Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế xã hội ở thành phố đà nẵng t...

Tài liệu Tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế xã hội ở thành phố đà nẵng tt

.PDF
27
588
137

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN NỮ ĐOÀN VY TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số: 62 31 01 02 HÀ NỘI - 2018 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Văn Hậu 2. PGS.TS. Phạm Văn Dũng Phản biện 1: ........................................................... ........................................................... Phản biện 2: ........................................................... ........................................................... Phản biện 3: ........................................................... ........................................................... Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2018 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện tượng người dân di chuyển từ nông thôn ra thành thị là một hiện tượng kinh tế - xã hội, mang tính quy luật khách quan, gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người với những thay đổi của tự nhiên, xã hội và sự phát triển không đồng đều về kinh tế, xã hội giữa các vùng, các nước trên thế giới. Đặc biệt, ở các đô thị lớn, cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng đó là quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh, và điều này thu hút một lượng lớn lao động từ những vùng nông thôn nhập cư vào. Hiện tượng này đóng góp vào sự phát triển nơi đến nhưng đồng thời cũng gây ra không ít vấn đề kinh tế xã hội cho các đô thị. Đà Nẵng đã và đang trở thành một thành phố năng động, nhất là trong phát triển kinh tế. Hơn nữa, với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi, trong những năm gần đây, một lượng lao động rất lớn từ các tỉnh, thành đã di chuyển vào thành phố mưu sinh. Quá trình này dẫn đến những tác động sâu sắc trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng. Chính vì thế, việc nghiên cứu thực trạng tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng để đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, chỉ ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm điều tiết tác động này theo hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố trong tương lai là rất cần thiết. Do đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận án được nghiên cứu nhằm mục đích phân tích, đánh giá thực trạng những tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất những giải pháp điều tiết tác động của người nhập cư nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của thành phố theo hướng bền vững. Chủ thể chính để điều tiết tác động này là chính quyền thành phố Đà Nẵng. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, đánh giá các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về nhập cư và tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị; Thứ hai, hệ thống hóa cơ sở lý luận và nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về điều tiết tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở một số địa phương để Đà Nẵng có thể tham khảo; Thứ ba, đánh giá thực trạng tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010-2017 trên 2 mặt: tác động tích cực; tác động tiêu cực. 2 Thứ tư, dự báo xu hướng nhập cư vào thành phố Đà Nẵng đến năm 2025 và đề xuất giải pháp điều tiết tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội ở thành phố. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị trên cả 2 mặt: tác động tích cực và tác động tiêu cực. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về nội dung - Luận án chỉ nghiên cứu những người lao động ở tỉnh, thành khác nhập cư đến thành phố Đà Nẵng một cách tự phát, không theo chủ trương, kế hoạch của Nhà nước. - Luận án không nghiên cứu người nhập cư là người có quốc tịch nước ngoài. - Luận án không nghiên cứu lượng sinh viên từ các tỉnh, thành khác đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố. - Luận án không nghiên cứu bộ phận lao động sáng “vào” chiều “ra”. - Luận án không nghiên cứu những người đến thành phố để chữa bệnh, du lịch, thăm họ hàng… Phạm vi về không gian Nghiên cứu tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng. Để có nguồn số liệu sơ cấp, tác giả luận án khảo sát, điều tra thu thập dữ liệu tại 07 quận, huyện trên địa bàn thành phố, gồm: Hải Châu, Liên Chiểu, Sơn Trà, Thanh Khê, Cẩm Lệ, Ngũ Hành Sơn và huyện Hòa Vang. (Chưa có điều kiện để nghiên cứu huyện đảo Hoàng Sa). Phạm vị về thời gian - Số liệu thứ cấp và các báo cáo được thu thập trong khoảng thời gian từ 2010 - 2017. - Số liệu sơ cấp có được thông qua điều tra xã hội học. Đề tài điều tra thực tế vào cuối năm 2016 và đầu năm 2017. - Đề xuất quan điểm và giải pháp xử lý tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng được áp dụng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cơ bản của kinh tế chính trị. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp bổ sung như: phương pháp thu thập thông tin; phân tích tài liệu và bảng tổng hợp số liệu để minh hoạ. Đặc biệt, luận án còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để có nguồn dữ liệu sơ cấp. 3 + Điều tra bằng phiếu: - Đối tượng điều tra: Người nhập cư từ các tỉnh, thành khác vào thành phố Đà Nẵng; đại diện doanh nghiệp và tổ trưởng tổ dân phố. - Qui mô mẫu: Đối với người nhập cư: Áp dụng công thức tính mẫu: n= N/(1+N*e2) Trong đó n là cỡ mẫu cần xác định cho nghiên cứu, N là kích thước tổng thể, e là mức sai số chấp nhận. Căn cứ vào số liệu từ Niên giám thống kê Đà Nẵng 2017, dựa theo công thức tính mẫu ở trên, với khoảng tin cậy là 95% (mức sai số là 5%) ta có kết quả như sau: n = 197.301 /(1 + 197.301* 0,052) = 400 Tuy nhiên, dựa trên tình hình thực tế cũng như cân đối khả năng thực hiện khảo sát của NCS, NCS tiến hành điều tra khảo sát với quy mô mẫu là: 660 phiếu dành cho người nhập cư. Trong đó, có 650 phiếu đủ thông tin và được xử lý. Đối với doanh nghiệp và tổ trưởng tổ dân phố: - Đối với doanh nghiệp, NCS chọn 5% tương ứng với 20 doanh nghiệp trong số 343 doanh nghiệp hoạt động tại các KCN&CX Đà Nẵng để điều tra. - Đối với tổ trưởng tổ dân phố, NCS chọn 5% tương ứng với 140 tổ trưởng trong số 2.784 tổ trưởng tổ dân phố trên địa bàn thành phố để điều tra. + Phỏng vấn sâu: Luận án tiến hành phỏng vấn sâu một số người lao động nhập cư đang làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức: xe ôm; đánh giày và bán hàng rong, một số công nhân làm việ trong các doanh nghiệp tại các KCN…; cán bộ của địa phương. - Phương pháp phân tích tài liệu:: + Xử lý logic đối với các thông tin định tính; + Phương pháp thống kê mô tả để mô tả thực trạng tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội ở thành phố Đà Nẵng. 5. Những đóng góp mới của luận án - Luận án xây dựng một khung lý thuyết về tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội ở đô thị trên cả 2 mặt: tác động tích cực và tác động tiêu cực. - Luận án chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị. - Luận án phân tích và đánh giá thực trạng tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010-2017. - Luận án dự báo xu hướng nhập cư và đặc điểm người nhập cư vào thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới, xác định quan điểm và từ đó đề xuất các giải pháp điều tiết tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội của thành phố. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận về nhập cư và tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội của đô thị; - Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện những qui định, chính sách về quản lí dân cư nói chung và quản lí người nhập cư nói riêng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; - Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học, thực tiễn cho các cấp quản lý chính quyền, các nhà quản lý đô thị trong việc đề ra phương hướng, chính sách phát triển kinh tế và quản lý xã hội nhằm điều tiết tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội ở đô thị; - Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất, bên cạnh chú trọng yếu tố vật chất là tư liệu sản xuất, cần phải chú trọng đến yếu tố con người - lực lượng cơ bản của lực lượng sản xuất, đây là yếu tố đầu vào quan trọng của mọi quá trình sản xuất; - Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy về chính sách xã hội, chính sách dân số, lao động và việc làm, chính sách di dân... 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và các bản phụ lục, nội dung luận án được chia làm 4 chương, 14 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở ĐÔ THỊ 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các nội dung chủ yếu sau: khái niệm di dân; khái niệm nhập cư; nguyên nhân nhập cư; những tác động của người nhập cư đối với phát triển kinh tế - xã hội ở nơi đến; chính sách, biện pháp đối với hiện tượng nhập cư… Có thể liệt kê một số công trình sau: John H. Harris và Micheal Torado (1970), “Migration, Unemployment and Development: A Two-Sector Analysis”; John & Macionis (2004), Xã hội học; Everret S.Lee (1996), “A theory of Migration”; George J Borjas (1994), “The Economics of Immigration”; Awojobi, Oladayo Nathaniel (2016), “The Economic impact of immigration on Kassel, Germany: An observation” … 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC 1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về khái niệm nhập cư và nguyên nhân nhập cư Các công trình tiêu biểu như: Đặng Nguyên Anh (2006), Chính sách di dân trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi, NXB 5 Thế giới, Hà Nội; Bùi Quang Bình (2012), Di dân trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam (trường hợp của miền Trung - Tây Nguyên), NXB Lao động xã hội, Hà Nội; Trần Thị Hương (2012), “Vấn đề nhập cư ở EU hiện nay: Thực trạng và chính sách”; Nguyễn Quốc Nghi, Ngô Thanh Thủy và Huỳnh Trường Huy (2010), “Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nhập cư tỉnh Hậu Giang”… 1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị Tiêu biểu có các công trình sau: Lê Bạch Dương, Nguyễn Thanh Liêm (2011), Từ nông thôn ra thành phố: Tác động kinh tế - xã hội của nhập cư ở Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội; Nguyễn Hữu Minh (2008), “Đóng góp kinh tế - xã hội của người nhập cư”; Phạm Thị Xuân Thọ (2002), Di dân ở tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, Luận án tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội; Trương Văn Tuấn (2010), “Nhập cư ở vùng Đông Nam Bộ trong những năm đầu thế kỷ XXI và ảnh hưởng của chúng đến sự phát triển xã hội”, … 1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu chính sách, giải pháp điều tiết tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội ở đô thị Một số công trình tiêu biểu như: ActionAid (2014), Báo cáo Tóm tắt chính sách: Tiếp cận an sinh xã hội của người lao động nhập cư, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội; Mai Ngọc Cường (2013), Chính sách xã hội đối với di dân nông thôn- thành thị ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội; Đào Hữu Hòa, Trương Bá Thanh, (2010), “Vấn đề di dân trong quá trình đô thị hóa, từ lý luận đến định hướng chính sách”, ... 1.3. ĐÁNH GIÁ NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU 1.3.1. Những kết quả các công trình nghiên cứu đã đạt được Thứ nhất, các công trình đã làm rõ một số vấn đề lý luận như nhập cư; người nhập cư; nguyên nhân của nhập cư; tác động của người nhập cư đến sự phát triển kinh tế - xã hội ở các đô thị. Thứ hai, các công trình cho chúng ta một bức tranh khá toàn diện về nguyên nhân của việc nhập cư vào các đô thị và cả những tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở một số tỉnh, thành. Thứ ba, các chính sách, giải pháp đưa ra nhằm xử lý vấn đề người nhập cư, các giải pháp tập trung vào nơi đi và nơi đến. 1.3.2. Những “khoảng trống” trong các công trình nghiên cứu - Về mặt lý luận: Đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị trên 2 mặt: tích cực và tiêu cực. Cũng chưa có công trình nghiên cứu nào xây dựng một cách có hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị. 6 - Về mặt thực tiễn: Chưa có công trình nghiên cứu và phân tích, đánh giá thực trạng tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội trên 2 mặt: tích cực và tiêu cực trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 1.3.3. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu - Về mặt lý luận: Luận án xây dựng khung phân tích về tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội ở đô thị. - Về mặt thực tiễn: (i) Luận án khảo cứu kinh nghiệm của một số địa phương trong việc xử lý tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội để từ đó rút ra bài học cho thành phố Đà Nẵng; (ii) Luận án sẽ phân tích, đánh giá thực trạng tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội ở thành phố Đà Nẵng trên 2 mặt: tích cực và tiêu cực dựa trên khung lý thuyết đã xây dựng ở chương 2; chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân; (iii) Luận án sẽ dự báo xu hướng và đặc điểm người nhập cư vào thành phố giai đoạn từ nay đến năm 2025; (iv) Đề xuất những giải pháp điều tiết tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng đến năm 2025 tầm nhìn đến 2030. 1.4. KHUNG PHÂN TÍCH CỦA LUẬN ÁN Vai trò quản lý của Nhà Tác động tích cực Giải pháp nước ở đô thị Tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội ở đô thị Tác động tiêu cực Các nhân tố ảnh hưởng Sự phát triển kinh tế đô thị Vai trò của các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội Bản thân người nhập cư 7 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở ĐÔ THỊ CẤP TỈNH 2.1. NGƯỜI NHẬP CƯ VÀ NGUYÊN NHÂN XUẤT HIỆN NGƯỜI NHẬP CƯ 2.1.1. Người nhập cư 2.1.1.1. Khái niệm Người nhập cư là người từ một địa phương, một nước hay vùng lãnh thổ này di chuyển đến một địa phương, một nước hay vùng lãnh thổ khác để sinh sống, làm việc. Nội hàm của khái niệm này có đề cập đến mối quan hệ giữa người nhập cư và nơi nhập cư. 2.1.1.2. Phân loại người nhập cư Có nhiều cách phân loại người nhập cư theo các góc độ khác nhau, tùy vào mục đích nghiên cứu. Do vậy việc phân loại người nhập cư chỉ có tính chất tương đối và không tách bạch với nhau. Theo độ dài thời gian cư trú: Người nhập cư lâu dài; người nhập cư tạm thời; người nhập cư mùa vụ. Theo tính chất tổ chức, quản lý người nhập cư: Người nhập cư có tổ chức; người nhập cư tự do. Theo địa bàn nhập cư: Người nhập cư trong nước; người nhập cư quốc tế. Trong luận án, nghiên cứu sinh xác định người nhập cư là những người lao động từ các tỉnh, thành khác di chuyển tự do đến thành phố Đà Nẵng sinh sống, làm việc lâu dài hoặc tạm thời gồm có đăng kí hay không đăng kí hộ khẩu thường trú và người nhập cư mùa vụ với mục đích tìm việc làm trong thời kỳ nông nhàn hoặc làm những công việc có tính thời vụ tại thành phố. 2.1.1.3. Đặc điểm của người nhập cư Đặc điểm về nhân khẩu học Đặc điểm nhân khẩu học phản ánh những đặc trưng về mặt dân số của người nhập cư như độ tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân. Chúng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định của người nhập cư như di chuyển hay không, di chuyển đến đâu… Đặc điểm về văn hóa - xã hội Phần lớn người nhập cư đều có quê quán từ nông thôn, có những tính cách như chịu khó; tiết kiệm; tính cộng đồng, làng xã; thường lựa chọn không gian sống yên tĩnh, không thích sự ồn ào… những phẩm chất này rất cần thiết cho quá trình phát triển nhưng cũng là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng lao động như thiếu kỹ năng làm việc tổ chức, tác phong công 8 nghiệp, tự do, thiếu kỷ luật… ảnh hưởng đến việc xây dựng lối sống văn hóa văn minh đô thị. Đặc điểm về học vấn, chuyên môn Trình độ học vấn, chuyên môn tùy thuộc vào nơi xuất cư, nhu cầu lao động nơi nhập cư và vào khoảng cách di chuyển. Trong đó, lực lượng dân nhập cư có trình độ chuyên môn, trình độ tay nghề cao thường nhập cư nhiều hơn. Tuy nhiên, vẫn có những nghiên cứu cho thấy, ngày nay, những người nhập cư thường là những người có trình độ học vấn thấp và có sự khác nhau giữa nam và nữ. Đặc điểm về việc làm, thu nhập, điều kiện sống Những người nhập cư tạm thời và mùa vụ thường là những người không có việc làm, hoặc có việc làm nhưng không ổn định. Phần lớn họ có trình độ học vấn thấp, trình độ tay nghề thấp do đó khi nhập cư ra thành phố thì họ làm rất nhiều nghề hoặc việc làm nặng nhọc, độc hại, với trình độ lao động phổ thông và giản đơn. Điều kiện sống khó khăn, nhất là vấn đề nhà ở, y tế, giáo dục… 2.1.2. Nguyên nhân làm xuất hiện người nhập cư 2.1.2.1. Nguyên nhân về kinh tế Nguyên nhân này bao gồm cả những “lực đẩy” ở nơi đi như: thiếu đất canh tác; thiếu việc làm; thu nhập thấp… và “lực hút” ở nơi đến như: thu nhập cao hơn; cơ hội tìm được việc làm dễ hơn… 2.1.2.2. Nguyên nhân về chất lượng cuộc sống Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự chênh lệch lớn về cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội (giao thông, điện, y tế, trường học, nước sinh hoạt…) cũng là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập cư. Người dân sẽ di chuyển từ nơi bất ổn chính trị, nghèo, công việc khan hiếm, dịch vụ cung cấp thực phẩm nghèo nàn đến nơi giàu có hơn, thịnh vượng hơn. 2.1.2.3. Quá trình đô thị hóa Quá trình đô thị hóa đã làm thay đổi không gian địa lý và không gian kinh tế, từ đó tạo sức hấp dẫn lớn, thu hút lao động nơi khác tới. 2.2. TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở ĐÔ THỊ CẤP TỈNH 2.2.1. Tác động tích cực 2.2.1.1. Về kinh tế Bổ sung lực lượng lao động cho đô thị Người nhập cư đóng góp vào nguồn cung lao động cho các đô thị, là một trong những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Trong quá trình phát triển, các thành phố không chỉ có nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, lao động đã qua đào tạo, có trình độ cao mà bên cạnh đó, các thành phố còn có nhu cầu về lao động phổ thông, giản đơn và dân nhập cư sẽ đáp ứng nhu cầu này. 9 Về vấn đề này, V.I.Lênin đã từng nói: “Dân cư nông thôn đi về thành phố là một hiện tượng tiến bộ”. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế Sự đóng góp này có thể được xem xét trên cả 2 góc độ: tổng cung và tổng cầu. Dưới góc độ tổng cung, người lao động nhập cư với tư cách là nhân tố lao động tham gia trực tiếp vào việc tạo ra sản phẩm cho nền kinh tế. Dưới góc độ tổng cầu, sự đóng góp của người nhập cư thông qua việc chi tiêu dùng cá nhân như: ăn uống, thuê nhà ở, một số dịch vụ xã hội khác… Góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH và đô thị hóa tất yếu phải có sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ. V.I.Lênin viết: “Thành phố tất yếu phải kéo theo nông thôn, nông thôn tất yếu phải đi theo thành phố”. Góp phần đa dạng hóa các hoạt động kinh tế Khu vực kinh tế không chính thức vốn đã sôi động, khi người nhập cư đến đông càng làm cho khu vực này sôi động thêm nhất là những việc làm mang tính chất dịch vụ như: xe ôm, đánh giày, nội trợ, giúp việc nhà… Bên cạnh đó, các ngành nghề thủ công, truyền thống có cơ hội để phát triển. Khi nhập cư đến thành phố sinh sống, nhiều người trong số đó đem thành phố các ngành, nghề thủ công truyền thống để sinh nhai và tìm địa bàn tiêu thụ rộng lớn như nghề làm bún, hủ tiếu, chế biến lương thực thực phẩm, nghề mộc… và điều này góp phần làm đa dạng hóa ngành nghề ở các đô thị. 2.2.1.2. Về văn hóa, xã hội Làm phong phú thêm đời sống văn hoá của đô thị Nhập cư không chỉ đơn thuần là dịch chuyển lao động mà còn là quá trình giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng có đặc trưng văn hóa khác nhau, bởi vì người nhập cư đến từ nhiều địa phương khác nhau và mang theo những nét văn hóa riêng của vùng, miền, quê hương họ, những dòng văn hóa đó không xung đột mà hòa nhập vào nhau làm phong phú thêm đời sống văn hóa đô thị. Góp phần mở rộng và phát triển không gian đô thị Về mặt lịch sử, đô thị hóa đã từng gắn liền với sự tăng trưởng của nhân khẩu đô thị, sự tích tụ dân cư thành phố tăng lên và sự tăng lên này một phần là nhờ vào lượng người nhập cư từ nông thôn vào thành phố. Sự phát triển mạnh mẽ các ngành kinh tế và đô thị hóa là nguyên nhân thúc đẩy người dân nhập cư vào các đô thị và ngược lại, quá trình nhập cư vào đô thị lại góp phần đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, làm tăng nhanh dân số đô thị, chính điều này tạo cơ hội để các đô thị mở rộng 10 không gian nhằm giảm áp lực về mật độ dân số, giao thông, chợ búa… trong quá trình phát triển. 2.2.2. Tác động tiêu cực 2.2.2.1. Về kinh tế Tạo sức ép về dân số, lao động, việc làm Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở nhiều thành phố lớn trên thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình trạng di dân ngoại thành vào, điều đó làm cho số người có nhu cầu giải quyết việc làm mỗi năm tăng nhanh, gây nên sức ép về việc làm tại các thành phố ngày càng tăng. Làm cho giá cả sức lao động ở đô thị có xu hướng giảm hơn so với giá trị Khi số người nhập cư tăng lên, chính quyền các đô thị chưa giải quyết được vấn đề việc làm thì lúc này cung hàng hóa sức lao động trên thị trường sẽ nhiều hơn cầu hàng hóa sức lao động, cuộc cạnh tranh để tìm việc làm giữa người lao động thành phố và người lao động nhập cư thêm gay gắt. Và theo tác động của qui luật cung cầu, giá cả hàng hóa sức lao động sẽ thấp hơn giá trị của nó trong một thời gian nhất định. 2.2.2.2. Về văn hóa, xã hội, môi trường Ảnh hưởng đến việc xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh đô thị Lao động nhập cư với vai trò tích cực là bổ sung nguồn lao động cho sự phát triển kinh tế của các đô thị nhưng do chưa kịp thích ứng với lối sống trong một đô thị lớn nên đã tác động tiêu cực tới mỹ quan đô thị. Bên cạnh đó, những thói quen có từ lâu đã ăn sâu vào máu thịt của người nhập cư như vứt rác bừa bãi, giải quyết các vấn đề trong cuộc sống bằng các qui ước của cộng đồng… điều này không phù hợp với qui định của Nhà nước về quản lý đô thị. Tạo sức ép trong việc cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản Nhà ở là vấn đề nan giải đầu tiên đối với chính quyền các đô thị, nhất là các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… Sự tăng lên về dân số cũng như số trẻ em đến độ tuổi đi học dẫn đến tình trạng thiếu chỗ học hoặc tình trạng quá tải tại một số trường, lớp ở các đô thị là tất yếu. Ở một khía cạnh khác, người dân nhập cư từ nông thôn vào các thành phố làm cho kết cấu hạ tầng giao thông, cảnh quan đô thị bị phá vỡ, ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng đô thị văn minh, hiện đại. Các phương tiện giao thông được sử dụng tăng lên, kết cấu hạ tầng giao thông đô thị không đáp ứng kịp đã gây nên tình trạng kẹt xe, ùn tắc giao thông ở hầu hết các đô thị, nhiều hệ quả phái sinh khác như ô nhiễm tiếng ồn, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường... là một trong những thách thức của các đô thị. Gia tăng sức ép về quản lý trật tự xã hội đối với các cấp chính quyền Lao động tự do di chuyển vào các thành phố, đặc biệt là di cư mùa vụ tìm việc làm trong thời gian nhàn rỗi, họ thường không đăng ký tạm trú, 11 điều này gây ra những khó khăn nhất định cho việc quản lý nhân khẩu tại các đô thị, dẫn đến hiện tượng mất trật tự công cộng và an toàn xã hội, làm nảy sinh thêm nhiều vấn đề phức tạp cho dân cư đô thị và trở thành gánh nặng đối với công tác quản lý trật tự xã hội của các cấp chính quyền. Nhiều vấn đề môi trường, xã hội phức tạp nảy sinh Lượng người nhập cư vào các thành phố ngày càng đông khiến môi trường sống trở nên ngột ngạt. Thiếu nước sạch sinh hoạt, ô nhiễm không khí, tiếng ồn do lượng phương tiện giao thông nhiều... đặc biệt là rác thải sinh hoạt ngày càng gia tăng; chất thải từ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp chưa qua xử lý đã gây sức ép lớn về môi trường. 2.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở ĐÔ THỊ CẤP TỈNH 2.3.1. Vai trò quản lý của Nhà nước ở đô thị Vai trò này được thể hiện thông qua việc ban hành các chính sách, biện pháp nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực mà người nhập cư đem lại. Một hệ thống chính sách, biện pháp hợp lý sẽ tranh thủ được những lợi ích do người nhập cư đem đến và ngược lại, một chính sách quản lý buông lỏng hay thả nổi thì những tác động tiêu cực người nhập cư đem lại có thể không kiểm soát được và sẽ ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển kinh tế-xã hội của đô thị. 2.3.2. Sự phát triển kinh tế đô thị Nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra một thị trường lao động rộng lớn, qui mô việc làm nhiều góp phần giải quyết việc làm cho người lao động nhập cư. Nền kinh tế phát triển, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế đa dạng, đảm bảo phần nào nhu cầu của người nhập cư. Ngoài ra, các yếu tố như: tốc độ tăng trưởng kinh tế; cơ cấu kinh tế; thu ngân sách… cũng ảnh hưởng đến tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội của một địa phương, một quốc gia. 2.3.3. Vai trò của doanh nghiệp và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội Nếu các tổ chức đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội phát huy tốt vai trò trong quá trình tham gia vào quản lý, kiểm soát, tuyên truyền chủ trương, đường lối của chính quyền đến người nhập cư và hỗ trợ người nhập cư sẽ góp phần không nhỏ trong việc ngăn ngừa những tác động tiêu cực và phát huy những tác động tích cực, góp phần vào việc ổn định tình hình trật tự, an toàn xã hội, hỗ trợ, giúp đỡ người nhập cư làm làm kinh tế, từ đó thúc đẩy kinh tế đô thị phát triển. 2.3.4. Bản thân người nhập cư Nếu người nhập cư có trình độ học vấn, chuyên môn cao thường sẽ có những tác động tích cực nhiều hơn đến sự phát triển kinh tế và ngược lại, đối 12 với bộ phận lao động phổ thông, làm nghề tự do, trình độ học vấn thấp, chưa qua đào tào nghề, chuyên môn kỹ thuật… thì khó tránh khỏi việc gây ra những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội nơi đến như áp lực giải quyết việc làm, vấn đề an toàn xã hội, xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh đô thị... 2.4. KINH NGHIỆM ĐIỀU TIẾT TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 2.4.1. Kinh nghiệm điều tiết tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế-xã hội của một số tỉnh, thành 2.4.1.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh Thứ nhất, về nhà ở và hộ khẩu. Thứ hai, về giải quyết việc làm. Thứ ba, về các chính sách ASXH. Thứ tư, về tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao. Với những chính sách đó, thành phố đã phần nào hạn chế được những tác động tiêu cực mà người nhập cư đem lại như: áp lực về việc làm, nhà ở, các dịch vụ xã hội, vấn đề an ninh trật tự… 2.4.1.2. Kinh nghiệm của Thủ đô Hà Nội Để phát huy những tác động tích cực và hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực do người nhập cư đem lại, chính quyền thành phố Hà Nội đã thực hiện một số giải pháp sau: Thứ nhất, ngăn chặn việc hình thành các “xóm liều”. Thứ hai, tăng cường quản lý lao động ngoại tỉnh vào Hà Nội tìm việc làm. Thứ ba, ban hành Luật Thủ đô. 2.4.1.3. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương Để lượng người nhập cư này trở thành nhân tố tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh đã áp dụng một số chính sách về nhà ở, giải quyết việc làm, ASXH như sau: Thứ nhất, về nhà ở. Thứ hai, về các vấn đề ASXH. Thứ ba, về các hoạt động văn hóa, thể thao. Với những chính sách trên, người lao động nhập cư vào tỉnh Bình Dương khắc phục được những khó khăn về nhà ở, sức khỏe, đời sống tinh thần từ đó họ yên tâm làm việc, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà. 2.4.1.4. Kinh nghiệm của Thủ đô Seol Thứ nhất, tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao. Thứ hai, thực hiện kế hoạch dãn dân ra khỏi Thủ đô. Thứ ba, chính sách nhà ở cho người nhập cư ở Thủ đô. 13 2.4.1.5. Kinh nghiệm của Thủ đô Bắc Kinh Thứ nhất, hạn chế người nhập cư vào Thủ đô Bắc Kinh bằng các biện pháp hành chính. Thứ hai, khuyến khích người nhập cư quay trở lại nông thôn. Thứ ba, quản lý người nhập cư. Như vậy, lúc đầu, các địa phương đều ngăn chặn người nhập cư vào đô thị bằng các biện pháp hành chính, sau đó thì chuyển sang quản lý người nhập cư nhằm phát huy những tác động tích cực, ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực mà người nhập cư đem lại và thừa nhận việc di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị là một xu thế tất yếu của quá trình phát triển. 2.4.2. Bài học kinh nghiệm đối với thành phố Đà Nẵng trong điều tiết tác động của người nhập cư đến phát triển kinh tế - xã hội Thứ nhất, chính sách nhà ở cho người nhập cư. Thứ hai, chính sách an sinh xã hội đối với người nhập cư nhằm giảm nghèo đô thị. Thứ ba, hạn chế dòng người nhập cư. Chương 3 THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 3.1. CÁC NHÂN TỐ TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI 3.1.1. Điều kiện tự nhiên - Vị trí địa lý - Tài nguyên thiên nhiên 3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội - Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế - Dân số và lao động - Kết cấu hạ tầng - Giáo dục, y tế 3.2. TÌNH HÌNH NGƯỜI NHẬP CƯ VÀO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 2010-2017 3.2.1. Qui mô và tốc độ tăng dân nhập cư Theo báo cáo kết quả của TĐTDS và nhà ở 1/4/2009, tính trên phạm vi toàn quốc, Đà Nẵng là một trong những địa phương thu hút số lượng lớn dân cư từ nơi khác đến để học tập, làm ăn sinh sống. Mỗi năm tại Đà Nẵng tăng cơ học khoảng 15.000 người. Trong giai đoạn 2005-2009 đã có 81.000 người di chuyển đến Đà Nẵng. 14 Theo số liệu điều tra lao động nhập cư của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Đà Nẵng, số người nhập cư vào thành phố tại thời điểm thành phố tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng vào năm 1997 là 22.000 người, đến năm 2008 có 154.900 người nhập cư và số người nhập cư tính đến năm 2016 đã lên đến 197.301 người, chiếm gần 19% dân số (dân số Đà Nẵng tính đến cuối năm 2016 là 1.048.488 người). 3.2.2. Nguyên nhân nhập cư vào thành phố Đà Nẵng 3.2.2.1. Nguyên nhân về kinh tế Theo số liệu điều tra, có 69,38% phiếu trả lời họ di chuyển là do thu nhập và việc làm) người được hỏi cho rằng lí do thu nhập và việc làm khiến họ phải di chuyển khỏi nơi ở cũ, lí do này bao gồm không kiếm được việc làm ở nơi ở cũ, công việc ở nơi ở cũ thu nhập thấp, không ổn định. Kết quả này không khác biệt mấy so với lí do di dân tổng kết từ TĐTDS và nhà ở Việt Nam năm 2009 (Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc, 2010). Xem bảng 3.1. Bảng 3.1: Lí do nhập cư vào thành phố Đà Nẵng Kết quả khảo sát Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Thu nhập và việc làm 451 69.38 Điều kiện học tập tốt hơn 105 16.15 Điều kiện y tế tốt hơn 73 11.23 Theo gia đình 8 1.23 Theo bạn bè 7 1.09 Tận hưởng lối sống đô thị 6 0.92 650 100 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của NCS, 2017 3.2.2.2. Chất lượng cuộc sống Lí do được lựa chọn nhiều thứ hai liên quan đến giáo dục, đào tạo nghề nghiệp trong đó bao gồm cả những điều kiện học hành của bản thân và con cái họ, tỷ lệ này chiếm tới 16,15% số người được hỏi. Có 11,23% người nhập cư vào thành phố cho rằng điều kiện chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và điều kiện y tế là lí do khiến họ di chuyển đến thành phố. Mặc dù chiếm tỷ lệ không cao nhưng cũng cho thấy người dân ngày càng quan tâm hơn tới chất lượng cuộc sống, họ mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn so với nơi làng quê và điều này phần nào đó nói lên được xu hướng di dân trong tương lai. 3.2.2.3. Quá trình đô thị hóa của thành phố Đà Nẵng Thành phố Đà Nẵng là một trong những địa phương có tốc độ đô thị hóa cao nhất nước, cùng với sự phát triển kinh tế của thành phố đã tạo ra Lí do 15 một lực hút đáng kể đối với dòng lao động nhập cư tới bằng cơ hội việc làm, thu nhập và điều kiện sống tốt hơn so với nhiều địa phương khác của vùng. 3.3. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA NGƯỜI NHẬP CƯ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 2010 - 2017 Với cách phân loại người nhập cư luận án đã đề cập ở chương 2, người nhập cư vào Đà Nẵng được phân thành 4 nhóm: (1) nhóm sinh viên các trường đại học, cao đẳng; (2) nhóm nhập cư tự do kiếm việc làm hoặc làm việc (tạm thời, lâu dài và mùa vụ); (3) nhóm nhập cư để chữa bệnh, thăm viếng họ hàng, du lịch, công tác ngắn ngày; (4) nhóm sáng “vào” chiều “ra”. Mỗi nhóm có những đặc điểm riêng, do đó sẽ có những tác động khác nhau đến phát triển kinh tế - xã hội của thành phố, tuy nhiên xuất phát từ mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ đánh giá tác động của nhóm nhập cư tự do để kiếm việc làm hoặc đang làm việc tại thành phố. 3.3.1. Tác động tích cực 3.3.1.1. Về kinh tế Bổ sung lực lượng lao động cho thành phố Đóng góp đầu tiên của người nhập cư đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng đó là bổ sung lực lượng lao động cho thành phố. Điều tra khảo sát của Sở LĐ-TB &XH thành phố Đà Nẵng, đến cuối năm 2016, có 45% công nhân lao động tại Đà Nẵng là dân nhập cư. Trong đó có 49% trong tổng số 72.239 công nhân tại 6 KCN, khu chế xuất tại Đà Nẵng là người đến từ địa phương khác. Kết quả điều tra 20 doanh nghiệp đang hoạt động tại các KCN trên địa bàn thành phố cho thấy có 85% doanh nghiệp cho rằng lao động ngoại tỉnh chiếm từ 50 - 75% số lao động của toàn doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong số dân nhập cư, có một bộ phận là sinh viên đã tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn thành phố và ở lại thành phố tìm việc. Đây chính là bộ phận nhập cư hàng năm, là nguồn bổ sung lực lượng lao động có chất lượng cao cho thành phố. Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của thành phố Phần đóng góp không nhỏ của người nhập cư cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành đó là góp phần tăng sản lượng của thành phố. Trước hết, thu nhập của người nhập cư được tính vào GRDP (tổng sản phẩm nội địa) của thành phố. Nếu tính trung bình mức lương hàng tháng của một lao động nhập cư là 4,0 triệu đồng thì thu nhập một năm mà số lao động nhập cư tạo ra là 9.170,448 tỷ đồng, chiếm khoảng 12,83% GRDP toàn thành phố năm 2016. Theo cách tiếp cận chi tiêu, đóng góp của lao động nhập cư chính là từ hoạt động chi tiêu của họ trên thị trường thành phố Đà Nẵng. Với mức 16 chi tiêu trung bình của lao động nhập cư là 3,0 triệu đồng thì lao động nhập cư chi tiêu khoảng 7.102 tỷ đồng/năm. Hơn nữa, có 0,75% người nhập cư được điều tra là chủ doanh nghiệp, điều này chắc chắn sẽ đóng góp cho ngân sách thành phố và góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động của thành phố nói chung và người lao động nhập cư nói riêng. Góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động Phần lớn dân cư từ các vùng lân cận di chuyển đến Đà Nẵng đã thay đổi nghề nghiệp từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Sự thay đổi nghề nghiệp của người nhập cư góp phần thay đổi cuộc sống sinh hoạt sản xuất và thu nhập cho bản thân họ nhưng cũng đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động của thành phố. Góp phần đa dạng hóa các hoạt động kinh tế Theo kết quả điều tra có 36,92% lao động nhập cư làm việc trong khu vực phi chính thức, góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng nhanh chóng khu vực kinh tế này ở Đà Nẵng. Trong quá trình chuyển cư vào thành phố, người nhập cư từ nhiều làng nghề ở các tỉnh, thành lân cận đã đem đến thành phố Đà Nẵng các ngành, nghề truyền thống như: làm bún, làm hủ tiếu, trồng rau, chế biến lương thực thực phẩm… đã góp phần làm đa dạng hóa ngành nghề ở Đà Nẵng. 3.3.1.2. Về văn hóa, xã hội, môi trường Làm phong phú thêm đời sống văn hoá của đô thị Theo kết quả khảo sát của NCS, phần lớn người nhập cư đến Đà Nẵng thường từ những tỉnh thành có cự li gần với thành phố Đà Nẵng, đông nhất là Quảng Nam; Huế; Quảng Bình…, một số lượng lớn dân nhập cư còn đến từ Quảng Ngãi, Quảng Trị và Bình Định. Ngoài ra, còn có một số ít dân từ các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải Bắc Trung Bộ, một số tỉnh miền Bắc và Tây Nam bộ nhập cư vào Đà Nẵng. Các tỉnh, thành này trong cùng khu vực miền Trung nên mang đậm dấu ấn văn hóa làng xã, tính cách con người, phong cách, lối sống có những nét tương đồng nhau như giản dị, chịu khó, cần cù, tính cộng đồng cao, tiết kiệm… vừa góp phần nâng cao chất lượng lao động của thành phố vừa góp phần làm phong phú đời sống văn hóa của đô thị. Góp phần mở rộng và phát triển không gian đô thị Theo số liệu thống kê, trong vòng 30 năm (1979 - 2009), dân số Đà Nẵng đã tăng gấp đôi. Trong giai đoạn 10 năm (1999 - 2009), dân số Đà Nẵng tăng 1,3 lần. Tính bình quân tăng 20.200 người mỗi năm, trong đó số tăng cơ học khoảng 10.000 người/năm. Và đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến diện tích đô thị ngày càng mở rộng. Từ chỗ chỉ có 3 quận, đến nay, Đà Nẵng được mở rộng thành 6 quận nội thành và 2 huyện Hòa Vang, Hoàng Sa với tổng diện tích 128.543ha. 17 Trong đó, diện tích phần đất liền là 98.043ha, phần diện tích quần đảo Hoàng Sa là 30.500ha. Từ chỗ chỉ có 360 đường phố cũ, nhỏ, hiện Đà Nẵng đã có hơn 2.000 con đường hiện đại. 3.3.2. Tác động tiêu cực 3.3.2.1. Về kinh tế Tạo sức ép về dân số, lao động, việc làm Khi dân số tăng nhanh, nguồn lao động bổ sung ngày càng lớn, trong khi một lượng lao động hiện thời vẫn chưa có việc làm. Bên cạnh đó, gia tăng dân số quá nhanh còn khiến chất lượng nguồn lao động giảm sút khi tỷ lệ lao động có tay nghề, lao động qua đào tạo còn thấp. Số liệu điều tra cho thấy có 70,92% người nhập cư vào thành phố không được qua đào tạo về chuyên môn và tay nghề, 8% đã tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, 6,93% đã qua lớp công nhân kỹ thuật và số còn lại có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 14,15%. Đây là một áp lực rất lớn trong việc giải quyết việc làm vì sự bất cập giữa trình độ người lao động và yêu cầu công việc. Ở thành phố Đà Nẵng, tỷ lệ thất nghiệp thành thị hiện nay khoảng 4,9% trong tỷ lệ này chắc chắn có sự đóng góp của những người nhập cư. Giá cả sức lao động có xu hướng giảm hơn so với giá trị của nó Mức lương trung bình trong các khu công nghiệp ở thành phố Đà Nẵng hiện nay khoảng 4 - 4,5 triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, nguồn lao động bổ sung vào thành phố quá nhiều do người nhập cư đông nên mức lương ở một số doanh nghiệp theo điều tra của Sở LĐ-TB&XH thành phố Đà Nẵng chỉ ở mức 2,5 - 3 triệu đồng/người/tháng. So với mức chi tiêu cho các nhu cầu tối thiểu để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động, để nâng cao trình độ tay nghề thì rõ ràng mức thu nhập này còn thấp. Theo số liệu khảo sát của NCS, có 45,69% phiếu cho rằng với mức lương hiện tại họ không thể trang trải các chi phí sinh hoạt nhằm đáp ứng các nhu cầu tối thiểu. 3.3.2.2. Về văn hóa, xã hội, môi trường Ảnh hưởng đến việc xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh đô thị trên địa bàn thành phố Lao động nhập cư chủ yếu đến từ những làng quê còn nhiều khó khăn về kinh tế, phần lớn sống ở khu vực nông thôn. Suy nghĩ và hành động vẫn mang nặng tính tiểu nông nên khi nhập cư vào thành phố Đà Nẵng, những đối tượng nhập cư này vì không sớm thích nghi với môi trường đô thị đã gây nên các tiêu cực cho xã hội. Trong số 650 người được hỏi “có bao giờ anh/chị chở hàng hóa cồng kềnh hay chở quá số người qui định khi tham gia giao thông chưa?”, kết quả thu được như sau: có 427/650 người trả lời “rất nhiều lần” chiếm tỷ lệ 65,69%. 18 Đặc biệt, nhiều người nhập cư chưa quen với việc sử dụng nhà vệ sinh công cộng đã tạo ra nhiều hình ảnh mất mỹ quan đối với thành phố có nhiều khách du lịch. Bên cạnh đó, do phải lam lũ suốt ngày, đầu tắt mặt tối để mưu sinh, lại phải bận bịu trong việc chăm sóc con cái, họ không còn thời gian thụ hưởng văn hóa tinh thần, không có thời gian để đọc một cuốn sách, nghe một bản nhạc, xem một cuốn phim..., không có thời gian để lo chuyện phải chuyện không, thậm chí không có thời gian để giao tiếp với láng giềng... Và chính điều đó đã tạo thêm những mảng tối trong diện mạo văn hóa của thành phố Đà Nẵng. Tạo sức ép trong việc cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản Kết quả điều tra cho thấy phần lớn người lao động nhập cư vào thành phố Đà Nẵng đều phải ở nhà thuê (chiếm 79,69%); có 11,54% ở nhờ nhà người thân, họ hàng; số còn lại thì có nhà thuộc sở hữu, ở tại nơi làm và “ở đâu cũng được”. Thế nhưng chỉ có 25% doanh nghiệp được điều tra là có hỗ trợ nhà ở cho công nhân là lao động nhập cư bằng hình thức hỗ trợ chi phí thuê nhà vào tiền lương, còn lại 75% doanh nghiệp được hỏi trả lời không có hỗ trợ chỗ ở cho công nhân là lao động nhập cư nên áp lực đè nặng lên vai chính quyền thành phố Đà Nẵng. Đường sá giao thông vốn đã chật hẹp đối với nhu cầu sản xuất, lưu thông của dân cư Đà Nẵng, nay lại tăng thêm đội quân buôn bán lặt vặt lấn chiếm lòng lề đường đã gây nên tình trạng kẹt xe ở một số tuyến đường vào giờ cao điểm, nhất là đoạn qua cầu sông Hàn, vòng xuyến Điện Biên Phủ với Nguyễn Tri Phương và một số tuyến đường lớn Hoàng Diệu, Nguyễn Văn Linh... Gia tăng sức ép về quản lý trật tự xã hội đối với các cấp chính quyền thành phố Phần lớn người nhập cư đến thành phố Đà Nẵng đều không đăng ký tạm trú, một số ít có chỗ ở hợp pháp thì được đăng ký thường trú theo qui định của Luật Cư trú. Điều này gây không ít khó khăn trong quản lý nhân khẩu tại Đà Nẵng. Theo số liệu điều tra, có 85,07% người nhập cư trả lời có đăng ký tạm trú, số còn lại không đăng ký tạm trú chiếm 14,93%. Trong đó, lí do không đăng ký tạm trú như sau: có 56,30% trả lời do “thủ tục rườm rà”; có 18,46% trả lời do“không biết qui định này”; còn 7,84% thì cho rằng “không cần thiết”. Số liệu điều tra cho thấy có 36,92% lao động nhập cư vào thành phố Đà Nẵng lấy vỉa hè, lề đường và những nơi công cộng như bãi biển, trường học, công viên… làm nơi buôn bán, điều này gây mất trật tự, mất mỹ quan đô thị, ảnh hưởng đến an toàn giao thông và đặc biệt không ít tệ nạn xã hội cũng từ lấn chiếm vỉa hè, lòng đường mà ra. Tất cả điều này đã tạo ra một sức ép lớn đè nặng lên vai các nhà quản lý xã hội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan