iêu công của
trung ương và quốc gia. T rong dài hạn, tự chủ về thuế giảm chi tiêu của t rung ương và nó tăng chi tiêu
công địa phương và sự mở rộng lớn hơn. Như hệ quả, t rong t rường hợp này là sự tăng lên t rong chi
tiêu công chung.
Khi xem xét đo lường mức ý nghĩa của nhóm, độ co giãn chi t iêu của địa phương, trung ương và
quốc gia liên quan t ới cân bằng t heo chiều dọc (VI) là đáng chú ý và t ích cực. T uy nhiên, ở đây có sự
khác biệt lớn của mỗi quốc gia ở mọi cấp độ.
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang15
4.2.2 Ảnh h ưởng của sự phân cấp tron g ngắn h ạn và dài h ạn
ECM được dựa trên giả thuyết rằng những nền kinh tế này có t hể tự điều chỉnh đối với sự nhiễu
qua thời gian. T ác giả bắt đầu với Mô hình phân bố trễ tự hồi quy (autoregressive-distributed lag
model) sau:
T rong đó I là những đơn vị cắt ngang, t là khoảng t hời gian, GOVSIZE, là đo lường của quy mô
khu vực công của chúng t a (như chi tiêu công hợp nhất, chi tiêu trung ương hay chi địa phương), DEC
là biến phân cấp ( T DEC hoặc VI),10 X là vect or của biến kiểm soát. Ảnh hưởng cụ thể thời gian này,
, được đưa vào để nắm bắt những cú sốc tổng hợp, có thể suất hiện trong bất kỳ năm nào. Giả sử
hiệu ứng cố định, chỉ tiêu số cắt ngang,
quan sát được, hiệu ứng quốc gia,
, chứa hai t ác động sau: biến đổi t heo thời gian không
và sai sốc ngẫu nhiên,
, nó thay đổi theo thời gian và mặt cắt
ngang.
Đặc điểm của Mô hình phân bố trễ tự hồi quy là thích hợp nếu quan hệ ngắn hạn giữa phân cấp và
quy mô chính phủ là mối quan t âm duy nhất. T uy nhiên, nó không cho phép một sự phân biệt giữa các
hiệu ứng lâu dài và ngắn. T ác giả kết hợp sự khác biệt này t rong mô hình của tác giả bằng việc sử
dụng kỹ thuật hiệu chỉnh sai số của mô hình bảng năng động. Kỹ thuật hiệu chỉnh sai số này là ánh xạ
10
Gi ải quy ết đồng liên kết của hai biến này, họ không giới thiệu trong ph ương tri nhg giống nau
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang16
tuyến tính của biến trong (2), nó cung cấp một liên kết t ường minh giữa hiệu ứng ngắn và dài hạn
(Banerjee et al.1993,1998):
T ổng của mức động phân cấp hiện tại và có độ trễ nắm bắt được động lực ngắn hạn trong khi khoản
hiệu chỉnh sai số này (GOVSIZEi;t−2−DECi;t−2) và độ trễ của biến phân cấp cung cấp nền tảng để
kiểm tra mối quan hệ dài hạn. T ác giả bao gồm cả sự thay đổi và độ trễ của biến độc lập X. Biến trễ
thể hiện lại trong hiệu ứng dài hạn tại đó sự thay đổi t rong biến này giải t hích hiệu ứng ngắn hạn của
các biến đó trong chi tiêu công. Hệ số trong phần hiệu chỉnh sai số,
đó giữa sự phân cấp và quy mô khu vực công là cố định. Nếu
, cho t ỷ lệ hiệu chỉnh t ại độ trễ
âm và có ý nghĩa, mô hình này là
một ECM và mối quan hệ giữa phân cấp và quy mô của khu vực công t ồn tại t rong dài hạn. kỹ thuật
hiệu chỉnh lỗi này cho phép tính toán trực tiếp mối qua hệ dài hạn giữa phân cấp và quy mô khu vực
công, 1−( / ) : độ co giãn trong dài hạn này được tính t oán bằng cách trừ đi hệ số của hiệu ứng quy
mô ( giá t rị trễ của biến phân cấp) cho hệ số của phần điều chính sai số, tư 1. Việc ước lượng được t iến
hành với LSDVC được sửa 11 (Kiviet1995).
Bàng 4 chỉ ra rằng hệ số sửa lỗi có ý nghĩa thống kê, và dấu âm trong tất cả hồi quy. Do đó, những
kết quả này chỉ ra rằng ở đây t hì quan hệ trong dài hạn mạnh giữa phân cấp và quy mô của khu vực
công. Hơn thế nữa, ý nghĩa thống kê của phần sửa lỗi ngụ ý rằng, nếu ở đây có sai lệch t rong cân bằng
dài hạn, điều chỉnh t rong ngắn hạn sẽ làm biến phụ thuộc t hiết lập lai cân bằng dài hạn.
T ác giả quan sát thấy rằng độ lớn của hệ số là như nhau cho từng cấp chính quyền: tốc độ điều
chỉnh từ độ lệch trong mối quan hệ lâu dài giữa quyền tự chủ thuế và chi t iêu công hợp nhất là giống
hệt nhau. Mô hình hội tụ một cách nhanh chóng để cân bằng, với một sự khác biệt của khoảng 12%
điều chỉnh trong từng thời kỳ. Tính toán hệ số dài hạn cho thấy quyền tự chủ thuế cao hơn dẫn đến sự
tăng dài hạn trong chi tiêu công địa phương. Một lần nữa, chúng t a t hấy rằng sự gia t ăng này không
hoàn toàn bù đắp bởi sự sụt giảm dài hạn trong chi t iêu quốc gia, dẫn đến tăng dài hạn trong t ổng chi
tiêu công.
11
Tác gi ả chọn Blundell and Bond’s xem xét đo lường thiết lập ban đầu các hi ệu chỉnh sai lệch.
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang17
T iếp theo, chúng ta nhìn vào các kết quả cho sự mất cân bằng t heo chiều dọc. Bảng 4 cho thấy các
hệ số sửa lỗi có ý nghĩa thống kê, dấu dương t rong tất cả các hồi quy phương t rình và t ầm quan t rọng
của các hệ số là rộng rãi giống nhau: t ừ 12% đến 14% của sự khác biệt là điều chỉnh t rong t ừng t hời
kỳ. Về lâu dài, sự mất cân bằng t heo chiều dọc có xu hướng t ăng kích t hước của các chính quyền địa
phương, trung ương và quốc gia trong khi không có t ác động t rong ngắn hạn.
Đối với các biến kiểm soát , kết quả đều giống nhau. Sự tăng GDP bình quân đầu người không có
ảnh hưởng đáng kể đến quy mô của khu vực công. Kết quả cho t hấy hệ số tích cực và quan t rọng của
sự thay đổi trong tỷ lệ thất nghiệp hợp nhất và chi tiêu công trung ương. Nhưng hệ số của sự thay đổi
trong tỷ lệ thất nghiệp không ảnh hưởng đến chi t iêu công địa phương. Cuối cùng, một t ỷ lệ cao hơn
người cao tuổi trong dân số dẫn đến sự gia t ăng nhẹ đáng kể trong mỗi hạng mục chi t iêu công, trong
khi mật độ dân số không có t ác động đáng kể vào mức độ chi t iêu chính phủ.
5. KẾT LUẬN
Mục đích của tác giả là đóng góp vào cuộc tranh luận về tác động của phân cấp t ài khóa t rên quy
mô chính phủ, trong bối cảnh châu Âu, trong sự hiểu biết một số các tổ chức siêu quốc gia cho rằng "
vốn " tập trung vào một số nước chẳng hạn như các trung tâm và các quốc gia Đông Âu, nên di chuyển
theo hướng phân cấp quản lý cao hơn.
T ác giả phân tích thực nghiệm liệu phân cấp tài khóa có ảnh hưởng đến mức độ chi tiêu chính phủ,
áp dụng mô hình bảng số liệu năng động không gian và tập dữ liệu từ một ECM một EU15. Trước tiên
tác giả tìm thấy việc thay đổi trong chi tiêu của chính phủ rất chậm theo thời gian, và có một số tương
tác trong chi tiêu công trong EU15. Sự mất cân bằng t heo chiều dọc có xu hướng t ăng quy mô của
chính quyền địa phương và các quốc gia. Như vậy, kết quả của tác giả phù hợp với Edhaie (1994),
Ebel và Yilmaz (2002) và Jin và Zou ( 2002). T uy nhiên, tác giả cho rằng phân cấp nguồn t hu làm
giảm quy mô của chính phủ quốc gia t rong khi nó làm t ăng quy mô chính quyền địa phương và đến
một mức độ lớn hơn, dẫn đến làm t ăng quy mô của chính phủ. Do đó, t ăng t ính t ự chủ nguồn t hu địa
phương có thể tạo ra kết quả bất ngờ của sự gia t ăng quy mô của chính phủ. T rong nghiên cứu t ương
lai, chúng ta cần phải xác định xem bản chất của các loại thuế dành cho chính quyền địa phương đóng
vai t rò như t hế nào trong quá t rình này.
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang18
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang19
Tài l iệ u tham k hảo
Arellano, M., & Bond, S. (1991). Some tests of specificat ion for panel data: Monte Carlo
evidence and an application to employment equations. Review of Econom ic Studies, 58, 277–297.
Ashworth, J., Galli, E., & Padovano, F. (2008). Decentralization as a constraint to Leviathan: a
panel coin- tegration analysis. Mimeo.
Backhaus, J. G., & Wagner, R. E. (2004). Handbook of public finance. Dordrecht: Kluwer
Academic. Banerjee, A., Dolado, J., Galbraith, J. W., & Hendry, D. (1993). Cointegration, errorcorrection, and the econometric analysis of non-stationary data. London: Oxford University Press.
Banerjee, A., Dolado, J., & Mestre, R. (1998). Error-correction mechanism tests for coint egrat ion
in a single- equation framework. Journal of Time Series Analysis, 19, 267–283.
Blundell, R. W., & Bond, S. R. (1998). Initial conditions and moment rest rict ions in dynamic
panel data models. Journal of Econometrics, 87, 115–143.
Bond, S. R., Elston, J., Mairesse, J., & Mulkay, B. (1997). Financial factors and investment in
Belgium , France, Germany and the UK: a comparison using company panel data (NBER Working
Paper). NBER, Cambridge, MA.
Bond, S. R., Harhoff, D., & Reenen, J. V. (1999). Investment, R&D, and financial constraints in
Britain and Germany. Mimeo, Institute for Fiscal Studies, London.
Brennan, G., & Buchanan, J. (1980). The power to tax: analytical foundations of a fiscal
constitution. Cam- bridge: Cambridge University Press.
Buettner, T. (2001). Local capital income taxation and competition for capital: the choice of the
tax rat e. Regional Science and Urban Economics, 31, 215–245.
Devereux, M. P., Lockwood, B., & Redoano, M. (2008). Do countries compete over corporat e
tax rat es? Journal of Public Economics, 92(5–6), 1210–1235.
Ebel, R. D., & Yilmaz, S. (2002). Concept of fiscal decentralization and worldwide overview.
World Bank
Institute.
Edhaie, J. (1994). Fiscal decentralization and the size of government, an extension with evidence
from cross- country data (P olicy Research Working paper, 1387). World Bank.
Feld, L. P., Kirchgassnner, G., & Schaltegger, C. A. (2003). Decentralized taxation and the size
Phân cấp tài khóa và quy mô Chính phủ-Nhóm 8
Trang20
- Xem thêm -