VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRỊNH VIẾT TOÀN
THẾ GIỚI THỰC VẬT TRONG CA DAO
CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số
: 62.22.01.25
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Nguyễn Viết Ngoạn
2. GS.TS. Nguyễn Xuân Kính
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, bản luận án tiến sĩ: Thế giới thực vật trong ca dao
cổ truyền người Việt.
Là do tôi viết và đảm bảo việc trích dẫn tài liệu đều có xuất xứ rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày 29/8/2016
Tác giả luận án
Trịnh Viết Toàn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..................................................................... 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 7
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài .................................................................. 13
1.3. Cơ sở lý thuyết của đề tài...................................................................................... 16
Chương 2: CÁC DẠNG THỨC THỂ HIỆN CỦA THẾ GIỚI THỰC VẬT
TRONG CA DAO ....................................................................................................... 33
2.1. Khảo sát phân loại .................................................................................................. 33
2.2. Biểu hiện của thực vật trong ca dao qua lối ứng xử của con người ....................... 42
2.3. Biểu hiện của thực vật qua một số biểu tượng trong ca dao cổ truyền .................. 67
Chương 3: SỰ BIỂU HIỆN CỦA THẾ GIỚI THỰC VẬT QUA CÁCH SỬ
DỤNG NGÔN NGỮ VÀ THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO ........... 94
3.1. Cách sử dụng ngôn ngữ thể hiện thế giới thực vật trong ca dao cổ truyền người
Việt ................................................................................................................................ 94
3.2. Sử dụng thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ và thủ pháp nghệ thuật so sánh ..................... 109
Chương 4: KẾT CẤU, KHÔNG GIAN - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT VÀ
THẾ GIỚI THỰC VẬT TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT........... 124
4.1. Kết cấu ca dao có chứa thành tố là thế giới thực vật ............................................. 124
4.2. Không gian và thời gian nghệ thuật có chứa thế giới thực vật .............................. 135
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC .................................................... 155
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 156
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ thuở sơ khai, con người đã biết dựa vào thiên nhiên để duy trì sự sống.
Trong tiến trình lịch sử ấy, thực vật đóng vai trò rất quan trọng. Đó là cơm ăn, áo mặc,
là những ngôi nhà che mưa nắng hay rất nhiều những vật dụng khác. Ngay cả thực
phẩm, thuốc chữa bệnh ngày nay, con người lại tìm về với các thảo dược thiên nhên
nhằm hỗ trợ sức sống, kéo dài tuổi thọ, tăng vẻ đẹp bản thân. Còn các vật dụng trong
gia đình cũng tìm về với những sản phẩm thủ công mỹ nghệ được làm từ những
nguyên liệu là cỏ cây, hoa lá.
Việt Nam là quốc gia có khí hậu nhiệt đới gió mùa, do vậy thực vật hết sức
phong phú về chủng loại, khi đánh giá về vấn đề này, tác giả Trần Ngọc Thêm cho
rằng: “Sử dụng thực vật phục vụ cho đời sống con người chính là một nội dung quan
trọng bậc nhất của văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên của người dân Việt Nam
và Ðông Nam Á” [143]. Không chỉ xuất hiện và có vai trò quan trọng trong đời sống
vật chất, các loại thực vật từ những đối tượng tự nhiên cụ thể đã đi vào trong đời sống
văn hóa của người Việt một cách hết sức tự nhiên, phong phú và trở thành đối tượng
nhận thức thẩm mĩ, làm chất liệu biểu hiện quan trọng trong các loại hình văn hóa, đặc
biệt là văn hóa dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, trong mỗi loại hình văn hóa, mỗi thể
loại nhất định, giá trị thẩm mĩ của thế giới thực vật không hoàn toàn đồng nhất mà
luôn có những biến thái đa dạng. Về loại hình văn học dân gian, thế giới thực vật đã
được biểu hiện rất phong phú ở tất cả các mảng, nhằm phản ánh các đặc thù tâm lí, văn
hóa, xã hội của người Việt trong quan hệ với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
Ca dao là bộ phận quan trọng trong kho tàng văn học dân gian nói riêng và văn
hóa của dân tộc nói chung. Ca dao không chỉ phản ánh những tâm tư tình cảm của
người Việt xưa mà còn là bức tranh sinh động phản ánh nhiều mặt của đời sống, mang
đậm bản sắc Việt Nam. Từ hình ảnh cây đa, bến nước, cánh đồng làng quê thân thuộc
cho đến các quan hệ xã hội phức tạp; những truyền thống quý báu của dân tộc đều
1
được người Việt phản ánh qua ca dao một cách hết sức sinh động. Có thể nói, ca dao là
kết tinh của những nét đẹp văn hóa, của tinh thần và tính cách người Việt.
Thông qua các hình ảnh, biểu tượng thực vật thể hiện trong ca dao, cần tìm hiểu
và đánh giá sâu về các đặc điểm tâm lý, văn hóa của người Việt trong mối quan hệ ứng
xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Đây cũng là điều kiện tốt giúp chúng
ta có dịp tìm hiểu thêm về mối liên hệ giữa ca dao với các thể loại văn học khác.
Đã có nhiều công trình đề cập đến một số đặc điểm, giá trị văn hóa, giá trị thẩm
mĩ của một số loài thực vật trong các loại hình văn hóa nghệ thuật và trong ca dao
nhưng chưa một công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách tổng thể các đặc trưng
của toàn bộ thế giới thực vật trong một phạm vi thể loại văn hóa, văn học. Chính vì
thế, việc nghiên cứu những đặc điểm biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của thế giới thực vật
trong ca dao cổ truyền người Việt sẽ đem lại một cách nhìn có hệ thống, toàn diện về
một thực thể vật chất – tinh thần quan trọng, luôn đồng hành với con người trong suốt
tiến trình của lịch sử tiến hóa, nhận thức.
Xuất phát từ những lí do trên, việc lựa chọn đề tài: “Thế giới thực vật trong ca dao
cổ truyền người Việt” làm đề tài nghiên cứu của luận án là một việc cần thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Thế giới thực vật trong ca dao cổ truyền người Việt, luận án
xác định các mục đích sau:
Miêu tả các hình thức biểu hiện của thế giới thực vật trong ca dao cổ truyền
người Việt, qua đó hệ thống hóa các dạng thức tồn tại về mặt ngữ nghĩa của thế giới
thực vật; chỉ ra các biện pháp nghệ thuật hệ thống các kết cấu trong các bài ca dao có
hình tượng thực vật.
Thông qua thế giới thực vật trong ca dao, thấy được cách ứng xử văn hóa của
người Việt với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội; Bước đầu chỉ ra các đặc
trưng trong lối sống, ứng xử văn hóa cũng như các hoạt động canh tác, phong tục tập
quán của người Việt.
2
Thấy được các giá trị biểu trưng của thực vật; sự sáng tạo trong việc sử dụng
thực vật với tư cách là những phương tiện nghệ thuật ở thể ca dao.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ cơ
bản sau:
Khảo sát toàn bộ kho tàng ca dao cổ truyền người Việt, cụ thể là thông qua
tuyển tập Kho tàng ca dao người Việt (Nxb Văn hóa thông tin, 2001) do các soạn giả
Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật chủ biên, xây dựng các tiêu chí phân loại để
phân loại các dạng thức tồn tại của thế giới thực vật, qua đó thấy được tần số xuất hiện
của thực vật trong ca dao.
Lý giải các dạng thức tồn tại cũng như các biến thể thực vật trong ca dao từ
những cơ sở văn hóa, văn học.
Bước đầu so sánh và thấy được những tương đồng và dị biệt của thế giới thực
vật qua ca dao ba miền.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án chọn thực vật và những biểu hiện của nó trong ca dao cổ truyền làm
đối tượng nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Ca dao người Việt rất phong phú, do vậy cho đến nay đã có hàng trăm công
trình và soạn giả sưu tầm, biên soạn, xuất bản về ca dao. Tuy vậy, công trình Kho tàng
ca dao người Việt, Nxb Văn hóa thông tin, 2001, do các soạn giả Nguyễn Xuân Kính
và Phan Đăng Nhật biên soạn được giới nghiên cứu đánh giá là công trình quy mô
nhất về ca dao tính cho đến thời điểm hiện tại. Luận án chọn công trình này làm phạm
vi nghiên cứu.
Ngoài ra, trong quá trình triển khai, chúng tôi cũng sẽ khảo sát các công trình
mang tính địa phương, vùng miền khác nhằm có được cái nhìn so sánh, đối chiếu.
3
4. Phương pháp và thao tác nghiên cứu
4.1. Sử dụng nhiều phương pháp theo hướng nghiên cứu, tiếp cận liên ngành
Luận án sử dụng hướng tiếp cận này với mục đích nhìn nhận đối tượng trong
mối liên hệ giữa văn học dân gian với văn hóa dân gian, lịch sử, dân tộc học nhằm
xem xét đối tượng một cách đa chiều, trên nhiều phương diện khác nhau. Cụ thể là các
phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu văn bản văn học dân gian;
- Phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian;
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử;
- Phương pháp nghiên cứu dân tộc học.
Trong đó phương pháp nghiên cứu văn học dân gian, văn hóa dân gian là trọng
tâm. Ngoài ra, luận án cũng vận dụng thêm phương pháp nhân học văn hóa trong quá
trình nghiên cứu thực vật trong ca dao.
4.2. Thao tác khảo sát, thống kê
Đây là các thao tác được sử dụng trong quá trình thống kê các bài ca dao có chứa
hình tượng thực vật và các nguồn tài liệu có liên quan khác.
4.3. Thao tác so sánh, phân tích, tổng hợp
Luận án sử dụng các thao tác này nhằm đối chiếu, so sánh một số bài ca dao
của các vùng miền; tiến hành mổ xẻ đối tượng để làm rõ vấn đề, sau đó tổng hợp, lý
giải trên cơ sở kết quả của so sánh phân tích.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Nghiên cứu đề tài thế giới thực vật trong ca dao cổ truyền người Việt, luận án
dự kiến đóng góp những vấn đề sau:
Thứ nhất, trên cơ sở hệ thống hóa các công trình nghiên cứu về ca dao, luận án
đã có một cái nhìn bao quát, đánh giá về tình hình tư liệu cũng như các nghiên cứu liên
quan đến thế giới thực vật trong ca dao.
4
Thứ hai, luận án khảo sát và chỉ ra được những dạng thức tồn tại của thế giới
thực vật trong ca dao cổ truyền, khẳng định sự phong phú, gắn bó của thực vật từ trong
đời sống tự nhiên đối với đời sống con người và kiến giải việc thực vật đã đi vào đời
sống văn hoá, tâm thức của người Việt: thực vật từ tự nhiên đến văn hóa.
Thứ ba, nghiên cứu về thực vật trong ca dao, luận án đã làm rõ: thông qua thế
giới thực vật, người Việt đã thể hiện những lối ứng xử đậm chất cảm hứng từ thực vật.
Đây là cách kiến giải mới, có tính đóng góp của luận án.
Thứ tư, nghệ thuật biểu hiện trong da dao được tác giả dân gian lấy từ nhiều
cảm hứng khác nhau, trong đó, thực vật là một chất liệu quan trọng. Luận án phân tích,
kiến giải và chỉ ra được các giá trị nghệ thuật đặc sắc của ca dao từ nguồn cảm hứng
và chất liệu này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án khẳng định nghiên cứu văn học dân gian nói chung
và nghiên cứu thơ ca trữ tình dân gian nói riêng cần nghiên cứu theo hướng liên
ngành, trong đó nghiên cứu văn hóa văn học là hướng nghiên cứu phù hợp; Khẳng
định thêm mối quan hệ giữa văn hóa và văn học được thể hiện qua ca dao dân ca; Làm
sáng tỏ tính đặc trưng trong phương thức biểu hiện cũng như các giá trị nghệ thuật của
ca dao người Việt; Ca dao người Việt gắn bó chặt chẽ với văn hóa dân tộc, kết tinh của
văn hóa người Việt.
- Về mặt thực tiễn: Luận án góp thêm một tiếng nói vào bức tranh nghiên cứu
văn học dân gian Việt Nam nói chung; Bước đầu thể hiện được hướng tiếp cận sinh
thái qua việc chỉ ra cách ứng xử với môi trường tự nhiên là thực vật trong ca dao;
Công trình là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ học tập và nghiên cứu cho sinh viên và
học viên sau đại học.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình nghiên cứu của tác giả có
liên quan đến đề tài luận án, Tài liệu tham khảo, nội dung chính được triển khai trên 4
chương:
5
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Chương 2: CÁC DẠNG THỨC THỂ HIỆN CỦA THẾ GIỚI THỰC VẬT VÀ
LỐI ỨNG XỬ CỦA CON NGƯỜI VỚI THỰC VẬT TRONG CA DAO
Chương 3: SỰ BIỂU HIỆN CỦA THẾ GIỚI THỰC VẬT QUA CÁCH SỬ
DỤNG NGÔN NGỮ VÀ THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG CA DAO
Chương 4: KẾT CẤU, KHÔNG GIAN - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT VÀ
THẾ GIỚI THỰC VẬT TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN NGƯỜI VIỆT
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, ca dao dân ca có một vị trí rất quan
trọng trong đời sống của người dân Việt, do vậy mà việc sưu tầm và nghiên cứu về thể
loại trữ tình dân gian này đã sớm được giới nghiên cứu quan tâm. Sau đây là tổng quan
về tình hình tư liệu nghiên cứu của những người đi trước liên quan đến đề tài luận án.
Luận án Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mỹ - không gian trong ca
dao (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1, 1995) của Trương Thị Nhàn cho rằng: Đặc
tính của ca dao là mang tính khái quát cao, thể hiện rõ cách miêu tả. Ca dao không đi
sâu vào miêu tả nhằm tái hiện hiện thực mà tập trung cho mục đích biểu trưng. Để
miêu tả, chỉ cần sử dụng một số yếu tố có tính khuôn mẫu nhất định. Luận án khẳng
định: Ngôn ngữ ca dao gần với ngôn ngữ tục ngữ ở tính khái quát và gần với ngôn ngữ
thơ ở tính cảm xúc, dù là cảm xúc khái quát hóa, không phải là cá thể, riêng biệt như
thơ. Tính khái quát đi liền với tính cảm xúc làm nên đặc trưng riêng của ca dao so với
tục ngữ và thơ. Ca dao là sáng tác của quần chúng vừa dễ đọc dễ nhớ, vừa có khả năng
tồn tại lâu dài với lịch sử dân tộc, có khả năng đi vào lòng người ở mọi lúc mọi nơi.
Điều đó liên quan một phần lớn bởi đặc tính khái quát của ngôn ngữ ca dao [111; 152].
Bài viết Ý nghĩa biểu trưng của hình tượng thiên nhiên trong ca dao Nam Bộ
(1999) của Trần Văn Nam cho rằng: Biểu trưng trong ca dao là lấy một sự vật, hiện
tượng này để biểu hiện có tính chất tượng trưng một cái khác, thường mang tính trừu
tượng. Biểu trưng chính là yếu tố trong thi pháp ca dao, một yếu tố hình thức mang
tính nội dung sâu sắc. Bên cạnh vai trò nhất định của nó trong việc thể hiện nội dung
bài ca dao, hệ thống các biểu trưng còn gắn với đặc điểm văn hóa dân tộc địa phương
[87].
Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Điệp trong Luận án Biểu tượng nghệ thuật trong ca
dao truyền thống người Việt (Trường ĐHSP TP.HCM, 2002) khi khảo sát về hệ thống
biểu tượng tồn tại trong ca dao người Việt đã đề cập đến một nhóm biểu tượng thực
7
vật. Tác giả viết: “Thực vật trở thành biểu tượng trong ca dao có khi ở dưới dạng
chung của từng loại lớn: cây, kiểng, hoa, trái…; có khi ở dưới dạng cụ thể của từng
loài vật: về cây quế, trúc, mai, đào, liễu, đa, ngô đồng, trầu, cau, về hoa có lan, bưởi,
nhài, huệ, sen, hồng….; về trái có mận, đào, lê, lựu, hồng ngâm, chanh, khế, cam
sành…. ” [29; 118]. Từ việc nhận định này, tác giả tiến hành phân tích các phạm trù
biểu tượng của thực vật trong ca dao như: Phạm trù tính chất-trạng thái; phạm trù
hương vị; phạm trù màu sắc; phạm trù đặc điểm môi trường sinh trưởng. Luận án khái
quát: “Các biểu tượng cây, kiểng, hoa, trái thực sự đã làm nên một khuôn mặt rất riêng
cho ca dao với số lượng phạm trù phong phú. Dân gian đã phát hiện nhiều nét tương
đồng tinh tế giữa thế giới cỏ cây và thế giới con người nhờ vào sự quan sát trực tiếp và
thường xuyên trong đời sống hàng ngày” [29; 123]. Những khảo sát và nhận định trên
của Nguyễn Thị Ngọc Điệp là một gợi ý rất quan trọng cho chúng tôi trong quá trình
khai thác các giá trị biểu đạt nghệ thuật của thực vật trong ca dao người Việt.
Luận án Sự chuyển đổi thi pháp từ ca dao cổ truyền đến ca dao hiện đại của
Nguyễn Hằng Phương, Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Hà Nội, 2004 đã
đi sâu tìm hiểu về thi pháp, thi pháp học, thi pháp văn học dân gian. Tác giả đã nghiên
cứu về sự chuyển đổi đề tài, chuyển đổi về cảm hứng chủ đạo, chuyển đổi về nhân vật
trử tình và chuyển đổi về ngôn ngữ từ ca dao cổ truyền đến ca dao hiện đại. Luận án đã
có đóng góp mới trên cả 2 phương diện lý luận và thực tiễn, đặc biệt đã chú trọng tới
yếu tố thi pháp diễn xướng trong ca dao, tác giả cho rằng nếu không khai thác được
phương thức diễn xướng, câu ca dao sẽ có thể thiếu đi cái phần hồn và trở thành một
loại tác phẩm văn bản hóa [125].
Dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hóa, tác giả Hoàng Thị Kim Ngọc đã khảo sát
các kiểu So sánh và ẩn dụ trong ca dao trữ tình của người Việt (Viện Ngôn Ngữ học,
2004) [95]. Mặc dù không trực tiếp đề cập đến thực vật như một đối tượng nghiên cứu,
song qua việc khảo sát phép so sánh (chương 2) và phép ẩn dụ (chương 3), luận án đã
đề cập đến nhiều bài cao dao mà thực vật là đối tượng của phép so sánh, ẩn dụ. Đặc
biệt, trong chương 4, Trầm tích văn hóa qua so sánh, ẩn dụ trong ca dao trữ tình
người Việt, tác giả đã có những phân tích hết sức thú vị và thuyết phục về vấn đề mối
8
quan hệ văn hóa, môi trường qua ca dao. Đây sẽ là những gợi ý cho chúng tôi khi khai
thác các bài ca dao dưới góc nhìn văn học – văn hóa.
Luận án Tri thức dân gian về ứng xử với môi trường tự nhiên trong đời sống vật
chất người Việt vùng U Minh Thượng. (Viện Nghiên cứu văn hóa, 2009) của Nguyễn
Diệp Mai đã làm nổi bật được nét đặc thù trong lối ăn, ở, mặc và đi lại thích ứng với
môi trường tự nhiên rừng U Minh Thượng của cư dân bản xứ. Tác giả đã mô tả, phân
tích kỹ lưỡng những kinh nghiệm khai thác động vật, thực vật theo loài, theo mùa và
cách thức chế biến các sản phẩm đó thành thực phẩm phục vụ đời sống hàng ngày của
người là bản địa [85].
Bài viết Một số biểu tượng trong ca dao, tác giả Nguyễn Xuân Kính đề cập đến
cây trúc, cây mai, hoa nhài của thế giới thực vật và con bống, mèo của thế giới động
vật. Tác giả khẳng định: “Trong ca dao, dân ca, “trúc”, “mai” thường được dùng với ý
nghĩa tượng trưng cho đôi bạn trẻ, cho tình duyên” [67; 83], và “hoa nhài trong ca dao
là một thứ hoa đẹp, hoa quý. Qua các ý nghĩa của hoa nhài, chúng ta thấy rõ quan niệm
thẩm mĩ, đồng thời cũng là quan niệm đạo đức của quần chúng cần lao. Họ ca ngợi
những gì là thủy chung, tình nghĩa, thích cái đẹp, cái duyên bên trong hơn là những gì
ồn ào chốc lát, phô trương bên ngoài” [67; 86]. Về vấn đề này, Tạ Đức Hiền cũng có
bài viết Chẳng thơm cũng thể hoa nhài đã đề cập tới việc tác giả dân gian đã dùng biện
pháp ước lượng so sánh và khẳng định để nói về đặc trưng riêng của hoa nhài rất thơm
và người Tràng An có phong cách sống thanh lịch. Phan Thị Thanh Nhàn – Hoa bưởi
trong ca dao [112] đề cập sự tinh khiết, trong sạch, ngát hương thơm của hoa bưởi gắn
bó rất nhiều với con người, nhất là trong tình yêu đôi lứa: “Tâm hồn Việt Nam trong
sạch thơm tho như hoa bưởi để có thể đưa hoa ấy vào rất nhiều trong ca dao: “Hoa
nhài hoa sói hoa ngâu/ Không bằng hoa bưởi thơm lâu dịu dàng”(Ca dao Việt Nam).
Tác giả Nguyễn Thị Hiền trong Biểu tượng của hoa trong ca dao cho rằng văn
học Việt Nam từ xưa đến nay sử dụng rất nhiều biểu tượng, đặc biệt trong ca dao thì
hoa là hình ảnh biểu tượng điển hình. Trong bài viết, tác giả đã đề cập đến rất nhiều
biểu tượng các loài hoa trong cao dao như: hoa nhài, hoa bưởi, hoa lí, hoa sen, hoa
đào, hoa mận… mỗi hoa có một hương sắc riêng, đặc trưng cho một tính cách riêng
của con người. Nguyễn Phương Châm cũng có bài viết Biểu tượng cây đa, tác giả cho
9
biết khi thống kê bộ Kho tàng ca dao người Việt của Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng
Nhật, 1995 (chủ biên), Nxb VHTT, Hà Nội “cây đa xuất hiện trong 58 lời ca dao với 3
phạm trù ý nghĩa: gợi hứng bắt vần, biểu vật và biểu tượng” [172]. Ngoài ra còn có
nhiều bài viết khác cũng nói về hình tượng, biểu tượng các loài hoa như: Hình tượng
hoa sen trong văn hóa Việt Nam của Thanh Nguyên [165]; Biểu trượng hoa hồng
trong ca dao (2001) [13] của Nguyễn Thị Phương Châm; Hàm ý biểu trưng của từ chỉ
hoa và tên hoa trong ca dao (2002), [54] của Hà Thị Quế Hương…
Các công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn có liên quan nhiều đến Luận án Thế
giới thực vật trong ca dao cổ truyền người Việt, có Luận án Thiên nhiên trong ca dao
trữ tình Nam Bộ của Trần Thị Diễm Thúy, ĐHQG TP.HCM, (2002) [140] đã khảo sát
khá chi tiết hệ thống hình tượng thiên nhiên trong ca dao dân ca Nam Bộ, nêu lên tính
chất phong phú, đa dạng và sự xuất hiện không đồng đều ở các hệ thống đề tài. Tác giả
luận án đã đặt thiên nhiên trong quan hệ với các đề tài cơ bản của ca dao như: đề tài
phong cảnh, đề tài lao động sản xuất, đề tài tình yêu nam nữ, hôn nhân gia đình và
cuối cùng, phân tích thiên nhiên trong thế giới nghệ thuật của ca dao Nam Bộ, nêu bật
vai trò của thiên nhiên trong các hình tượng so sánh, ẩn dụ, biểu tượng, thiên nhiên và
không gian, thời gian nghệ thuật, thiên nhiên và ngôn ngữ, kết cấu trong ca dao Nam
Bộ. Đây là luận án chứa đựng nhiều tư liệu phong phú về thiên nhiên trong ca dao
vùng đất mới, vùng đất phía Nam của nước ta là nguồn tư liệu bổ ích cho luận án của
chúng tôi.
Tác giả Trần Thị Kim Liên nghiên cứu về Tính thống nhất và sắc thái riêng
trong ca dao người Việt ở ba miền Bắc – Trung – Nam (Luận án TS Ngữ văn, ĐH
KHXH&NV HN, 2005), trong mục Tính thống nhất và sắc thái riêng trong ca dao
người Việt ở ba miền qua các nội dung phản ánh đã có những kiến giải khá thú vị về
việc phản ánh các sản vật của ba miền. Tác giả viết: “Người dân Hà Tây yêu mến, tự
hào về thắng cảnh chùa Hương nổi tiếng với Nam thiên đệ nhất động nhộn nhịp tưng
bừng vào ngày trẩy hội đầu xuân: “Ai đi trẩy hội chùa Hương/ Làm ơn gặp khách thập
phương hỏi dùm/ Mớ rau sắng, quả mơ non/ Mơ chua sắng ngọt biết còn thương
chăng? (Ca dao Việt Nam). Sản vật “rau sắng”, “mơ non” làm nên một nét riêng biệt,
sâu đậm của quê hương để nhớ, để thương mãi với người xa quê. Hương vị của món
10
ăn dân dã đã gợi nhớ trong họ hình ảnh quê hương gần gũi, thân thương. Tình cảm của
người nông dân gắn bó với những gì bình dị, chất phác nhất” [76; 49]. Trong khi đó, ở
miền Nam, cách thể hiện niềm tự hào về sản vật của họ cũng hết sức thú vị: “Rau đắng
nấu với cá trê/ Ai đến lục tỉnh thì mê không về”. Luận án khái quát: “Nhìn chung, ở
mảng nội dung này, ca dao ba miền có sự thống nhất cao độ bởi một nét tâm lí mang
tính phổ biến là người dân nơi đâu cũng luôn tự hào, yêu mến và gắn bó với mảnh đất
quê hương mình. Nhưng cũng chính trong sự thống nhất về nội dung đó mà sắc thái
riêng, nét đặc trưng riêng của từng vùng cũng được thể hiện. Bởi lẽ, người ta thường
“khoe” những đặc sản, những danh thắng độc đáo, những tên riêng lâu đời của địa
phương mình mà nơi khác không thể có được” [76; 52]. Như vậy, thực vật với tư cách
là những sản vật địa phương một lần nữa được nhắc đến trong ca dao và đây cũng là
một trong những cách thức xác định tính vùng miền mà luận án đề cập. Ngoài ra, một
điểm rất đáng lưu ý nữa là tác giả đã đề cập đến tính thống nhất trong môi trường văn
hóa của ca dao. Đây là những vấn đề mà luận án của chúng tôi sẽ hết sức lưu ý trong
quá trình tìm hiểu về thế giới thực vật trong ca dao ở ba miền.
Với luận án Thiên nhiên trong ca dao trữ tình đồng bằng Bắc Bộ, (Viện Nghiên
cứu Văn hóa dân gian, 2006) tác giả Đặng Thị Diệu Trang đã khảo sát một cách khá
công phu về các chủ đề của ca dao Bắc Bộ như: Chủ đề đất nước, con người; Chủ đề
sinh hoạt lao động sản xuất; Chủ đề chống phong kiến thực dân; Chủ đề tình yêu nam
nữ. Trong đó, thiên nhiên nói chung và thực vật nói riêng được tác giả phân tích với tư
cách là một đối tượng biểu đạt cho những tư tưởng ngợi ca, phản ánh của mỗi chủ đề
đó. Bên cạnh những cảnh, vật, các địa danh thì thực vật với tư cách là các sản vật địa
phương cũng được nhắc đến như những đơn vị giàu tính biểu đạt. Luận án viết:
“những hình ảnh như: ngọn đa, cây cau, ngọn cỏ, quả cà... là sản phẩm thiên nhiên gần
gũi với cuộc sống người nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Song ở đây nó không đơn thuần
tồn tại như một dạng vật chất vốn có mà trở thành những yếu tố được vận dụng mềm
mại và uyển chuyển, thể hiện ý thức của con người trong sự cân bằng giữa thế giới tự
nhiên và môi trường xã hội, cũng như thế ứng xử của con người trước những tác động
của môi trường xung quanh” [151; 77]. Đặc biệt, trong chương 3, tác giả luận án qua
những phân tích và dẫn chứng cụ thể đã khẳng đinh: Thiên nhiên là yếu tố để tạo nên
11
thế giới nghệ thuật trong ca dao Bắc Bộ qua các mục: Thiên nhiên với nghệ thuật so
sánh, ẩn dụ - biểu tượng, với ngôn ngữ - kết cấu…. Nhìn chung, công trình này nghiên
cứu về thiên nhiên, tức là bao gồm toàn bộ thế giới tự nhiên cảnh và vật (sự vật, con
vật). Trong cảnh thì cũng bao gồm cả các hiện tượng như trăng sao, sông, núi… Mặc
dù đối tượng nghiên cứu của đề tài này rộng hơn, song tác giả cũng đã đề cập đến một
phần thiên nhiên với tư cách là thực vật trong ca dao.
Luận án Thế giới động vật trong ca dao cổ truyền người Việt (Trường ĐHSP
Hà Nội, 2010) của Đỗ Thị Hòa đã miêu tả, khảo sát đặc điểm của hình thức biểu hiện,
cách ứng xử với môi trường xã hội và tự nhiên, giá trị biểu trưng của thế giới động vật
trong ca dao, tác giả rút ra: “Hình ảnh của các loài động vật được phản ánh vào ca dao
là một cách thức quan trọng để người Việt tự ý thức, khám phá và biểu hiện chính
mình trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. Thế giới muôn màu muôn vẻ của các
loài vật, không chỉ là các hình thái hiện hữu sinh động và đa dạng của tự nhiên mà còn
là tính đa diện, đa chiều, phức tạp của thế giới nhân sinh” [51; 4]. Luận án đi sâu
nghiên cứu tìm hiểu về giá trị biểu trưng, các hình thức biểu hiện và cách ứng xử môi
trường tự nhiên, xã hội của thế giới động vật trong ca dao cổ truyền người Việt, đây
chính là nguồn tư liệu đáng quý cho người đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu mảng còn lại
của thiên nhiên, đó là thế giới thực vật trong ca dao.
Luận án Thiên nhiên với văn hóa vùng trong ca dao trữ tình Trung bộ, Viện Văn
học, (2012) [89], tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân lại nhấn mạnh đến vai trò của thiên
nhiên trong tâm thức người miền Trung. Ở đó, thực vật cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc thể hiện bản sắc văn hóa vùng miền. Tác giả khẳng định nghiên cứu thiên
nhiên trong ca dao không chỉ tạo cơ hội để khám phá nội dung tinh thần và tình cảm
con người được thể hiện trong đó, mà còn tạo thêm cơ hội để hiểu thêm tư duy nghệ
thuật và thi pháp ca dao qua việc xem xét cách cảnh vật thiên nhiên bước vào ca dao
như thế nào, cách thiên nhiên trở thành nguồn nguyên liệu để xây dựng hình tượng
trong ca dao ra sao. Luận án đã có sự khảo sát nghiêm túc và có cơ sở khoa học, là
nguồn tư liệu có ích đối với người nghiên cứu văn học dân gian nói riêng và sáng tác
dân gian nói chung. Cùng với những cuốn sách và nhiều công trình nghiên cứu dành
cho đề tài thiên nhiên trong ca dao Bắc Bộ và ca dao Nam Bộ, Luận án Thiên nhiên với
12
văn hóa vùng trong ca dao trữ tình Trung Bộ đã có sự đóng góp vào việc nghiên cứu
thiên nhiên trong ca dao người Việt ở cả ba vùng miền, đồng thời góp phần làm rõ hơn
những nét riêng của vùng văn hóa miền Trung, dù chỉ là dưới góc độ của sáng tác trữ
tình dân gian. Đây cũng là vấn đề đang thu hút sự quan tâm không chỉ của những nhà
làm phân vùng văn hóa mà cả những người làm văn hóa dân gian ở nước ta.
Bên cạnh nhiều tác giả đề cập đến thực vật trong ca dao còn có tác giả nghiên cứu
về thực vật trong nghệ thuật khác. Chẳng hạn, Triệu Thế Hùng với Luận án Hình tượng
thực vật trong nghệ thuật tạo hình truyền thống của người Việt (Viện Văn hóa Nghệ
thuật Việt Nam, 2009) nêu lên các khái niệm về hình tượng, biểu tượng thực vật. Tác
giả cho rằng “Thực vật là loại hình sinh vật có cấu trúc cơ thể đã nhân hóa thành thân,
rễ, quả, hoa, lá... Bộ phận lá dùng để quang hợp với ánh sáng mặt trời tạo ra sự trao
đổi chất” [53;23]. Luận án đã nêu bật được giá trị của “thế giới thực vật” trong đời
sống văn hóa Việt Nam, nêu ra bài học về giá trị truyền thống của hình tượng thực vật
trong nền mỹ thuật cũng như các ngành nghệ thuật khác, đây cũng là một trong những
cơ sở để chúng tôi tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu trong luận án sắp tới.
Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận án
sẽ tập trung làm nổi bật hình ảnh và giá trị của thế giới thực vật trong ca dao cổ truyền
người Việt.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Khái niệm thực vật và “thế giới thực vật trong ca dao”
Theo từ điển bách khoa vi.wikipedia.org, thực vật là những sinh vật có khả
năng tạo cho mình chất dinh dưỡng từ những hợp chất vô cơ đơn giản và xây dựng
thành những phần tử phức tạp nhờ quá trình quang hợp, diễn ra trong lục lạp của thực
vật. Aristotle phân chia sinh vật ra thành thực vật, nói chung là không di chuyển được,
và động vật [175]. Như vậy, khái niệm thực vật và sinh vật không trùng nhau. Nói
chính xác hơn, thực vật có dấu hiệu đặc trưng là không có khả năng chuyển động và có
khẳ năng tự dưỡng, có diệp lục (diệp lục có ở tất cả các loài thực vật chứ không có ở
động vật) bao gồm các loại như cây gỗ, cây hoa, cây cỏ, dương xỉ hay rêu.
13
Có thể hiểu, thế giới thực vật là tất cả những thực vật với những đặc điểm khu
biệt nêu trên. Qua khảo sát bước đầu chúng tôi nhận thấy, trong ca dao thế giới thực
vật rất phong phú. Tất nhiên, thực vật khi đi vào trong ca dao không hề ngẫu nhiên và
vô lý mà nó phải có dụng ý phản ánh hoặc thể hiện một tâm tư, tình cảm hay phương
diện đời sống nào đó của con người. Đây là quá trình chuyển hóa từ những hình ảnh
vật chất cụ thể của thực vật sang một dạng hình ảnh biểu trưng, biểu tượng mang tính
tinh thần. Trong quá trình triển khai, luận án sẽ khai thác cả hai mặt này.
1.2.2. Các khái niệm: hình ảnh, hình tượng, biểu tượng, biến thể, biểu trưng
Theo Từ điển Tiếng Việt, Hình ảnh có hai nghĩa: (1) “Hình người, vật, cảnh
tượng thu được bằng khí quang học (như máy ảnh), hoặc để lại ấn tượng nhất định và
tái hiện được trong trí. (2) “Khả năng gợi tả sinh động trong cách diễn đạt” [121 (sđd);
tr.425]. Trong khi đó, Hình tượng “là sự phản ánh hiện thực một cách khách quan
bằng nghệ thuật dưới hình thức những hình tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận
thức trực tiếp bằng cảm tính [121 (sđd); tr.425].
Còn Biểu tượng (Symbole) cũng có hai nghĩa như sau: (1) “Hình ảnh tượng
trưng. Chim bồ câu là biểu tượng hòa bình”. (2) “Hình thức của nhận thức, cao hơn
cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự
vật vào trong giác quan đã chấm dứt” [121 (sđd); tr.67-68]. Theo Jean Chevalier thì
“từ biểu tượng được dùng với những biến đổi đáng kể về ý nghĩa” và đôi khi mang
tính cá nhân [57; XV]. Ban đầu, biểu tượng là một vật được cắt làm đôi, bẻ làm hai,
hai người (anh và em, vợ và chồng, chàng trai và cô gái, hai người bạn sắp sửa có cuộc
phân li…) mỗi bên giữ một nửa. Sau này nhờ ráp hai mảnh, hai nửa của vật đó lại với
nhau mà họ có thể nhận ra nhau để có thể nối lại mối thân tình ngày nào, tình bạn ngày
xưa. Dần dần về sau từ biểu tượng được mở rộng nghĩa để “chỉ mọi dấu hiệu tập hợp,
các điềm triệu hay quy ước. Biểu tượng chia ra và kết lại với nhau, nó chứa đựng hai ý
tưởng phân ly và tái hợp; nó gợi lên ý một cộng đồng đã bị chia tách và có thể tái hình
thành. Mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tượng bộc
lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ, vừa là nối kết những phần của nó bị vỡ ra” [57; XXIII].
14
Một trong những dấu hiệu đặc trưng của biểu tượng là tính “hai mặt”. Tính chất
đặc biệt giữa hai vế, hai nửa tham dự vào sự hình thành biểu tượng đã được Pierre
manuel chỉ ra như sau: “Biểu tượng định hình thành một vế rõ ràng có thể nắm bắt
được, gắn liền với vế khác không nắm bắt được” [57; XXIV]. Một đặc trưng khác của
biểu tượng là mang tính ký hiệu. Nhưng không giống với các ký hiệu thông thường,
biểu tượng mang tính ký hiệu thẩm mỹ, nó “rộng lớn hơn cái ý nghĩa được gán cho nó
một cách nhân tạo”… “hiệu lực của nó vượt ra ngoài ý nghĩa... Nó đầy gợi cảm và
năng động, nó không chỉ vừa biểu hiện theo một cách nào đó vừa tháo dỡ ra”…, “cái
được biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt” [57; XXVII].
Như vậy, giữa hình ảnh, hình tượng và biểu tượng có mối quan hệ khá gần gũi
với nhau. Tuy nhiên, so với hình ảnh, thì hình tượng có nghĩa rộng hơn và mang tính
nghệ thuật. Còn đối với biểu tượng thì hình ảnh là vật môi giới. Hiểu một cách đơn
giản, trong quá trình nhận thức thế giới, con người cố gắng tri giác một sự vật hiện
tượng nào đó nhưng không thể tri giác được nên phải thông qua một vật môi giới, cái
đó là biểu tượng. Nói cách khác, biểu tượng là những hình ảnh, sự vật hiện tượng của
đời sống trải qua một quá trình, được tích đọng những ý nghĩa mà cộng đồng, dân tộc
hay giai cấp chấp nhận. Những hình ảnh, sự vật hiện tượng đó phải luôn có một ý
nghĩa cố định và hàm trữ những khả năng mở ra các ý nghĩa mới trong sự cảm nhận
của con người.
Nếu hình ảnh chỉ là sự tái hiện (chụp lại) một cách hoàn toàn khách quan thì
hình tượng cũng có sự tái hiện, nhưng bằng sự tưởng tượng, chủ quan của người nghệ
sĩ. Nói cách khác, hình tượng nghệ thuật là sự kết hợp giữa hai nhân tố nhận thức khách thể (tinh thần) và sáng tạo chủ thể. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “hình
tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sỹ tái hiện bằng tưởng
tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật” [136; 147] là “kết quả của hoạt động
tưởng tượng, nhằm tạo ra một thế giới ứng với những nhu cầu và định hướng về tinh
thần của con người, ứng với hoạt động có chủ đích, với lý tưởng của con người” [134;
42].
Biểu trưng Khi đề cập đến biểu trưng, các nhà nghiên cứu khoa học đã đưa ra
nhiều ý kiến khác nhau. Bùi Khắc Viện trong bài: Về tính biểu trưng của thành ngữ
15
trong Tiếng Việt cho biểu trưng thể hiện ở chổ: “hình ảnh, sự việc hoặc sự vật cụ thể
được miêu tả trong tự nhiên là nhằm nói về ý niệm khái quát” [157 (sđd); tr 28]. Hà
Công Tại thì cho rằng: “Nói đến biểu trưng là nói đến hình ảnh cảm tính về hiện thực
khách quan. Đó là hình ảnh sao chép lại nguyên sơ các hiện tượng do cảm giác khác
nhau như thị giác, thính giác góp phần tạo nên. Khác với cảm giác đem lại cho ta từng
đặc điểm cụ thể riêng biệt của hiện thực, biểu trưng cho ta đặc điểm chung nhất” [157
(sđd); tr65]. Nguyễn Văn Nở trong “Biểu trưng trong tục ngữ Người Việt” giải thích:
“Biểu tượng (symbole: tiếng Pháp; symbol: tiếng Anh) là một khái niệm quen thuộc và
được sử dụng trong nhiều ngành khoa học. Nó có nguồn gốc tiếng Latin (symbolus)
nghĩa là dấu hiệu. Ở Việt Nam, thuật ngữ này được dịch là biểu trưng hay biểu tượng.
Theo chúng tôi biểu trưng và biểu tượng không đồng nhất. Nghĩa biểu trưng mang tính
lâm thời, nghĩa là ở những ngữ cảnh khác nhau nó có thể có nghĩa khác nhau; còn biểu
tượng có tính cố định” [157 (sđd); tr.41]. Trong “Từ kí học đến thi pháp học”, Hoàng
Trinh cũng nêu lên quan niệm của mình: “Biểu trưng là một vật mang tính chất thông
điệp được dùng để chỉ ra một cái ở bên ngoài, theo một quan niệm ước lệ, tức võ đoán
(không tất yếu) giữa sự vật trong thông điệp và sự vật bên ngoài” [152 (sđd); tr.84].
Tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi thiết nghĩ: Biểu trưng là một yếu tố hình
thức mang tính nội dung sâu sắc, gắn liền với đặc điểm văn hóa dân tộc, địa phương,
biểu trưng gần như đồng nghĩa với ẩn dụ, có nhiều trong các thể loại về văn học dân
gian, phổ biến nhất là trong ca dao, đặt biệt là trong ca dao về thế giới thực vật. Trong
biểu trưng có sự so sánh dựa trên sự giống nhau về màu sắc, hình dáng, tính chất, chức
năng của đối tượng này để nói về đối tượng kia, theo nguyên tắc đối chiếu ngầm để
bộc lộ những nội dung trữ tình. Trong ca dao về thế giới thực vật, tác giả dân gian có
sự lựa chọn các đặc điểm, tính chất có tính ổn định của hình tượng thiên nhiên: cây cỏ,
hoa lá làm điểm tựa để biểu đạt bức tranh đời sống tình cảm của con người Việt Nam,
để xây dựng hình tượng biểu trưng.
Biến thể (d) là thể đã biến đổi ít nhiều so với thể gốc [121; 64]. Như vậy, có thể
hiểu biến thể về danh xưng là các tên gọi khác của cùng một đối tượng hay những đối
tượng có cùng một thể gốc, nay được gọi bằng nhiều tên khác nhau. Chúng có mối liên hệ
với nhau về tính chất hoặc một vài đặc điểm chung nào đó.
16
1.3. Cơ sở lý thuyết của đề tài
1.3.1. Cơ sở văn hóa – văn học
+ Về mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và môi trường văn hóa
Môi trường không những là một khái niệm sinh thái học, nó còn là một phạm
trù triết học, bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường văn hóa.
Nếu môi trường tự nhiên là tập hợp các yếu tố bên ngoài hệ thống xã hội, thì môi
trường văn hóa là tập hợp các yếu tố bên trong hệ thống xã hội.
Môi trường văn hóa gần như đồng nhất với môi trường xã hội, ngoài ra nó còn
là bộ phận quan trọng của sự phát triển văn hóa. “So với môi trường xã hội, khái niệm
môi trường văn hóa thường được dùng với nghĩa kém xác định hơn, với ngoại diên là
toàn bộ đời sống con người và nội hàm là mặt văn hóa, hay khía cạnh văn hóa” [124
(sđd)]. Khi con người sống trong môi trường tự nhiên, cải tạo tự nhiên để tạo thành
môi trường xã hội thì bản thân môi trường văn hóa đó luôn mang dấu ấn của môi
trường tự nhiên xung quanh nó.
Trong ca dao Việt Nam, những thực thể tự nhiên tồn tại trong môi trường sống
bao gồm các hiện tượng tự nhiên, thế giới thực vật, thế giới động vật, thâm nhập vào
đời sống tinh thần của chủ thể văn hóa (con người Việt Nam) và chuyển hóa thành các
giá trị văn hóa. Trong ca dao, thế giới thực vật được phản ánh và lưu giữ ở nhiều
phương diện của giá trị văn hóa Việt Nam: văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên,
văn hóa ứng xử trong môi trường xã hội, chiều hướng tâm lí, tâm linh, quan niệm nhân
sinh của người Việt. Những công trình nghiên cứu về vấn đề văn hóa, văn học, đặc
biệt là ca dao, dân ca đã chỉ ra một số khía cạnh trong giá trị văn hóa của thế giới thực
vật trong ca dao.
+ Thực vật với tư cách là những mã văn hóa trong ca dao người Việt
Mã văn hóa là một khái niệm nằm trong môi trường văn hóa. Mã văn hóa được
hình thành trong môi trường tự nhiên và xã hội. Mã văn hóa có tính truyền thống, ổn
định, là dấu hiệu đặc trưng nhận diện. Theo Nguyễn Bích Hà, “Mã văn hóa (cultural
code) là kết tinh của các giá trị văn hóa, là phần nổi trội nhất, cơ bản nhất, có tính ổn
định tương đối của cộng đồng. Nó biểu hiện ra ngoài bằng các tín hiệu văn hóa, biểu
17
- Xem thêm -