Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉn...

Tài liệu Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉnh bắc giang

.DOC
76
419
66

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ NGỌC ANH THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH TUYÊN Hà Nội, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong Luận văn này chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định và được ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo Tác giả luận văn Trần Thị Ngọc Anh MỤC LỤC MỞ ĐẦU..............................................................................................................................................1 Chương 1: NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO..............................................................................7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt không tước tự do......................7 1.2. Pháp luật về thi hành hình phạt không tước tự do...................................................18 Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC GIANG.....................................................................29 2.1. Khái quát chung về tình hình tội phạm và việc áp dụng hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang............................................................................................29 2.2. Thực trạng thi hành hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.....................................................................................................................................................39 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO......................51 3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt không tước tự do............................................................................................................................................51 3.2. Các giải pháp khác.................................................................................................................61 KẾT LUẬN......................................................................................................................................66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................68 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: BLTTHS: Bộ luật hình sự Bộ luật tố tụng hình sự HĐND: Hội đồng nhân dân HTHP: Hệ thống hình phạt THAHS: Thi hành án hình sự UBND: Ủy ban nhân dân KTTD: Không tước tự do MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong luật hình sự, hình phạt được coi là phương tiện có vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhằm bảo đảm và phát huy tính dân chủ trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với tính chất là nguyên tắc cơ bản của luật hình sự thì nguyên tắc nhân đạo luôn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và thể hiện xuyên suốt trong các quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) đặc biệt được thể hiện rõ trong các quy định về hình phạt chính không tước tự do. Việc áp dụng các hình phạt chính không tước tự do đã thể hiện rõ tinh thần phân hóa tội phạm nhằm thực hiện nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, đồng thời góp phần hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị. Đối với Thi hành án hình sự (THAHS) là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước. Hoạt động THAHS được xem là khâu cuối cùng và có ý nghĩa quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa công lý mà Tòa án đã nhân dân Nhà nước ban hành bản án hay Quyết định; mặt khác, thi hành án kịp thời, nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án đối với các hành vi phạm tội chính là biện pháp khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Từ trước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động THAHS. Tuy nhiên, hầu hết đều tập trung chủ yếu vào các công tác thi hành hình phạt tù, tử hình mà chưa thực sự quan tâm đúng mức đến các công tác thi hành các hình phạt không tước quyền tự do. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành hình phạt không tước quyền tự do đã được ban hành ở những thời điểm khác nhau nên còn nhiều bất cập, nhiều nội dung chưa được quy định cụ thể, dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành.Bên cạnh đó, qua thực tiễn thi hành cho thấy, hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án các hình phạt không tước quyền tự do chưa được phân công, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, nhất là vai trò, trách nhiệm của Tòa án, 1 UBND các cấp, MTTQ và các đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi người bị kết án không chấp hành hoặc chấp hành án không nghiêm, có vi phạm chưa được quy định đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm...... Tất cả những tồn tại và hạn chế kể trên đã góp phần làm giảm hiệu quả thi hành hình phạt không tước quyền tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn để từ đó làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt không tước quyền tự do là cần thiết. Điều đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để tôi lựa chọn đề tài “Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang”. Trong đề tài tôi lựa chọn chủ yếu nghiên cứu về các hình phạt: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trong các hình phạt chính được quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, Khoản 1, Điều 32 Bộ Luật hình sự năm 2015 làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan đến thi hành các hình phạt không tước tự do, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu và được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau; Trước hết, hình phạt đã được nhiều chuyên gia ở nước ngoài nghiên cứu như: Punishment and Responsibility, Oxford, 1968; Cragg, Wesley, The Practice of Punishment: Towards a Theory of Restorative Justice, New York, Routledge, 1992; M. Bellmore, H.J.Greenberg and J.J.Jarvis, Generauzed Penalty - function concepts in Mathematical optization, Georgia Institute of Technology, Atlanta, Georgia Received June 17, 1968; v.v… Còn ở Việt Nam, khoa học luật hình sự là một trong những ngành khoa học pháp lý phát triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý khác, do đó xét riêng về hình phạt, cho thấy có nhiều công trình nghiên tiêu biểu ở các cấp độ khác nhau. Cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Vũ Lai Bằng, Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1997; Đặng Đức Thạo, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2001; v.v… Ở Khoa Luật, Đại học 2 Quốc gia Hà Nội có đề tài của Lê Khánh Hưng, Các hình phạt không tước tự do trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2010; Nguyễn Văn Cảnh, Hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2010; v.v... Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả Nguyễn Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà Nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003, Phạm Văn Beo, Hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội 2007; Trịnh Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v... Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ 7 - Hình phạt và biện pháp tư pháp, trong Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; v.v... Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học đề cập đến hình phạt như: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Hình phạt và các biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 8/2000; Một số vấn đề cơ bản về hình phạt, Tạp chí Công an nhân dân, số 5/2001; Hình phạt và hệ thống hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2007; GS. TSKH. Lê Cảm, TS. Trịnh Tiến Việt, Thực trạng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 1/2009; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Mục đích của hình phạt, Tạp chí Luật học, số 1/1999; PGS.TS. Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng, Hình phạt - Một số vấn đề lý luận, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2000; PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về hình phạt quản chế trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 1/2004; Về hình phạt cấm cư trú trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2004 và Về hình phạt tiền trong luật hình sự một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2003; TS. Phạm Văn Beo, Một số vấn đề về khái niệm hình phạt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/2005; v.v... Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về hình phạt chính không tước tự do và hình 3 phạt bổ sung nhưng vẫn chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu đúng mức, với tư cách là những hình phạt chính không tước tự do quan trọng trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Do vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài "Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang " là đề tài luận văn của mình để tiếp nối những nghiên cứu trên, nhằm làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về các hình phạt chính không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ) dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng trong thực tiễn, từ đó đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về hình phạt không tước tự do trong luật hình sự Việt Nam, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về hình phạt này trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thi hành án hình sự, các hình phạt chính không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ: Khái niệm, đặc điểm, chủ thể, nội dung.....; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành các hình phạt chính không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trên cơ sở so sánh, đối chiếu với tình hình thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Giang; - Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó khăn trong các hình phạt chính không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trên dịa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2012 đến năm 2017; 4 - Trên cơ sở nghiên cứu đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định về hình phạt chính không tước tự do trong Bộ luật hình sự Việt Nam cũng như nâng cao hiệu quả thi hành các hình phạt chính không tước tự do trong thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam là một vấn đề có nội dung khái quát cao, nội dung rộng. Do đó, đối tượng nghiên cứu đối với đề tài thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang là các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do trong các văn bản pháp luật Thi hành án hình sự, văn bản pháp luật Tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng hình phạt không tước tự do của Tòa án hai cấp tại địa bàn tỉnh Bắc Giang. Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt chính không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ) của Tòa án nhân dân hai cấp tại địa bàn tỉnh Bắc Giang trong 5 năm (2012 - 2017) để đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về hình phạt này trong thực tiễn. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật mác – xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VII, VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học về hình phạt, cũng như về các hình phạt không tước tự do để xây dựng nên khái niệm các hình phạt chính không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ), bảo đảm tính chính xác, khoa 5 học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của các hình phạt chính không tước tự do. Bên cạnh đó việc nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cũng chỉ ra các hạn chế, tồn tại trong thi hành các hình phạt không tước tự do cũng như những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở này, luận văn đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt chính không tước tự do trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật thi hành các hình phạt không tước tự do. Chương 2: Thực trạng thi hành hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang và một số tồn tại vướng mắc. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thi hành các hình phạt không tước tự do. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO 1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt không tước tự do 1.1.1. Khái niệm thi hành hình phạt không tước tự do. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án hình sự có mối quan hệ hữu cơ với các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Trên cả bình diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Khi một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước không được thực hiện, pháp luật bị buông lỏng. Bởi vậy, việc đảm bảo việc thi hành của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu tất yếu khách quan. Mặt khác, quá trình thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự có vai trò quan trọng nhằm đảm bảo mục đích của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng chống tội phạm. Bởi vậy, để thực hiện vai trò đó và đảm bảo pháp chế của hoạt động này thì việc pháp điển hóa toàn bộ các quy định về quá trình thi hành án hình sự là yêu cầu cấp thiết, tránh sự tùy tiện, vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án. Các hình phạt nói chung và các hình phạt chính không tước tự do nói riêng (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ) có vai trò quan trọng không chỉ bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà còn thể hiện được rõ nguyên tắc nhân đạo của Luật Hình sự. Hoạt động thi hành án hình sự đối với các hình phạt không tước tự do bên cạnh những đặc điểm chung còn những đặc 7 thù riêng biệt. Sự khác biệt này xuất phát từ đặc thù của từng loại hình phạt và mục đích, đối tượng áp dụng. Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội, họ được cải tạo, giáo dục, thi hành án trong môi trường sống và hoạt động với các công dân bình thường khác. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương nơi họ làm việc hoặc sinh sống. Môi trường không giam giữ sẽ có những đặc thù riêng và mỗi hình phạt không tước tự do lại có thêm những đặc thù riêng. Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành án hình sự, cũng như bản chất của thi hành các hình phạt không tước tự do. Có quan điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử [ 8,tr.8]. Có quan điểm cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn của quá trình tố tụng và do vậy được điều chỉnh bằng các quy phạm của luật tố tụng hình sự. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là một hoạt động hành chính – tư pháp hình sự, có những nét đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự. Một số khác thì coi thi hành các hình phạt không tước tự do như là luật hình sự kéo dài. Việc xác định thi hành các hình phạt không tước tự do là một giai đoạn tố tụng, luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính - tư pháp có ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự, nói chung và thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng, mà xác định bản chất của thi hành các hình phạt không tước tự do là một trong những vấn đề quan trọng của thi hành các hình phạt không tước tự do. Bởi lẽ, xác định đúng bản chất thi hành các hình phạt không tước tự do có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương diện, đặc biệt là tạo ra cơ chế quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động phù hợp nhằm bảo đảm thi hành các hình phạt không tước tự do. Như vậy, có thể nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm thi hành các hình phạt không tước tự do như sau: Thi hành hình phạt không tước tự do là hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc người chấp hành các hình phạt không tước tự do phải tuân thủ, chấp hành các hình phạt mà Tòa án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, tổ chức và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ phạm tội mới, cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội. 8 1.1.2. Đặc điểm của thi hành hình phạt không tước tự do. Xét về bản chất, tố tụng là việc giải quyết các tranh chấp thông qua thủ tục xét xử của Tòa án. Điều đó có nghĩa là khi Tòa án đã đưa ra phán quyết về chân lý của sự việc, về việc phạm tội hay không phạm tội và về hình phạt áp dụng đối với trường hợp này hay trường hợp khác thì quá trình tố tụng cũng kết thúc. Nói cách khác là tố tụng hình sự xác định có hay không có quan hệ pháp luật hình sự trong trường hợp này. Nếu có quan hệ đó thì quá trình tiếp theo là thực hiện nội dung của pháp luật hình sự: hình phạt hoặc biện pháp tư pháp hình sự. Thực hiện nội dung này không thể tuân theo trình tự, thủ tục tố tụng, vì không có tranh chấp cần xét xử. Ở đây, thực chất là hoạt động quản lý hành chính - tư pháp hình sự. Bởi lẽ pháp luật thi hành án hình sự có đối tượng điều chỉnh là “lĩnh vực các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành tất cả các loại án hình sự, trong quá trình giáo dục và cải tạo người bị trách nhiệm hình sự hoặc bị án” [62,tr.143]. Điều này được thể hiện ở những điểm sau: Một là, thi hành các hình phạt không tước tự do thực chất là hoạt động mang tính điều hành và chấp hành. Điều hành và chấp hành là đặc trưng của quản lý hành chính. Tuy nhiên, đây là hoạt động điều hành và chấp hành để thực hiện bản án, quyết định của Tòa án, tức là một nội dung có tính chất tư pháp; Hai là, với tính chất là một hoạt động chấp hành, cho dù căn cứ để thi hành các hình phạt không tước tự do là các bản án và quyết định của Tòa án, nhưng quá trình thi hành các hình phạt không tước tự do được thực hiện với những hoạt động, biện pháp, cách thức không mang tính tố tụng, nghĩa là không thuần túy là luật hình thức, mà ở đây, có thể thấy sự kết hợp giữa luật nội dung với luật hình thức; Ba là, trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành các hình phạt không tước tự do tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành các bản án không tước tự do để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, của Nhà nước và xã hội, giáo dục họ trở thành người công dân có ích với xã hội. Có thể nói đây là phương pháp thuyết phục giáo dục và mệnh lệnh hành chính; 9 Bốn là, việc thi hành các hình phạt không tước tự do, như cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo, được giao cho cơ quan thi hành án dân sự hay cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương thực hiện theo thủ tục quản lý hành chính. Như vậy, có thể nói trong quá trình thi hành án hình sự, pháp luật được áp dụng chủ yếu không phải là pháp luật tố tụng, mà là các quy định pháp luật về hành chính – tư pháp; Năm là, thi hành các hình phạt không tước tự do trước hết là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, quá trình xã hội hóa hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do cũng đang được tiến hành với nhiều triển vọng khả quan. Đây là điểm khác biệt so với hoạt động tố tụng, hoàn toàn mang tính quyền lực tư pháp chặt chẽ. Tóm lại, thi hành các hình phạt không tước tự do tuy có quan hệ chặt chẽ với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính đặc thù, và có mục đích trực tiếp riêng biệt. Mọi hoạt động tố tụng hình sự đều dừng lại ở việc phán quyết của Tòa án, còn thi hành án lại được triển khai bắt đầu từ một phán quyết của Tòa án có hiệu lực thi hành nhằm thực hiện các nội dung trong phán quyết của Tòa án. Hơn nữa, các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành các hình phạt không tước tự do tuân theo các nguyên tắc mang đậm tính hành chính hơn là tính tố tụng. Nhưng mặt khác, không thể không thấy mối quan hệ biện chứng giữa quá trình tố tụng hình sự và thi hành các hình phạt không tước tự do: tố tụng là tiền đề, khởi đầu của thi hành các hình phạt không tước tự do; ngược lại, thi hành các hình phạt không tước tự do là thực hiện kết quả tố tụng trong thực tế. Không có tố tụng thì không có thi hành các hình phạt không tước tự do, nhưng không có thi hành án thì tố tụng trở nên vô nghĩa. Từ những phân tích trên, có thể thấy: thi hành các hình phạt không tước tự do là hoạt động có tính hành chính – tư pháp. 1.1.3. Các nguyên tắc của thi hành hình phạt không tước tự do Nguyên tắc được hiểu là tư tưởng, quan điểm cơ bản, đóng vai trò chỉ đạo các hành động cụ thể. Nguyên tắc thường được thể hiện dưới hình thức các luận điểm, các nguyên lý có tính chất xuất phát điểm, định hướng và nhất thiết phải được tôn trọng, quán triệt trong một loạt việc làm. Nguyên tắc vừa mang tính khách quan lại vừa mang tính chủ quan. Nguyên tắc, trước hết là sự phản ánh khách quan, phản ánh thực tế vận động và tồn tại của xã hội, phản ánh bản chất của chế độ, của cơ sở kinh 10 tế-xã hội, của trình độ, điều kiện phát triển lịch sử của đất nước, của xã hội. Đồng thời nguyên tắc cũng mang đậm dấu ấn chủ quan, vì thực tế khách quan phản ánh qua nhận thức của con người mà được nâng lên thành quan điểm, thông qua khả năng, trình độ, nhận thức nhu cầu khách quan của đời sống xã hội. Vì vậy, khi nói đến nguyên tắc thì vừa phải nói đến cái phổ biến, vừa phải nói đến đặc thù của sự ra đời, hình thành ở một thời đại hay một chế độ xã hội khác nhau. Nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và hoạt động thi hành án hình phạt không tước tự do chính là những tư tưởng, quan điểm, nguyên lý có tính chỉ đạo cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự trong khi thực hiện các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối với các hình phạt không tước tự do trên thực tế; giáo dục, cải tạo người bị kết án, phòng ngừa để họ không phạm tội mới, tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó hệ thống các nguyên tắc tổ chức và hoạt động thi hành án hình phạt không tước tự do ở Việt Nam hiện nay vừa phải thể hiện bản chất của hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do ở nước ta, vừa phải tính đến hướng phát triển xã hội ta trong những năm tới dưới tác động của cải cách tư pháp và cải cách hành chính, vừa phải phản ánh tính đặc thù của thi hành hình phạt không tước tự do trong những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội ở giai đoạn hiện nay. Tại Điều 4 Luật thi hành án hình sự đã quy định tám nguyên tắc cơ bản là tư tưởng chỉ đạo, thể hiện xuyên suốt trong các quy định về pháp luật thi hành án hình phạt không tước tự do cũng như trong hoạt động thi hành án hình phạt không tước tự do, bao gồm: 1) Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân: Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay, nguyên tắc này cũng được ghi nhận tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là yêu cầu hàng đầu trong tổ chức và hoạt động thi hành án. Trong việc thi hành các hình phạt không tước tự do, nội dung chủ yếu của nguyên tắc đó là việc thi hành các hình phạt này hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật. Các cơ quan thi hành các hình phạt không tước tự do, cá nhân có thẩm quyền trong thi hành các hình phạt không tước tự do có 11 trách nhiệm tuân thủ theo đúng Hiến pháp, pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án. Để đảm bảo nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do cần có các điều kiện sau: - Trong quan hệ tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do thì pháp luật thi hành án hình sự luôn phải giữ vị trí thượng tôn. Toàn bộ quá trình thi hành các hình phạt không tước tự do, từ khâu tổ chức đến việc triển khai công tác thi hành án thì đều phải được đặt trong những khuôn khổ pháp lý chặt chẽ. Các văn bản pháp luật phải là cơ sở cho việc trật tự hóa và bảo đảm ổn định các quan hệ tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do, là cơ sở của việc xây dựng và giải quyết các mối quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể tham gia các quan hệ thi hành án, là cơ sở đảm bảo mục đích và hiệu quả của hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do. - Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do phải tương đối đầy đủ và phù hợp. Các văn bản quy phạm pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, thể hiện đầy đủ các đặc thù riêng biệt của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cộng động cũng như của từng tổ chức, cá nhân có liên quan, đủ khả năng điều chỉnh có hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do. - Pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do phải được tuân thủ, chấp hành nghiêm chỉnh, nhất quán. Yêu cầu đó, trước hết, phải được quán triệt trong toàn bộ công tác tổ chức và trong hoạt động tác nghiệp của các cơ quan, nhân viên thi hành án. Các cơ quan thi hành án có trách nhiệm tổ chức thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, loại bỏ sự tùy tiện, vô tổ chức, thiếu kỷ luật trong lĩnh vực thi hành án và phải xử lý nghiêm minh mọi biểu hiện vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thi hành án, bao gồm những vi phạm pháp luật từ phía những người có nghĩa vụ chấp hành án và những người có trách nhiệm tổ chức việc thi hành án [67, tr. 50-51]. 12 - Mọi hoạt động trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói chung và trong hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng đều phảo bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Mọi hành vi xâm phạm bất hợp pháp đến các quyền và lợi ích này đều là trái pháp luật và phải được xử lý nghiêm minh. Từ những phân tích trên có thể thấy nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hiện đang đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với công tác xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật thi hành hình phạt không tước tự do ở nước ta hiện nay. Cần sớm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xác lập và nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do. Ngoài ra, cũng cần tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp hoạt động theo cơ chế kết hợp nguyên tắc tập trung thống nhất và phát huy vai trò tích cực, chủ động của chính quyền địa phương và của ủy ban Mặt trận và các đoàn thể nhân dân địa phương. 2) Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh: Nhiệm vụ trọng tâm của thi hành án hình sự nói chung và thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng là bảo đảm thi hành đúng đắn bản án, quyết định có hiệu lực. Nhiệm vụ này gắn liền với mục tiêu lớn nhất của tố tụng hình sự là làm sáng tỏ sự thật vụ án, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc thi hành đúng đắn bản án, quyết định có hiệu lực là cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ khác của thi hành các hình phạt không tước tự do: giáo dục, răn đe người bị kết án và giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, ý thức tham gia phòng, chống tội phạm của mọi công dân. Như vậy thi hành đúng đắn bản án, quyết định có hiệu lực là yêu cầu khách quan. Để bản án, quyết định có hiệu lực được thi hành đúng đắn đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định đó. Theo tinh thần của nguyên tắc này, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định có hiệu lực cần phải xác định rõ nhiệm vụ của mình trong việc thi hành, chấp hành bản án, quyết định đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Chỉ khi tất cả các chủ thể có liên quan trong thi hành bản án, quyết định có hiệu 13 lực thực hiện theo đúng tinh thần đó thì những bản án, quyết định này mới có thể được thực thi đúng đắn trong thực tiễn. 3) Bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án: Trong pháp luật thi hành các hình phạt không tước tự do, nguyên tắc nhân đạo thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội cũng như truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam và được cụ thể hóa tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013. Ngoài ra nguyên tắc nhân đạo còn được ghi nhận tại Điều 5 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền: “Không ai có thể bị tra tấn hoặc bị trừng phạt đối xử vô nhân đạo, tàn bạo” [11,Tr.64]. Nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật thi hành các hình phạt không tước quyền tự do là nhằm mục đích không gây nên những đau đớn về thể xác hay sỉ nhục nhân cách họ mà nhằm mục đích thực thi công lý, đảm bảo sự công bằng, giáo dục người phạm tội ý thức được việc thi hành pháp luật…Do vậy, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do phải tôn trọng nhân phẩm và danh dự của cá nhân người chấp hành án nhưng vẫn phải bảo đảm việc thực thi pháp luật có hiệu quả, hài hòa các lợi ích khác nhau. Nguyên tắc nhân đạo trong tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do không đồng nghĩa với việc nương nhẹ, bỏ qua một cách vô căn cứ đối với người không chấp hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Việc quán triệt nguyên tắc nhân đạo không được làm mất tính nghiêm minh của pháp luật cũng như không được phép vi phạm các nguyên tắc khác về tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do. Do vậy, nguyên tắc nhân đạo luôn được thể hiện trong toàn bộ các quy định về điều kiện, thủ tục thi hành án, các quy định về quyền, nghĩa vụ của người bị kết án với các hình phạt không tước tự do với tư tưởng xuyên suốt là tôn trọng quyền lợi, giá trị, phẩm giá của người chấp hành án. 4) Kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ vă hóa và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hàn h án: Để đạt được mục đích của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục cải tạo người phạm tội, nguyên tắc kết hợp giáo dục, cải tạo với cưỡng chế được thể hiện trong các quy định của pháp luật thi hành các hình phạt không tước tự do cũng như trong thực tiễn thi hành các hình phạt này. Như vậy cần phải quy định và áp dụng các 14 biện pháp, hình thức giáo dục, cải tạo thích hợp. Điều quan trọng là giúp cho người bị kết án nhận thức được hành vi sai trái của mình, thấy được hậu quả mà họ đã gây ra cho xã hội, gia đình và bản thân, từ đó có suy nghĩ, hành động đúng về sau. Đối với các hình phạt không tước tự do, sự tự nguyện thi hành án là một trong những yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho hoạt động thi hành án được diễn ra thuận lợi, có hiệu quả, tránh được những chi phí không cần thiết. Do vậy, các quy định khuyến khích trong pháp luật thi hành án là cần thiết để người có nghĩa vụ thi hành án tự nguyện thực hiện những nghĩa vụ mà bản án, quyết định của Tòa án yêu cầu và tạo ra thủ tục cần thiết để họ thực hiện sự tự nguyện đó. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế chỉ khi người có nghĩa vụ thi hành án không tự nguyện và việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là thực sự cần thiết để hoạt động thi hành án đạt được mục đích đề ra với tính chất là biện pháp cuối cùng để bảo đảm hiệu lực, tính nghiêm minh của pháp luật và của bản án được tuyên nhân danh nhà nước. Việc vận dụng nguyên tắc kết hợp giáo dục,cải tạo với cưỡng chế trong tổ chức và thi hành các hình phạt không tước tự do đòi hỏi phải tìm ra sự kết hợp đúng đắn. Mối quan hệ này cần phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức về mức độ, liều lượng khác nhau của sự kết hợp các biện pháp giáo dục, cải tạo, thuyết phục và các biện pháp cưỡng chế đối với việc thi hành từng loại án khác nhau cũng như đối với từng trường hợp người bị kết án khác nhau. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, tinh thần của nguyên tắc trên đòi hỏi phảo bảo đảm việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế ở mức độ và liều lượng tối thiểu còn các biện pháp giáo dục, cải tạo, thuyết phục được áp dụng đến mức độ và liều lượng tối đa. 5) Thi hành án đối với người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội: Người chưa thành niên là đối tượng luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung, trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói riêng. Nguyên tắc này đòi hỏi các biện pháp và chế độ áp dụng đối với người chấp hành án là người chưa thành niên cần phải chủ yếu mang tính giao dục , tác động đến người chấp hành án nhằm giáo dục, giúp họ sửa chữa được sai lầm, trang bị cho họ những kiến thức, thói quen và kỹ năng sống cần thiết. Những biện 15 pháp và chế độ này không được mang tính hà khắc, trả thù, xúc phạm nhân phẩm, danh dự người chấp hành án. 6) Khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại: Mục tiêu của thi hành án hình sự nói chung và thi hành hình phạt không tước tự do nói riêng là trả lại cho xã hội trạng thái an toàn, ổn định bằng cách giáo dục, cải tạo người đã bị kết án trở thành người có ích cho xã hội, khắc phục hậu quả mà tội phạm đã gây ra, ngăn ngừa tội phạm mới. Mục tiêu này chỉ có thể thực hiện được khi tất cả các chủ thể có liên quan trong tổ chức thi hành án hình sự thực sự nỗ lực. Ngoài ra không thể thiếu sự nỗ lực của bản thân người chấp hành án. Vì vậy, Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả đối với hành vi phạm tội đã gây ra. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở việc quy định của luật cũng như trong thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do cần ghi nhận và có những biện pháp động viên, khích lệ phù hợp trên cơ sở mức độ ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại của người chấp hành án. Những hình thức động viên, khen thưởng phù hợp và kịp thời là sự thể hiện tập trung nhất của sự khuyến khích này. 7) Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật trong hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do: Để bảo đảm pháp chế cũng như quyền, lợi ích của mọi cá nhân, tổ chức, mọi hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do cần bị xử lý nghiêm minh. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật trong hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do phải được ghi nhận trong luật vào bảo đảm trong thực tiễn. Thể hiện tinh thần nguyên tắc này, Luật thi hành án hình sự đã quy định rõ nhiều nội dung liên quan đến quyền khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự. Cùng với những quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại đó, Luật thi hành án hình sự cũng có những quy định khá cụ thể, rõ ràng về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án hình sự như quy định quyền tố cáo trong thi hành án hình sự là quyền của con người chấp hành án và mọi công dân; quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo…. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan