Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự của tòa án nhân dâ...

Tài liệu Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự của tòa án nhân dân từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
76
151
62

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THU HUYỀN THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật kinh tế Mã: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGÔ THỊ HƯỜNG HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra trong Luận văn là kết quả nghiên cứu của chính tác giả Luận văn. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1. THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN,QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN .......... 6 1.1. Nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự ......................... 6 1.2. Pháp luật hiện hành về thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của tòa án nhân dân ............................. 13 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tổ chức thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự của Tòa án .................................. 16 Chương 2. THỰC TRẠNG THI HÀNH PHẦN NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰTHÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................... 23 2.1. Vài nét về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội ....................................................................................... 23 2.2. Thực tiễn thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân tại các cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội .................................................................................. 28 2.3. Đánh giá kết quả tổ chức thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân ...................... 46 Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THI HÀNH PHẦN NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ..................................................... 53 3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác thi hành phần NVDS trong Bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân ..................................................................................................... 53 3.2. Giải pháp cụ thể .................................................................................. 55 KẾT LUẬN ................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 69 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Kí hiệu CNH-HDH Diễn giải Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa CHV Chấp hành viên NVDS Nghĩa vụ dân sự TAND Tòa án nhân dân THADS Thi hành án dân sự TP Thành phố UBND Uỷ ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Bảng 2.1: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự trên địa bàn Hà Nội (về số việc) ............................. 28 Bảng 2.3: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự (về số việc) .............................................................. 29 Bảng 2.4: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự (về tiền) ................................................................... 30 Bảng 2.5: Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền ở nước ta giai đoạn ....... 30 2016-2018............................................................................................... 30 Bảng 2.6: Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản ở nước ta giai đoạn 2016-2018 ...................................................................................... 32 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhân dân mang tính quyền lực nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm thi hành các hình như phạt tiền, tịch thu tài sản và thi hành các phần quyết định dân sự khác mà Tòa án áp dụng đối với người bị kết án. Đó cũng chính là việc tước bỏ một phần hay toàn bộ tài sản của người bị kết án để sung quỹ Nhà nước hoặc để thu hồi, khắc phục những hậu quả về vật chất mà người phạm tội đã gây ra; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân góp phần giữ vững kỷ cương, phép nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với ý nghĩa đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự có mối quan hệ hữu cơ với các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự không đạt được thì hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng: điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Tòa án từ thực tiến TP. Hà Nội đã bộc lộ một số mặt hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Do vậy việc nghiên cứu đề tài: "Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự của tòa án nhân dân từ thực tiễn thành phố Hà Nội" để trên cơ sở đó giải quyết các vướng mắc trong lý luận và thực tiễn và góp phần hoàn thiện hơn về mặt lập pháp các qui định thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự. 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay các nhà luật học đã có tương đối nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự trên các tài liệu như sách báo, tạp chí (Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí kiểm sát, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Tạp chí luật học...). Tuy nhiên các công trình, bài viết mới chỉ đi vào những vấn đề chung mà chưa đi sâu vào việc nghiên cứu về cơ sở lý luận cũng như những bất cập đang tồn tại trong thực tiễn. Trong các giáo trình giảng dạy cũng chỉ đề cập rất ít và ở góc độ cơ bản. Tác giả của luận văn có thể nêu một vài ví dụ các công trình, bài viết sau: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 26, 2010; Hoàng Thị Sơn: "Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Luật học, số 6, 1998, Nguyễn Thanh Thủy: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự", Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Lê Xuân Hồng: "Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự", Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002; Nguyễn Quang Thái: "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003; Yến Minh: "Luật thi hành án dân sự còn nhiều bất cập", báo điện tử Bắc Ninh, ngày 21/8/2012; "Công tác thi hành án dân sự còn nhiều vướng mắc, bất cập", đăng trên trang thông tin điện tử của Tổng Cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp ngày 13/08/2013; 2 Nguyễn Văn Diễn: “Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án và quyết định hình sự của tòa án ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa LuậtĐại học Quốc gia Hà Nội, 2014. Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của việc thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án nhân dân trong phạm vi thành phố Hà Nội dưới cấp độ một luận văn thạc sĩ Luật học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu  Hệ thống hóa lí thuyết qua lí luận chung về thi hành nghĩa vụ dân sự  Phân tích thực trạng thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự từ thực tiến tại Hà Nội  Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự. * Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:  Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ quyết định hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự cũng như lý luận và thực tiễn về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án.  Đánh giá thực tiễn thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án tại TP.Hà Nội; nêu ra mặt được, mặt chưa được của việc thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án. 3  Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án ơt TP. Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là qui định của pháp luật về nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án bao gồm các nghĩa vụ dân sự phát sinh từ quyết định hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự và thực tiễn áp dụng. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là qui định của pháp luật và thực tiễn thi hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong bản án, quyết định hình sự từ thực tiễn TP.Hà Nội trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về chính sách thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án. Đề tài được thực hiện trên cơ sở quán triệt các nghị quyết và chỉ thị của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc về pháp luật hình sự và pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án. Cơ sở thực tiễn của các báo cáo chuyên đề về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án, của Tổng Cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Vụ Kiểm sát thi hành án - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao... Phương pháp luận đề thể hiện đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vât lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phương pháp thống kê, khảo sát thực tế, phân tích đánh giá về mặt định tính và định lượng… Đi từ cơ sở lý 4 thuyết đến thực tiễn nhằm giải quyết và làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu của luận văn.Đồng thời dựa trên kinh nghiệm của bản thân và tham chiếu quan điểm của các nghiên cứu đã được công bố để minh chứng cho các lập luận đưa ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án ở Việt Nam. Việc đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án có ý nghĩa góp phần hoàn thiện các qui định của pháp luật về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án, hướng dẫn áp dụng thống nhất các qui định về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự của tòa án, giúp cơ quan thi hành án có các biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích và tái hòa nhập với xã hội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án Chương 2:Thực trạng thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân tại các cơ quan THADS TP.Hà Nội Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân 5 Chương1 THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG CÁC BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ ĐÃ CÓ HIỆU LỰC CỦA TÒA ÁN 1.1. Nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự 1.1.1. Khái niệm nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự Trước hết, nghĩa vụ dân sự được hiểu là một quan hệ pháp luật; theo đặc điểm của đối tượng và đặc điểm của phương pháp điều chỉnh của Bộ Luật dân sựhiện hành có thể nhận định: nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp luật về tài sản và nhân thân của các chủ thể, theo đó chủ thể mang quyền có quyền yêu cầu chủ thể mang nghĩa vụ phải chuyển giao một tài sản, thực hiện một việc hoặc không được thực hiện một việc vì lợi ích của mình hay lợi ích của người thứ ba, phải bồi thường một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của các bên có quyền. Chủ thể mang nghĩa vụ dân sự có nghĩa vụ thực hiện quyền yêu cầu của chủ thể mang quyền. Tuy nhiên, nghĩa vụ dân sự trong Bản án, Quyết định hình sự của Tòa án là một phạm trù có tích chất đặc biệt bởi chủ thể mang nghĩa vụ dân sự phải thi hành phát xét của Tòa án có tính bắt buộc cao. Nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự khác với các nghĩa vụ dân sự khác bởi đối tượng phải thi hành án phần nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự đa phần là đang trong thời hạn chấp hành hình phạt tù hoặc án cải tạo không giam giữ và trong cùng một bản án tồn tại cùng một lúc hai nghĩa vụ phát sinh là nghiã vụ dân sự và nghĩa vụ hình sự được thực thi bởi hai cơ quan thi hành án độc lập. Xét về mặt pháp lý, Điều 30, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có quy định như sau :Việc giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải 6 quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự lúc này có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Như vậy,ta hiểu nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là phần trách nhiệm dân sự trong bản án hinh sự mà đối tượng thi hành án phải thi hành đối với khoản thu NSNN hoặc người được thi hành án bao gồm các khoản: án phí, bồi thường, các hình phạt bố sung. Và có thể thấy trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự đã phát sinh nghĩa vụ dân sự của chủ thể. Đa phần khi Tòa án đưa ra phán quyết về các vụ án hình sự luôn kết hợp các nghĩa vụ dân sự trong đó. Các tội danh hình sự như Tàng tữ trái phép chất ma túy, Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc, Giết người, Lạm dụng quyền hạn, Tham ô tài sản, nhận hối lộ tài sản… khi đưa ra xét xử ngoài các hình phạt chính như phạt tù, chung than, tử hình… đều kèm theo một hoặc nhiều hình phạt bổ sung khác về nghĩa vụ dân sự điển hình như là phạt tiền bổ sung, truy thu tiền sung công quy nhà nước đối với tội danh Đánh bạc, Tổ chức đánh bạc; bồi thường thiệt hại đối với tội giết người hay bồi thường một phần nghĩa vụ dân sự đối với người bị kết án tội tham ô tài sản, nhận hối lộ tài sản nhằm giảm án. Khi tòa án ra phán quyết cuối cùng trong thời gian 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị án không có kháng cáo, bản án quyết định hình sự có hiệu lực thì chuyển giao cho cơ quan thi hành án hình sự thi hành phần nghĩa vụ hình sự và cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định đó. 1.1.2. Vai trò, tác động và hiệu quả của việc tổ chức thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của Tòa án nhân dân đối với công tác thi hành án dân sự 1.1.2.1. Chức năng nhiệm vụ cơ quan thi hành án dân sự 7 Ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL, quy định về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán, trong đó, khoản 3, Điều 3 của Sắc lệnh quy định: Ban Tư pháp xã có quyền “Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên”. Đây chính là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự trong chế độ mới; tiếp đó ngày 19/7/1946 Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án. Có thể nói, đây là văn bản của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án, thẩm quyền và thể thức thi hành bản án. Ngày 18 tháng 7 năm 1982, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao đã ký Thông tư liên ngành số 472 về công tác quản lý thi hành án trong thời kỳ trước mắt, trong đó quy định: Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng Thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án; tại các Toà án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án. Ngày 28 tháng 8 năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự đầu tiên được ban hành, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày 14/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm 2008, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay. Tiếp theo đó, ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự. Theo đó, Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự được 8 xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp. Ngày 25 tháng 5 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg về việc triển khai công tác thi hành hành chính, trong đó giao Bộ Tư pháp Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan: Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế công chức, tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan thi hành án dân sự bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả công tác thi hành án hành chính. Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, ngày 25 tháng 11 năm 2014 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2015, ngày 20 tháng 7 năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, các văn bản này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới. Theo quy định pháp luật hiện hành thì cơ quan Thi hành án dân sự là cơ quan trực tiếp thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định của Tòa án. Khi thi hành, cơ quan đã gặp không ít bản án, quyết định thiếu sót, vi phạm được thể hiện ngay trong bản án, quyết định đó. Chính vì thế, để tạo điều kiện thuận cho cơ quan thi hành bản án, quyết định một cách nhanh chóng, đúng pháp luật thì Luật thi hành án dân sự đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Thi hành án tại điều 14,15,16 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi năm 2014, trong đó: Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh bao gồm: 9 - Quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, bao gồm:Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự;Chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự cho Chấp hành viên, công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn;Kiểm tra công tác thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện… - Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định tại Điều 35 của Luật này. - Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; phối hợp với cơ quan Công an trong việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm chấp hành hình phạt tù và đặc xá cho người có nghĩa vụ thi hành án dân sự đang chấp hành hình phạt tù. - Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật này. - Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại địa phương theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp. - Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện trách nhiệm, quyền hạn theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 173 của Luật này. - Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện bao gồm: - Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 35 của Luật này. 10 - Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy địnhcủa Luật này. - Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. - Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. - Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự. - Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 của Luật này. - Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân khi có yêu cầu. Trình tự thủ tục thi hành án - Thụ lý thi hành án: tiếp nhận yêu cầu thi hành án, bản án, hồ sơ ủy thác; kiểm tra, xử lý yêu cầu thi hành án, bản án, hồ sơ ủy thác; ra quyết định thi hành án, phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành án. - Tổ chức thi hành án: lập hồ sơ thi hành án; thông báo về thi hành án; xác minh điều kiện thi hành án; xác minh việc chưa có điều kiện thi hành án, công khai thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án; tạm đình chỉ thi hành án , đình chỉ thi hành án, ủy thác thi hành án; miễn giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách; kiến nghị, xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; áp dụng biện pháp đảm bảo thi hành án; ra quyết định cưỡng chế thi hành án; tổ chức cưỡng chế thi hành án; thực hiện thẩm định giá tài sản; thược hiện bán đấu giá tài sản; tiêu hủy vật chứng, xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ bị tuyên tịch thu, sung công quỹ; trả lại tiền, tài sản tạm giữ cho đương sự; thu tiền, thanh toán tiền 11 thi hành án, thu phí thi hành án; xác nhận kết quả thi hành án; rà soát hồ sơ thi hành án. - Thẩm tra, lưu trữ hồ sơ thi hành án: Thẩm tra hồ sơ thi hành án; lưu trữ hồ sơ thi hành án. 1.1.2.2. Vai trò, tác động và hiệu quả của việc tổ chức thi hành phần nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự Thứ nhất, đảm bảo cho công tác xét xử diễn ra đúng luật, hợp lí. Việc thi hành nghĩa vụ trong bản án quyết định dân sự chính là góp phần đảm bảo cho công tác xét xử,thi hành án diễn ra đúng trình tự, thủ tục pháp luật. Thực hiện điều này góp phần nâng cao pháp chế của nhà nước, đảm bảo trật tự pháp luật. Thứ hai, đem lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự còn đem lại khoản thu lớn, góp phần làm tăng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện mở rộng hoạt động thi hành án. Thi hành nghĩa vụ dân sự điều chỉnh hành vi, giúp cho chủ thể cư sử đúng luật, đi vào nề nếp, quy củ. Thứ ba, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân. Thi hành nghĩa vụ dân sự có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thực thi công lý, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Hoạt động này không những góp phần trực tiếp, tích cực vào việc bảo vệ những quyền con người, quyền công dân mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và từng địa phương; cụ thể như góp phần tháo gỡ khó khăn, khơi thông, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh thông qua hoạt động thu hồi nợ, giảm nợ xấu và mở rộng tín dụng, bảo vệ quyền chủ nợ và thu hồi nợ của các tổ chức tín dụng hay nâng cao an sinh xã 12 hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua việc xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. 1.2. Pháp luật hiện hành về thi hành nghĩa vụ dân sự trong các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực của tòa án nhân dân Tại điều 30 Bộ luật hình sự có nêu: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án nhân dân quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó. Như vậy việc thi hành phần dân sự trong Bản án, Quyết định hình sự là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động thi hành án dân sự. Theo quy định tại Điều 1 “Phạm vi điều chỉnh” và mục 1 Chương V Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật THADS) thì những vụ việc dân sự phải thi hành án trong bản án, quyết định hình sự thuộc thẩm quyền của cơ quan THADS bao gồm: hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền (truy nộp), tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng; bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; bồi thường thiệt hại về tài sản… - Án phí hình sự: là án phí mà người bị xử phạt về hình sự phải nộp vào ngân sách nhà nước cho án sơ thẩm, án sơ thẩm đồng thời chung thẩm và án phúc thẩm cùng với việc xét xử về tội phạm, nếu còn xét xử về bồi thường thiệt hại, thì tòa án quyết định án phí theo số tiền bồi thường thiệt hại dựa vào mức quy định đối với những việc tranh chấp tài sản có giá trị trong án phí về dân sự. Nếu vụ án được kháng cáo mà toà phúc thẩm y án sơ thẩm thì người kháng cáo phải chịu án phí kháng cáo. Nếu tòa án phúc thẩm sửa hoặc huỷ án sơ thẩm thì ngườikháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.Theo danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 13 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy đinh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ quốc hội thì mức án phí hình sự sơ thẩm và án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng/ bị cáo. - Phạt tiền: là hình phạt có tính chất kinh tế, nhằm vào tài sản của người phạm tội, buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền để sung quỹ nhà nước. Hình phạt tiền áp dụng với những tội ít nghiêm trọng, được áp dụng là hình phạt chính khi có điều luật quy định. Ngoài ra phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính.Xét về nội dung và giá trị các tác động của hình phạt, phạt tiền tước bỏ một số quyền lợi vật chất của người bị kết án, tác động đến kinh tế (tình hình tài sản) của họ, và thông qua đó đạt mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. Về bản chất, biện pháp phạt tiền trong hình sự và hành chính đều là sự tước bỏ khoản tiền nhất định của người bị kết án, người vi phạm để sung quỹ Nhà nước. Biện pháp phạt tiền là hình phạt chính trong pháp luật hành chính, có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong pháp luật hình sự. Tuy nhiên, có thể thấy sự khác biệt rõ nét giữa hình thức phạt tiền trong hình sự và hành chính nằm ở nguyên tắc và thủ tục áp dụng. Phạt tiền trong pháp luật hành chính có thể được thể hiện bằng biên bản hoặc không. Phạt tiền trong pháp luật hình sự thì buộc phải được thể hiện trong bản án. Mức phạt tiền trong hình sự được áp dụng theo mức độ nghiêm trọng của tội đã phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người đã phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng mức tối thiểu là một triệu đồng thể hiện tính nghiêm khắc của chế tài hình sự so với chế tài hành chính có mức phạt tiền tối thiểu thấp hơn nhiều. - Tịch thu, sung quỹ nhà nước được áp dụng đối với công cụ, phương tiện dùng vào việc thực hiện phạm tội, đây là những công cụ, phương tiện mà 14 người phạm tội đã sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, như: dao, súng, xe máy được sử dụng để cướp tài sản; tiền được sử dụng để đánh bạc, đưa hối lộ,…Vật hoặc tiền có được do việc thực hiện tội phạm, như: xe máy, tiền có được do trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt,… hoặc do mua bán, chuyển nhượng, trao đổi với người khác, mang đi cầm xe máy trộm cắp được, gán nợ, tặng cho,…Vật thuộc loại Nhà nước cấm sản xuất, tang trữ, vận chuyển, mua bán, lưu hành, như: vũ khí quân dụng, pháo nổ, ma túy, chất phóng xạ, chất nổ, văn hóa phẩm đồi trụy,… Đây là những vật mà người phạm tội sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc là đối tượng của việc thực hiện tội phạm. Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành, là tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà nước. Tuy nhiên, nếu vật không còn giá trị sử dụng, vật cấm lưu hành là các chất ma túy, văn hóa phẩm đồi trụy thì tuyên tịch thu nhưng không sung quỹ Nhà nước mà tịch thu tiêu hủy theo quy định. - Tịch thu tài sản: là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước.Theo điều 45 Bộ luật hình sự có nêu: Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm đến an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định. Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện để sinh sống. Ví dụ: Vụ án đường dây ma túy Vũ Xuân Trường được phát hiện ở thời điểm năm 1996 và đã từng gây chấn động dư luận cả nước. Có 34 đối tượng tham gia mua bán, vận chuyển hơn 400kg heroin. TAND TP Hà Nội thời điểm ấy đã tuyên phạt 8 án tử hình và 7 án chung thân trong vụ án này.Là "đệ tử" trung thành của Vũ Xuân Trường, bản án đã tuyên Đào Xuân Xe mức án tử hình, ngôi nhà số 184 Khâm Thiên của Xe bị tịch thu sung công quỹ Nhà 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan