BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐỖ THỊ HOÀNG YẾN
THANH TRA HÀNH CHÍNH – TỪ THỰC TIỄN
THANH TRA THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG,
TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI – 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐỖ THỊ HOÀNG YẾN
THANH TRA HÀNH CHÍNH – TỪ THỰC TIỄN
THANH TRA THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG,
TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH VĂN MINH
HÀ NỘI – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Thanh tra hành chính – Từ thực tiễn Thanh
tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang” là công trình nghiên cứu thực
sự của bản thân tôi, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên
quan đã đƣợc công bố. Số liệu và các kết quả nghiên cứu trong luận văn là
trung thực, hoàn toàn dựa theo số liệu thu thập và điều tra. Các thông tin trích
dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều đƣợc dẫn nguồn tài liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày
tháng
Tác giả
Đỗ Thị Hoàng Yến
năm 2017
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của bản thân sau một quá trình nỗ lực học tập
và nghiên cứu với sự giúp đỡ của thầy cô, đơn vị, đồng nghiệp và ngƣời thân.
Để có đƣợc thành quả ngày hôm nay, lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo – TS. Đinh Văn Minh, ngƣời hƣớng dẫn khoa
học trực tiếp, đã dành nhiều thời gian, công sức trong quá trình nghiên cứu để
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tiếp theo, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Học viện Hành chính Quốc gia,
khoa Sau Đại học cùng toàn thể thầy, cô giáo của Học viện Hành chính Quốc
gia đã giảng dạy tận tình và truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh
Tuyên Quang đã hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn. Xin gửi lời cảm ơn tới các đồng chí công tác tại Thanh tra
thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá
trình thu thập số liệu điều tra nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình,
ngƣời thân, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi an tâm công tác, học tập và
sự quan tâm, chia sẻ của các bạn học cùng lớp Cao học Luật Hành chính và
Luật Hiến pháp LH2.B1 cũng chính là động lực giúp tôi hoàn thành khóa học
và luận văn này.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn./.
Tác giả
Đỗ Thị Hoàng Yến
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA VÀ THANH TRA
HÀNH CHÍNH .................................................................................................. 6
1.1. Khái quát chung về thanh tra ..................................................................... 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc của thanh tra hành chính .............. 10
1.3.Cấu thành thanh tra hành chính................................................................. 21
1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động thanh tra hành chính ..................... 31
Tiểu kết Chƣơng 1 ........................................................................................... 38
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THANH TRA HÀNH CHÍNH TẠI THANH
TRA THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG ................. 39
2.1. Khái quát chung về thành phố Tuyên Quang........................................... 39
2.2. Cơ cấu, tổ chức, nội dung hoạt động của Thanh tra thành phố Tuyên
Quang, tỉnh Tuyên Quang ............................................................................... 41
2.3. Thực trạng hoạt động thanh tra hành chính tại Thanh tra thành phố Tuyên
Quang, tỉnh Tuyên Quang ............................................................................... 45
2.4. Nhận xét chung về thanh tra hành chính từ thực tiễn Thanh tra thành phố
Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. ................................................................... 61
Tiểu kết Chƣơng 2 ........................................................................................... 68
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THANH TRA
HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN
QUANG .......................................................................................................... 69
3.1. Yêu cầu của việc bảo đảm thanh tra hành chính tại thành phố Tuyên
Quang, tỉnh Tuyên Quang ............................................................................... 69
3.2. Phƣơng hƣớng bảo đảm thanh tra hành chính tại thành phố Tuyên Quang,
tỉnh Tuyên Quang ............................................................................................ 71
3.3. Giải pháp bảo đảm thanh tra hành chính tại thành phố Tuyên Quang, tỉnh
Tuyên Quang ................................................................................................... 75
Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 83
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 87
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức hệ thống các phòng ban chuyên môn trực thuộc Ủy
ban nhân dân thành phố Tuyên Quang............................................................ 42
Sơ đồ 2.2: Tổ chức bộ máy Thanh tra thành phố Tuyên Quang ..................... 43
Bảng 2.1: Bảng thống kê số lƣợng cán bộ, công chức thuộc Thanh tra thành
phố Tuyên Quang theo chức vụ và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. ............ 45
Bảng 2.2: Tổng số cuộc thanh tra hành chính tại thành phố Tuyên Quang năm
2010 – 2015 ..................................................................................................... 57
Bảng 2.3: Bảng thống kê kết quả xử lý và chỉ đạo việc thực hiện kết luận, kiến
nghị thanh tra hành chính của Thanh tra thành phố Tuyên Quang năm 2010 –
2015 ................................................................................................................. 59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Đối với cán bộ, đƣợc
làm công tác thanh tra là một vinh dự. Vì sao? Vì công tác thanh tra là một
công tác quan trọng, Đảng và Chính phủ có tin cậy mới giao cho làm nhiệm
vụ ấy” [43]. Có thể thấy, công tác thanh tra là một trong những nội dung cơ
bản của hoạt động quản lý hành chính nhà nƣớc, là một chức năng thiết yếu
của quản lý nhà nƣớc, là công cụ phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nƣớc. Bên cạnh đó, thanh tra còn là một phƣơng thức phát huy dân
chủ, tăng cƣờng pháp chế, phát hiện và xử lý những biểu hiện quan liêu, tham
ô, lãng phí và những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý.
Ngay từ những ngày đầu lập nƣớc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú ý
tới việc sử dụng, phát huy vai trò công tác thanh tra. Tại cuộc họp Chính phủ
ngày 13/11/1945, Hồ Chủ tịch đề nghị “Các Bộ trƣởng có thể chia nhau đi thanh
tra một khu vực gần Hà Nội, Bộ Nội vụ sẽ khảo cứu và lập một chƣơng trình về
việc này”. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 64/SL thành lập
Ban Thanh tra đặc biệt, tiền thân của các tổ chức thanh tra ngày nay.
Có thể nói, kể từ khi tổ chức và hoạt động thanh tra đƣợc chính thức
quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật chuyên biệt, công tác thanh tra
đã phát huy đƣợc các nhân tố tích cực trong phòng ngừa xử lý vi phạm, góp
phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế tăng cƣờng pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan tổ chức và nhân dân.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, các quy định hiện hành về thanh
tra, còn chƣa đƣợc quy định rõ, còn chồng chéo về vai trò, hoạt động của
thanh tra hành chính và chuyên ngành, hoạt động phối hợp xử lý giữa cơ quan
1
thanh tra và các cơ quan chức năng dẫn đến hiệu quả của công tác thanh tra
còn nhiều hạn chế, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nƣớc. Bên cạnh đó, quyền
hạn thanh tra còn bị hạn chế, các kết luận, kiến nghị thanh tra chƣa đƣợc thực
thi một cách nghiêm chỉnh và còn thiếu nhiều biện pháp cứng rắn, chế tài đủ
mạnh. Một số cán bộ thanh tra chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu về trình độ, kỹ
năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị trong thực hiện
nhiệm vụ đƣợc giao. Để xử lý dứt điểm tình trạng trên không chỉ là vấn đề
riêng của một địa phƣơng, một ngành mà phải cần có sự hỗ trợ từ tất cả các
cơ quan hữu quan. Tình hình trên đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu một cách
tổng thể cả về lý luận và thực tiễn về công tác thanh tra nói chung, đặc biệt
công tác thanh tra hành chính nói tiêng, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác này.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, em đã chọn đề tài: “ Thanh tra
hành chính – từ thực tiễn Thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên
Quang” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp chƣơng trình sau đại học chuyên
ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Hiện nay, nói về thanh tra hành chính, có khá nhiều đề tài nghiên cứu
và tác giả đề cập đến nội dung liên quan đến hoạt động này, nhƣng để nghiên
cứu một cách trực tiếp, có hệ thống chuyên sâu về thanh tra hành chính thì số
lƣợng công trình nghiên cứu còn hạn chế, cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, về các đề tài nghiên cứu khoa học.
- “Cơ sở xác định trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp
trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham
nhũng” do đồng chí Nguyễn Tuấn Khanh – Viện khoa học Thanh tra làm chủ
nhiệm.
- “Một số giải pháp nhằm hạn chế trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động
2
thanh tra” do đồng chí Lê Đức Trung – Viện khoa học Thanh tra làm chủ nhiệm.
Thứ hai, về các đề tài luận án, luận văn đã bảo vệ.
- Luận án tiến sỹ “Tổ chức và hoạt động của các tổ chức Thanh tra ở
nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay – thực trạng và giải pháp” của tác giả Trịnh
Xuân Thiện.
- Luận văn thạc sỹ :“Hoạt động thanh tra hành chính của cơ quan
Thanh tra tỉnh, từ thực tiễn tỉnh Cà Mau”; “Thanh tra quận, huyện; Thanh tra
xây dựng xã, phƣờng, thị trấn tại Thành phố Hồ Chí Minh”
Thứ ba, các bài nghiên cứu đăng trên báo, tạp chí, các trang điện tử chính
thống.
- “Phân định thanh tra hành chính - thanh tra chuyên ngành: những
vƣớng mắc đặt ra cho việc sửa đổi Luật thanh tra” của tác giả Đinh Văn Minh
– Viện khoa học Thanh tra.
- “Thanh tra hành chính góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
Nƣớc” của tác giả Nguyễn Tân Đông – Thanh tra tỉnh Đồng Tháp.
Các đề tài, chuyên đề, bài viết nghiên cứu trên đây mới chỉ đề cập bƣớc
đầu đến vấn đề thanh tra hành chính. Các bài viết, các công trình nghiên cứu
phần lớn tập trung vào khó khăn khi thực hiện hoạt động thanh tra hành chính,
phân định giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên nghành, chƣa có nhiều
đề tài đi sâu nghiên cứu về lý luận , thực tiễn công tác tổ chức thực hiện hoạt
động thanh tra hành chính ở các cấp, các ngành, cụ thể là hoạt động thanh tra
hành chính trên địa bàn thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Các công trình nghiên cứu trên sẽ là cơ sở, tiền đề trong việc tham khảo,
tiếp cận, nghiên cứu để đƣa ra những giải pháp trong công tác hoàn thiện tổ chức
và thực hiện thanh tra hành chính tại thanh tra thành phố Tuyên Quang, tỉnh
Tuyên Quang.
3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về thanh
tra hành chính.
Phân tích thực trạng về thanh tra hành chính ở thành phố Tuyên Quang,
tỉnh Tuyên Quang.
Xác định những ƣu điểm, hạn chế về thanh tra hành chính tại thành
phố Tuyên Quang, phát hiện những mặt tích cực đã làm và những mặt hạn
chế trong công tác thanh tra.
Đề xuất những phƣơng hƣớng, giải pháp đảm bảo thanh tra hành
chính tại thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu trên, luận văn sẽ thực hiện nhiệm vụ sau:
nghiên cứu những vấn đề chung về thanh tra hành chính; trên cơ sở đó nghiên
cứu đặc điểm, vai trò, cấu thành, nội dung của thanh tra hành chính. Đi sâu
tìm hiểu, đánh giá thực trạng thanh tra hành chính tại thành phố Tuyên
Quang. Trong quá trình nghiên cứu chỉ rõ những ƣu điểm, hạn chế thanh tra
hành chính trong thực tiễn, nguyên nhân của ƣu điểm, hạn chế, từ đó đề xuất
các phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm đảm bảo cho hoạt động thanh tra hành
chính.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu
Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn
đƣợc giao đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc.
Thanh tra trách nhiệm quản lý của các cơ quan quản lý nhà nƣớc
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
4
Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến năm 2015
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn.
Phương pháp luận
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên phƣơng pháp chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng các quan điểm, phƣơng pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
Ngoài ra, để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của luận văn, tác giả sử
dụng một số phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống
hóa …
6. Kết cấu của luận văn
Bố cục của luận văn gồm 3 chƣơng :
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về thanh tra và thanh tra hành
chính
Chương 2: Thực trạng thanh tra hành chính tại Thanh tra thành
phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
Chương 3: Phương hướng, giải pháp bảo đảm thanh tra hành
chính tại thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang
5
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA VÀ THANH TRA HÀNH CHÍNH
1.1. Khái quát chung về thanh tra
1.1.1.Khái niệm thanh tra
Thuật ngữ thanh tra ( tiếng Anh là Inspect ) xuất xuất phát từ gốc tiếng
Latinh là “inspectorate”, có nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ sự kiểm tra, xem
xét từ bên ngoài của chủ thể có thẩm quyền đối với hoạt động của đối tƣợng
nhất định. Theo thuật ngữ này, “hoạt động thanh tra chỉ giới hạn trong hoạt
động kiểm tra, xem xét, chƣa bao gồm vai trò xử lý của chủ thể thanh tra đối
với đối tƣợng thanh tra, các cá nhân, tổ chức sau khi kiểm tra, xem xét” [16].
Theo Từ điển Luật học Đức, thanh tra đƣợc giải thích “là sự tác động
của chủ thể đến đối tƣợng đã và đang thực hiện thẩm quyền đƣợc giao nhằm
đạt đƣợc mục đích nhất định - sự tác động có tính trực thuộc” [18]. Theo cách
giải thích này, thuật ngữ thanh tra đƣợc nhìn theo góc hiểu về mặt nội dung
hoạt động, nghĩa là, bất kể sự tác động nào của chủ thể thanh tra đến đối
tƣợng thanh tra trực thuộc đã và đang thực hiện thẩm quyền đƣợc giao để
hƣớng đến một mục đích nhất định đều đƣợc hiểu là hoạt động thanh tra. Từ
góc nhìn này, chúng ta có thể thấy đƣợc sự tƣơng đồng giữa thuật ngữ thanh
tra theo từ điển Luật học Đức, với thuật ngữ thanh tra hành chính theo Luật
thanh tra 2010 ở nƣớc ta là cùng mang tính trực thuộc và kiểm soát nội bộ.
Theo từ điển tiếng Việt "thanh tra (ngƣời thuộc cơ quan có thẩm
quyền) kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phƣơng, cơ quan, xí
nghiệp" [45]; thanh tra thƣờng đi kèm với một chủ thể nhất định: “Ngƣời làm
nhiệm vụ thanh tra”, “đoàn thanh tra” và “đặt trong phạm vi quyền hành của
một chủ thể nhất định”. Theo quan niệm này, thanh tra là khái niệm để chỉ
hoạt động kiểm soát của cơ quan, tổ chức, ngƣời đƣợc giao nhiệm vụ, quyền
hạn nhằm: “xem xét và phát hiện, ngăn chặn với những gì trái với quy định”
[21] của các tổ chức, cá nhân là đối tƣợng của thanh tra.
6
Ở nƣớc ta, quan niệm về thanh tra hiện nay cũng nhƣ trong lịch sử
đƣợc thể hiện qua những mô hình cơ quan nhà nƣớc, các quy định của pháp
luật và đƣợc đề cập ở những giác độ khác nhau:
Thời kỳ phong kiến, khái niệm thanh tra chƣa đƣợc sử dụng nhƣng có
các chức quan làm công việc giống nhƣ thanh tra, đó là: Dƣới thời Lý có chức
quan Gián nghị đại phu (tả, hữu gián nghị đại phu); thời Trần có cơ quan gọi
là “Ngự sử đài” với chức năng gần giống nhƣ cơ quan thanh tra Nhà nƣớc
hiện nay và có chức “Quan ngự sử” đứng đầu Ngự sử đài. Ngự sử đài có
nhiệm vụ giúp Vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của
triều đình. Quan Ngự sử đời nhà Trần có quyền tiền trảm hậu tấu và là chức
quan duy nhất có quyền can gián Vua. Thời nhà Lê có hàm “Gián nghị đại
phu” phong tặng cho bất cứ bề tôi nào dám nói thẳng, nói đúng sự thật, Gián
nghị đại phu có quyền can gián nhà Vua những việc nên làm và những việc
không nên làm.
Sau này, xuất phát từ nhu cầu cấp thiết đòi hỏi phải có cơ quan thực
hiện chức năng thanh tra trong hoạt động quản lý nhà nƣớc, ngày 23 tháng 11
năm 1945, chỉ sau 3 tháng từ khi Chính phủ nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa
đƣợc thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945
thành lập Ban thanh tra đặc biệt, Điều 1 Sắc lệnh quy định: “Chính phủ sẽ lập
ngay một Ban thanh tra đặc biệt có ủy nhiệm là đi giám sát tất cả các công
việc và các nhân viên của các Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính
phủ”. Từ đây, thuật ngữ “Thanh tra” xuất hiện ở nƣớc ta, quyền thanh tra
đƣợc xác định và chính thức giao cho Chính phủ, trở thành khâu trọng yếu
trong chu trình quản lý nhà nƣớc của Chính phủ. Từ đó, dƣới góc độ quyền
lực nhà nƣớc, khái niệm thanh tra đƣợc hiểu là chức năng thiết yếu của cơ
quan quản lý nhà nƣớc, là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan nhà nƣớc
đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức,
7
cá nhân. Hoạt động thanh tra đƣợc thực hiện bởi cơ quan chuyên trách theo
một trình tự, thủ tục luật định, nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,
pháp luật, để kiến nghị với nhà nƣớc các biện pháp khắc phục; phát huy nhân
tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý nhà
nƣớc, bảo vệ lợi ích của nhà nƣớc, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức, cá nhân.
Từ những quan niệm trên, có thể hiểu: Thanh tra là việc xem xét,
đánh giá, xử lý theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
1.1.2.Vai trò của thanh tra trong quản lý nhà nước
Trong mối quan hệ giữa quản lý nhà nƣớc và thanh tra, quản lý nhà
nƣớc giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động thanh tra. Tiếp đó, thanh tra lại có
tác động tích cực đối với quản lý và góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
quản lý nhà nƣớc. Trong vai trò của mình, thanh tra không chỉ là hoạt động
kiểm tra, giám sát việc tuân theo chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan,
tổ chức, cá nhân; kịp thời phát hiện, kiến nghị xử lý nghiêm khắc đối với
những hành vi vi phạm và đề ra các biện pháp giúp các đối tƣợng thanh tra
khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, phát huy ƣu điểm… mà hơn hết còn
là phƣơng tiện để chủ thể quản lý phát hiện những biểu hiện trì trệ, không phù
hợp với thực tiễn khách quan của cơ chế, phƣơng pháp quản lý đã và đang cản
trở các hoạt động quản lý, từ đó đề xuất các biện pháp cải cách, hoàn thiện các
hoạt động quản lý nhà nƣớc. Nhƣ V.I.Lê nin đã chỉ rõ: “Quản lý đồng thời phải
có thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ không phải là hai” [11].
Vai trò của công tác thanh tra đối với hoạt động quản lý nhà nƣớc
đƣợc thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
8
Thanh tra là chức năng không thể thiếu của quản lý nhà nƣớc, có vai
trò quan trọng đối với việc đánh giá hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nƣớc. Hoạt
động thanh tra xem xét, đánh giá trên thực tế việc thực hiện chủ chƣơng,
chính sách, pháp luật của nhà nƣớc, qua đó kịp thời phát hiện những sơ hở,
những sự bất hợp lý trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị
điều chỉnh. Từ đó góp phần giúp cho chủ thể quản lý có đƣợc những thông tin
cần thiết phục vụ cho việc hoạch định cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật và
đƣa ra các biện pháp chỉ đạo, điều hành hợp lý.
Thanh tra là phƣơng thức đảm bảo trật tự, kỷ cƣơng trong quản lý,
phòng ngừa vi phạm pháp luật, góp phần tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Thông qua hoạt động thanh tra, những sai lệch trong việc thực hiện chủ
chƣơng, chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tƣợng
thanh tra đƣợc phát hiện và xử lý kịp thời, bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp
luật. Đồng thời hoạt động thanh tra cũng là phƣơng thức để tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật, hƣớng dẫn đối tƣợng thanh tra thực hiện đúng các
quy định của pháp luật để từ đó góp phần phòng ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật xảy ra và tái diễn ở đối tƣợng quản lý nhà nƣớc.
Bên cạnh việc tìm ra những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý,
những nội dung trong chủ trƣơng, chính sách chƣa phù hợp với thực tiễn
khách quan để kịp thời kiến nghị; phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, hƣớng dẫn đối tƣợng quản lý thực hiện
đúng các quy định của pháp luật, hoạt động thanh tra còn phải phát hiện và
khẳng định, tạo điều kiện phát huy, nhân rộng những nhân tố tích cực. Có nhƣ
vậy thì hiệu quả công tác thanh tra mới đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển của
thực tiễn, hiệu quả công tác quản lý mới đƣợc nâng cao.
Tiếp đó, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận quyền lực nhà nƣớc thuộc về
nhân dân, nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nƣớc. Nhà nƣớc có nghĩa
9
vụ chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, tạo mọi điều kiện
để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý nhà nƣớc và
quản lý xã hội. Hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm quyền dân chủ của
nhân dân thông qua hoạt động tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh và thanh tra việc thực hiện pháp luật về thanh tra, tiếp công
dân; giải quyết khiếu nại, tố cáo. Từ đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của ngƣời dân, góp phần bảo đảm các quyền dân chủ, phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc của thanh tra hành chính
1.2.1. Khái niệm thanh tra hành chính
1.2.1.1 Khái niệm hành chính
Thuật ngữ “Hành chính” có gốc từ tiếng Latinh “Administratio”, tiếng
Anh – “Administration” và tiếng Pháp là “Administration” có nghĩa là quản
lý, lãnh đạo. Nó có bốn ý nghĩa: 1) Hoạt động quản lý của cơ quan nhà nƣớc,
hoạt động tổ chức trong lĩnh vực quản lý; 2) Các cơ quan chấp hành của
quyền lực nhà nƣớc, bộ máy Chính phủ; 3) Những ngƣời có tổ chức, ban
giám đốc, ban lãnh đạo cơ quan xí nghiệp; 4) Ngƣời điều hành, ngƣời chịu
trách nhiệm chính tổ chức hoạt động một cơ quan xí nghiệp nào đó.
Theo gốc nghĩa Hán Việt thì “hành chính” có nghĩa là sự thi hành những
chính sách và pháp luật của chính phủ, tức là hoạt động quản lý hành chính nhà
nƣớc [45].
Ở nƣớc ta hiện nay có khá nhiều cách hiểu và giải thích khác nhau về
thuật ngữ này, tuỳ theo góc độ tiếp cận của từng nhà nghiên cứu. Có tác giả
cho rằng: Hành chính là những biện pháp tổ chức và điều hành của các tổ
chức, các nhóm, các đoàn thể hợp tác trong hoạt động của mình để đạt đƣợc
mục tiêu chung [22]. Một tác giả khác cho rằng: Hành chính ngày nay đƣợc
hiểu là hoạt động quản lý xã hội của nhà nƣớc, nó phải đƣợc xem xét trong
10
mối quan hệ Nhà nƣớc và hệ thống chính trị, tức là trong một thể chế xã hội
cụ thể [15].
Tuy có nhiều cách tiếp cận, nhƣng đặc điểm cơ bản của hành chính
xuất phát từ việc trong bất kỳ xã hội nào cũng cần có sự phân công lao động,
cần tới sự xác lập những tỉ lệ giữa các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Theo đó, hành chính theo nghĩa chung là quản lý công việc, là quản lý xã hội;
theo nghĩa riêng, hẹp hơn là công việc nhà nƣớc và tổ chức quản lý nhà nƣớc.
Về cơ bản, hành chính là tổng thể những hoạt động (thao tác) nhất định do
con ngƣời, chủ thể quản lý thực hiện đối với khách thể quản lý nhằm cải tạo
khách thể, bảo đảm cho nó vận động tới một mục tiêu đã định. Hành chính
chính là hoạt động quản lý của con ngƣời để tạo ra sự vận hành mang tính hệ
thống của xã hội [42].
1.2.1.2. Khái niệm thanh tra hành chính
Xuất phát từ góc độ quản lý của thuật ngữ hành chính và khía cạnh
“xem xét, đánh giá” của hoạt động thanh tra, thanh tra hành chính có thể đƣợc
hiểu theo cách chung nhất là xem xét, đánh giá việc thực hiện quản lý của các
cơ quan quản lý nhà nƣớc.
Khái niệm thanh tra hành chính đƣợc đề cập lần đầu tiên trong Luật
Thanh tra 2004. Theo đó, tại Khoản 2, Điều 4 của Luật Thanh tra 2004 đƣa ra
định nghĩa: “Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý
nhà nƣớc theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp”. Xét
về bản chất, nội dung của khái niệm này không khác nhiều so với với khái
niệm “thanh tra nhà nƣớc” trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990. Cần phải
nhắc lại rằng, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 đƣợc ban hành trên cơ sở của
Hiến pháp năm 1980, theo cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung cao độ. Khi
đó, Nhà nƣớc quản lý bằng các biện pháp mang nặng tính hành chính. Nhà
11
nƣớc là “cấp trên” của mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị, kể cả doanh nghiệp (khi
đó chủ yếu là doanh nghiệp nhà nƣớc). Hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng
đƣợc tiến hành trên cơ sở các kế hoạch mệnh lệnh hành chính. Mỗi đơn vị
kinh tế đƣợc coi nhƣ là một đơn vị cơ sở của cơ quan nhà nƣớc chủ quản. Vì
thế, mục đích, nội dung, phƣơng pháp tiến hành một cuộc thanh tra đối với cơ
quan nhà nƣớc cấp dƣới hay đối với một doanh nghiệp về cơ bản là giống
nhau. Có thể nói rằng, ở cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thì mọi hoạt động
thanh tra đều mang tính hành chính. Hay nói cách khác, đó là thanh tra của
cấp trên đối với cấp dƣới [19].
Việc chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung quan liêu sang cơ chế thị
trƣờng đã kéo theo một loạt những thay đổi. Đối tƣợng chịu sự thanh tra,
kiểm tra đa dạng hơn, phức tạp hơn với sự gia tăng về số lƣợng các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng nhƣ quá trình xã hội hoá nhiều lĩnh
vực. Nhà nƣớc không còn can thiệp trực tiếp, giữ vai trò chỉ huy thông qua
các mệnh lệnh hành chính mà quản lý xã hội thông qua các công cụ quản lý vĩ
mô, tạo cơ sở pháp lý cho mọi thành phần hoạt động và phát triển cũng nhƣ
thực hiện việc chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm soát là chủ yếu. Nhà nƣớc,
với một quan niệm và nhận thức mới thực hiện vai trò phục vụ xã hội với tính
chất là một tổ chức dịch vụ công. Nhà nƣớc có trách nhiệm tạo ra một hành
lang pháp lý cho các doanh nghiệp và cá nhân tự do phát triển. Nhà nƣớc có
quyền và có nhiệm vụ tạo ra một môi trƣờng pháp lý thuận lợi cho sự phát
triển, bảo đảm kỷ cƣơng, kỷ luật, công bằng. Bản thân các cơ quan nhà nƣớc
cũng phải hoạt động trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật. Rõ ràng, trong
cơ chế quản lý mới, phƣơng thức, cách thức, mục đích nội dung thanh tra đối
với các doanh nghiệp không thể mang tính hành chính giống nhƣ thanh tra đối
với các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong bộ máy nhà nƣớc mà cần phải có sự
thay đổi. Chính vì vậy, Luật Thanh tra 2010 ra đời đã đánh dấu một bƣớc phát
triển mới trong quan niệm về thanh tra hành chính, trong sự phân định giữa
12
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên nghành. Theo đó, nội dung của
thanh tra hành chính lúc này chủ yếu hƣớng vào kiểm tra, xem xét việc thực
hiện trách nhiệm quản lý của các cơ quan quản lý nhà nƣớc. Đồng thời, thông
qua các hoạt động thanh tra kinh tế - xã hội để làm rõ trách nhiệm trong thực
hiện, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, đơn vị, cá nhân và làm rõ các sai
phạm có liên quan.
Từ những phân tích trên, căn cứ theo Khoản 2, Điều 3 Luật Thanh tra
2010, Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao.
1.2.2. Đặc điểm của thanh tra hành chính
Hoạt động thanh tra hành chính có nhiều đặc điểm cơ bản phân biệt
với hoạt động thanh tra chuyên ngành và các loại hình kiểm tra, giám sát của
các cơ quan dân cử, cơ quan tƣ pháp và nhân dân, tuy nhiên nhìn ở góc độ
quản lý nhà nƣớc hoạt động này có những đặc điểm nổi bật nhƣ sau:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra hành chính là hoạt động do cơ quan
hành chính nhà nƣớc có thẩm quyền tiến hành, cơ quan trực tiếp đảm nhiệm
là các cơ quan thanh tra có thẩm quyền. Ở trung ƣơng là Thanh tra Chính phủ;
ở cấp tỉnh là Thanh tra tỉnh, ở cấp huyện là Thanh tra huyện, đồng thời các cơ
quan Thanh tra chuyên ngành cũng tiến hành hoạt động thanh tra hành chính
nhƣ: Thanh tra bộ, Thanh tra sở.
Thứ hai, đối tƣợng của thanh tra hành chính là các cơ quan, tổ chức,
cá nhân trực thuộc cơ quan quản lý nhà nƣớc cùng cấp, chẳng hạn nhƣ bộ, cơ
quan ngang bộ tiến hành hoạt động thanh tra đối với các cơ quan, tổ chức,
đơn vị chịu sự quản lý trực tiếp của bộ, cơ quan ngang bộ; Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng tiến hành thanh tra đối với các sở,
ngành, đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nƣớc do Uỷ ban nhân
dân tỉnh thành lập; Uỷ ban nhân dân huyện, thị xã tiến hành thanh tra đối với
13
- Xem thêm -