Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hóa...

Tài liệu Thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong quá trình cổ phần hóa công ty supe phốt phát và hóa chất lâm thao

.PDF
81
504
88

Mô tả:

MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các sơ đồ MỞ ĐẦU Chương 1: 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH 7 NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY SUPE PHỐT PHÁT VÀ HÓA CHẤT LÂM THAO 1.1. Quan niệm về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc 7 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc 11 1.1.2. Bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc 15 1.1.3. Vai trò cổ phần hóa 16 1.2. Nguyên tắc thực hiện cổ phần hóa 18 1.3. Sự cần thiết phải cổ phần hóa Công ty supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao 21 Chương 2: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ 24 NƯỚC TẠI CÔNG TY SUPE PHỐT PHÁT VÀ HÓA CHẤT LÂM THAO 2.1. Mục tiêu, chính sách cổ phần hóa của Công ty supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao 2.2.1. Mục tiêu cổ phần hóa của công ty 4 24 24 2.1.2 Chính sách cổ phần hóa của công ty 25 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình cổ phần hóa của Công ty supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao 26 2.2.1 Giai đoạn chuẩn bị cổ phần hóa 27 2.2.2 Giai đoạn tiến hành cổ phần hóa 34 2.2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp 47 Đánh giá về quá trình cổ phần hóa tại Công ty supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao 54 2.3. 2.3.1. Những ƣu điểm của công ty trong quá trình cổ phần hóa 54 2.3.2. Về nhƣợc điểm khi công ty tiến hành cổ phần hóa 56 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ 59 THI HÀNH PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA TẠI CÔNG TY SUPE PHỐT PHÁT VÀ HÓA CHẤT LÂM THAO 3.1. Những yêu cầu đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật cổ phần hóa tại Công ty supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao 59 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Công ty supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao 63 3.2.1. Về các quy định của pháp luật 64 3.2.2. Về quá trình tổ chức, thực hiện 69 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74 PHỤ LỤC 76 5 Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu b¶ng Tªn b¶ng Trang 2.1 Sơ đổ cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao 42 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đến nay, đất nƣớc ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong bƣớc chuyển đổi này, các doanh nghiệp nhà nƣớc là một bộ phận trọng yếu của kinh tế nhà nƣớc đã bộc lộ nhiều bất cập, hoạt động kém hiệu quả, chƣa thực sự tƣơng xứng với vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế nhiều thành phần. Trƣớc tình hình đó, Đảng và Nhà nƣớc đã có các chủ trƣơng về đổi mới các doanh nghiệp nhà nƣớc. Hàng loạt các giải pháp đã đƣợc tiến hành, trong đó có giải pháp chuyển đổi một số doanh nghiệp nhà nƣớc thành công ty cổ phần hay cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc mở ra triển vọng xây dựng nền kinh tế thị trƣờng lành mạnh và phong phú. Cổ phần hóa cũng tạo điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân, góp phần cải tiến quản lý kinh tế có hiệu quả hơn, bởi nó xóa đi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, tạo cơ hội cạnh tranh lành mạnh và phân phối lợi nhuận theo kết quả lao động. Trƣớc tình hình đó, Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm thao (lafchemco), tiền thân là nhà máy supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao đƣợc sự lãnh đạo của Đảng, nhà nƣớc và chính quyền địa phƣơng đã dần dần chuyển đổi hình thức sang công ty cổ phần theo cơ chế thị trƣờng, cải tiến công nghệ - kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và lợi nhuận. Vốn là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, trực thuộc Tổng công ty Hóa chất Việt Nam, công ty có nhiều lợi thế về điều kiện vị trí địa lý, cơ sở vật chất, vốn đầu tƣ kinh doanh của nhà nƣớc nên công ty nhanh chóng chiếm đƣợc lợi thế hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất phân bón tại Việt Nam. Ngoài ra công ty còn sản xuất 7 axit sunphuric, NaF, sunfit, phèn đơn, phèn kép... để phục vụ các ngành kinh tế khác. Ngày 31/12/2007 Tổng công ty Hóa chất Việt Nam đã ban hành Quyết định số 697/QĐ-HCVN về việc cổ phần hóa Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao với những phƣơng hƣớng đổi mới trong quản lý kinh doanh [1]. Trải qua gần 2 năm (từ năm 2007 đến 2009) tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, tuy là một doanh nghiệp nhà nƣớc lớn trong ngành phân bón Việt Nam trực thuộc Tổng công ty Hóa chất Việt Nam nhƣng cũng không tránh khỏi những khó khăn vƣớng mắc, dẫn đến cổ phần hóa diễn ra còn chậm và còn nhiều bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật. Chính vì vậy, nghiên cứu thực tiễn quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao là một việc cần thiết để hiểu thêm về thực tiễn cổ phần hóa doanh nghiệp tại Việt Nam, từ đó rút ra đƣợc những ƣu, nhƣợc điểm và một số kiến nghị nhằm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc còn lại và hoàn thiện lý luận pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc đang đƣợc sự quan tâm đặc biệt trong cả lý luận và thực tiễn hiện nay ở nƣớc ta. Trong hai mƣơi năm qua, đã có nhiều văn bản của Đảng, Chính phủ, các Bộ, các Ngành đƣợc ban hành về công tác cổ phần hóa. Lần đầu tiên Đảng ta đề cập đến chủ trƣơng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa VII (tháng 11/1991): "Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trƣớc khi mở rộng phạm vi thích hợp" [10]. Tiếp theo đó, các nghị quyết của Đảng tiếp tục đƣợc ban hành nhằm chỉ ra những hạn chế trong 8 các doanh nghiệp nhà nƣớc và vạch ra phƣơng hƣớng cần phải tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc, cụ thể nhƣ Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII nêu rõ nguyên nhân doanh nghiệp nhà nƣớc hoạt động kém hiệu quả và mục đích của cổ phần hóa, Nghị quyết số 10/NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nƣớc và Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 BCH TW khóa VIII tháng 12/1997 nhấn mạnh thêm về đẩy mạnh, đổi mới và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp nhà nƣớc. Từ đó đến nay, các văn kiện của Đảng tiếp tục đƣợc ban hành nhằm vạch ra phƣơng hƣớng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc nhƣ Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa IX, Nghị quyết hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ƣơng khóa IX và Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng vào tháng 4/2006 tiếp tục chỉ rõ: Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nƣớc, trọng tâm là cổ phần hóa. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nƣớc, tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hóa, kể cả tổng công ty nhà nƣớc. Việc xác định giá trị doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc cổ phần hóa, kể cả giá trị quyền sử dụng đất, phải theo cơ chế thị trƣờng. Đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc [11]. Và cho đến Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30 tháng 01 năm 2008 về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa tiếp tục xác định: Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc theo hƣớng nâng cao hiệu quả 9 doanh nghiệp, ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nƣớc đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của ngƣời lao động. Hoàn thiện chủ thể kinh doanh vốn nhà nƣớc để làm tốt chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc đối với vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp; ban hành mới cơ chế quản lý vốn nhà nƣớc sau cổ phần hóa doanh nghiệp [12]. Bên cạnh những văn kiện của Đảng và Chính phủ, cũng đã có nhiều đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, thạc sĩ, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học đề cập và nghiên cứu chuyên sâu về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc. Các công trình nghiên cứu đó đều thống nhất ở sự cần thiết phải thực hiện cổ phần hóa và hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hóa nhƣ của tác giả Trƣơng Văn Bân đã viết "Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; PGS.TS Lê Hồng Hạnh xuất bản cuốn sách "Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Bài viết của PGS.TS Phạm Thanh Tâm: "Cổ phần hóa doanh nghiệp xuất bản phẩm và vấn đề đặt ra", Tạp chí Mặt trận, số 67; hay Luận án tiến sĩ của tác giả Hoàng Kim Huyền viết về "Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp Việt Nam", năm 2003; Ở mức độ nghiên cứu ở trình độ luận văn thạc sĩ, cũng có những công trình nghiên cứu của các tác giả nhƣ: Vũ Trọng Lâm với đề tài "Thực trạng và giải pháp pháp lý đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của thành phố Hà Nội", năm 2005; Doãn Thị Dung với đề tài "Thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Tập đoàn bưu chính viễn Thông tại Việt Nam", năm 2009. Bên cạnh đó còn nhiều công trình nghiên cứu khác bàn về vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc và hầu hết các công trình nghiên cứu kể trên nghiên cứu việc cổ phần hóa một doanh nghiệp nhà nƣớc đơn lẻ độc lập, doanh nghiệp nhà nƣớc trực thuộc tổng công ty hoặc cổ phần hóa một bộ phận trực thuộc doanh nghiệp nhà nƣớc. Đó là tiền đề lý luận để từ đó luận 10 văn nghiên cứu, vận dụng vào thực tiễn cổ phần hóa tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao để so sánh và tìm ra đƣợc những mặt ƣu điểm và nhƣợc điểm, thuận lợi và khó khăn thực tế của doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa. 3. Mục đích của đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài. Về phạm vi nghiên cứu, vì cổ phần hóa DNNN là một nội dung rất lớn nên luận văn chỉ đi sâu vào phân tích vấn đề cổ phần hóa tại công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao, chỉ rõ đƣợc trong hơn 2 năm tiến hành cổ phần hóa của công ty, công ty đã áp dụng pháp luật trong thực tiễn cổ phần hóa nhƣ thế nào, có những khó khăn vƣớng mắc gì và những thành công trong quá trình cổ phần hóa mà công ty đã đạt đƣợc. Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định về thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc, từ đó tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao - là một doanh nghiệp nhà nƣớc lớn ở Phú Thọ tiến hành cổ phần hóa. Trên cơ sở tìm hiểu và phân tích vấn đề, luận văn tìm ra đƣợc những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình thi hành pháp luật cổ phần hóa tại một địa phƣơng, góp phần hoàn thiện thêm về pháp luật cổ phần hóa. Để đạt đƣợc mục đích này, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc; - Thực trạng và thực tiễn thi hành pháp luật cổ phần hóa tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao; 11 - Những thuận lợi và khó khăn mắc phải trong quá trình cổ phần hóa tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao; - Một số kiến nghị hoàn thiện và thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở bám sát những chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc trong đó có các doanh nghiệp nhà nƣớc quy mô lớn trong nền kinh tế thị trƣờng của Việt Nam. Luận văn vận dụng phƣơng pháp luận, các quy luật và phạm trù của triết học Mác - Lênin trong quá trình nghiên cứu mà hạt nhân là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp cũng đƣợc vận dụng kết hợp giải quyết những vấn đề mà đề tài tiếp cận nghiên cứu. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Khái quát chung về cổ phần hóa foanh nghiệp nhà nƣớc và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao. Chương 2: Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật cổ phần hóa tại Công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao. 12 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HÓA CÔNG TY SUPE PHỐT PHÁT VÀ HÓA CHẤT LÂM THAO 1.1. QUAN NIỆM VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là một chủ trƣơng lớn của Đảng và Nhà nƣớc, có nhiều tác động đến sự phát triển kinh tế của đất nƣớc, đời sống ngƣời lao động và những vấn đề xã hội khác nên đƣợc tiến hành một cách thận trọng với những bƣớc thí điểm ban đầu vào năm 1990 trên cơ sở pháp lý là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990. Sau đó, Chính phủ đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết về vấn đề này, nhƣ: Chỉ thị số 202 ngày 6-8-1992; Chỉ thị số 84 ngày 04-3-1993 của Thủ tƣớng Chính phủ; Nghị định số 28/NĐ-CP ngày 07-5-1996; Nghị định số 25/CP ngày 26-3-1997; Thông báo số 63 TB/TW ngày 04-4-1997 của Bộ Chính trị; Nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29-6-1998; Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19-6-2002, Chỉ thị số 45 ngày 22-10-2004 của Bộ Chính trị đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ƣơng 3, khóa IX về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nƣớc. Theo quan điểm của các quốc gia đã tiến hành cổ phần hóa nhƣ Trung Quốc, Malaisia, các nƣớc Đông Âu và Liên Xô cũ… thì việc xem xét vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn hơn, đó là quá trình tƣ nhân hóa. Tƣ nhân hóa theo nhƣ định nghĩa của Liên Hợp Quốc là sự biến đổi tƣơng quan giữa nhà nƣớc và thị trƣờng trong đời sống kinh tế của một nƣớc ƣu tiên thị trƣờng. Theo cách hiểu này thì toàn bộ chính sách, thể chế, luật lệ đều nhằm khuyến khích, mở rộng khu vực phát triển kinh tế tƣ nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt quyền sở hữu và sự can thiệp trực tiếp của nhà nƣớc vào các hoạt động kinh 13 doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, dành cho thị trƣờng vai trò điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua tự do giá cả, tự do lựa chọn đối tác và ngành nghề kinh doanh. * Quan niệm về cổ phần hóa của Trung Quốc Trung Quốc và Việt Nam không chỉ gần gũi nhau về địa lí mà còn có những tƣơng đồng về mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung trƣớc đây và các định hƣớng chuyển đổi hiện nay, vì vậy xem xét cổ phần hóa ở Trung Quốc là cần thiết cho việc cổ phần hóa ở Việt Nam. Trung Quốc dựa trên những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để tiến hành chuyển hóa doanh nghiệp nhà nƣớc; coi cổ phần hóa là bộ phận hữu cơ trong tổng thể đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc, luôn khẳng định đây là con đƣờng tìm kiếm hiệu quả kinh doanh chứ không phải là tìm kiếm các hình thức sở hữu khác nhau; đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc là khâu then chốt của cải cách kinh tế, coi tiền đề của cải cách là xây dựng đồng bộ cơ chế thị trƣờng. Mục tiêu cổ phần hóa ở Trung Quốc là mở rộng hình thức sở hữu tạo cơ sở cho sự phát triển của kinh tế thị trƣờng. Điều chỉnh lại vai trò của khu vực kinh tế nhà nƣớc nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nƣớc. Định hƣớng năng lực hành chính của nhà nƣớc giảm bớt tham nhũng và thói quen dựa dẫm vào nhà nƣớc, thay đổi mối quan hệ giữa những ngƣời quản lý hành chính với những ngƣời quản lý kinh tế. Và mục tiêu cuối cùng là thƣơng mại hóa hành vi quản lý tạo ra chế độ khuyến khích với các nhà quản lý, thay đổi lực lƣợng lao động, nâng cao thu nhập, tăng nguồn thu để trả nợ và cho các mục đích khác, cân bằng ngân sách. Hình thức cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở Trung Quốc là nhà nƣớc cùng với các doanh nghiệp trong nền kinh tế tham gia nắm giữ cổ phần để hình thành nên công ty cổ phần, theo đó công ty bán cổ phần cho ngƣời lao động trong nội bộ doanh nghiệp và phát hành công khai cổ phần ra xã hội. 14 Về phƣơng pháp cổ phần hóa, Trung Quốc tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc theo thứ tự doanh nghiệp có quy mô nhỏ rồi mới đến vừa và lớn, coi trọng hình thức công ty cổ phần mà nhà nƣớc nắm cổ phần chi phối các doanh nghiệp lớn. Về quy trình cổ phần hóa, Trung Quốc tiến hành đầy đủ các bƣớc nhƣ:  Xác định danh sách các doanh nghiệp nhà nƣớc có đủ điều kiện cổ phần hóa (kinh doanh có lãi không nằm trong diện doanh nghiệp nhà nƣớc cần phải nắm giữ 100% vốn);  Xác định thực tế tài sản doanh nghiệp;  Tuyên truyền quảng cáo hoàn thiện chính sách để mọi ngƣời nắm đƣợc thực chất hoạt động của doanh nghiệp và có quyết định mua cổ phần;  Lựa chọn phƣơng thức bán cổ phần rộng rãi cho công chúng hay bán cho các đối tƣợng đã xác định trƣớc, mức giá bán cổ phiếu ƣu đãi;  Giải quyết các vấn đề hậu cổ phần hóa. * Quan niệm về cổ phần hóa của một số nước ASEAN Các nƣớc ASEAN có đặc điểm chung là hầu hết nền kinh tế các nƣớc đều có tốc độ tăng trƣởng nhanh và tƣơng đối ổn định. các doanh nghiệp nhà nƣớc hoạt động theo cơ chế thị trƣờng là chính chỉ có một bộ phần nhỏ là hoạt động công ích chính vì vậy hiệu quả kinh doanh đƣợc đặt lên hàng đầu. Nếu các doanh nghiệp nhà nƣớc mà hoạt động không hiệu quả thì sẽ bị giải thể hoặc phá sản. Mục đích chính của cổ phần hóa ở các nƣớc ASEAN là: Nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà nƣớc nói riêng, của toàn bộ nền kinh tế nói chung, xây dựng lại cơ cấu kinh tế theo hƣớng ƣu tiên kinh tế tƣ nhân, tạo môi trƣờng kinh doanh tích cực đảm bảo công bằng giữa các thành phần kinh tế xóa bỏ một phần lối kinh doanh độc quyền kém hiệu quả của kinh tế nhà nƣớc, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nƣớc. Singapore và Malaisia là hai nƣớc tƣơng đối thành công trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc. 15 Tại Singapore nhà nƣớc đã sớm soạn thảo một chƣơng trình cổ phần hóa có hệ thống phù hợp với đặc điểm tình hình trong nƣớc, một ủy ban tƣ nhân hóa khu vực kinh tế nhà nƣớc đƣợc thành lập đã đề ra chƣơng trình cổ phần hóa hoàn chỉnh dự định kéo dài trong 10 năm. Các doanh nghiệp nhà nƣớc làm ăn có lãi đƣợc chọn là đối tƣợng cổ phần hóa trƣớc tiên. Thành công nhất trong cổ phần hóa ở Singapore là đã không để xẩy ra tình trạng thâm hụt ngân sách, vẫn duy trì đƣợc mức tăng trƣởng và tích lũy cao. do vậy mà hầu hết các mục tiêu cổ phần hóa Singapore đề ra đều đã đạt đƣợc. Malaisia đã thay đổi các chính sách kinh tế theo đó lấy cải cách khu vực kinh tế nhà nƣớc làm trọng tâm. Chuyển khoảng 20% số doanh nghiệp nhà nƣớc hiện có sang công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nƣớc theo hƣớng hoạt động có hiệu quả, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nƣớc, hạ mức nợ của chính phủ. Malaisia đã chấp nhận xóa bỏ một phần sở hữu nhà nƣớc theo quan niệm doanh nghiệp nhà nƣớc trong một số ngành thuộc hạ tầng cơ sở hoặc dịch vụ trƣớc đây tƣ nhân không đầu tƣ nên nhà nƣớc phải chịu trách nhiệm. Còn bây giờ khu vực kinh tế tƣ nhân đã đủ sức vƣơn tới những lĩnh vực này thì nên thu hẹp phần doanh nghiệp nhà nƣớc không chỉ các xí nghiệp làm ăn thua lỗ mà còn cả những xí nghiệp làm ăn có lãi. Qua kinh nghiệm của các nƣớc ta thấy cổ phần hóa không bao giờ dễ dàng song nhiều nƣớc đã thành công. Điều kiện của chúng ta hiện nay là tƣơng đối thuận lợi, vì vậy phải tranh thủ đẩy mạnh cổ phần hóa, phải mạnh dạn trong suy nghĩ và hành động và có quyết tâm cao thì mới đạt đƣợc kết quả nhƣ ý muốn. * Quan niệm về cổ phần hóa của Việt Nam Từ quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, Đảng và Nhà nƣớc ta đã rút ra kinh nghiệm để tiến hành cổ phần hóa đƣợc hoàn chỉnh và toàn diện hơn. Theo quan điểm của 16 Đảng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc tiến hành nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh; đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trƣờng; huy động vốn từ các thành phần kinh tế; tăng cƣờng quản lý dân chủ. Đảng và Nhà nƣớc khẳng định cổ phần hóa ở Việt Nam không phải là tƣ nhân hóa vì cổ phần hóa hƣớng tới tháo gỡ khó khăn về vốn, về cơ chế cho doanh nghiệp nhà nƣớc hiện có, không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nƣớc trong nền kinh tế quốc dân. Vốn thu đƣợc từ bán cổ phần, Nhà nƣớc không chi dùng cho ngân sách mà để đầu tƣ tiếp vào nền kinh tế. Theo quan điểm của Đảng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là việc nhà nƣớc bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản doanh nghiệp của mình cho các cá nhân hay tổ chức kinh tế trong hoặc ngoài nƣớc, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân viên của chính doanh nghiệp nhà nƣớc thông qua đấu thầu công khai, hay thông qua thị trƣờng chứng khoán để hình thành nên các công ty cổ phần [25]. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là vấn đề rất mới đối với Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc của các nƣớc trên thế giới đặc biệt là các nƣớc có điều kiện tƣơng đồng nhƣ: Trung Quốc, Nga, các nƣớc ASEAN để tìm kiếm kinh nghiệm có thể vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam là vô cùng quan trọng. Nói tóm lại, quan niệm về cổ phần hóa của các quốc gia đều hƣớng tới nội dung chung nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng cách tƣ nhân hóa. Cổ phần hóa chính là phƣơng thức thực hiện xã hội hóa sở hữu - Chuyển hình thức kinh doanh từ một chủ sở hữu là doanh nghiệp nhà nƣớc thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp hơn với nền kinh tế thị trƣờng và đáp ứng đƣợc nhu cầu của kinh doanh hiện đại. 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Thuật ngữ cổ phần hóa xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, gắn với công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc. 17 Cho đến nay, dƣờng nhƣ mọi ngƣời mặc nhiên sử dụng thuật ngữ cổ phần hóa, mà chƣa quan tâm nhiều tới việc định nghĩa hay đƣa ra một khái niệm đầy đủ cho thuật ngữ này. Không chỉ ở Việt Nam mà ngay trên thế giới cũng chƣa thấy có học giả hay nhà nghiên cứu khoa học nào đƣa ra khái niệm về cổ phần hóa. Có nhiều ý kiến cho rằng, cổ phần hóa doanh nghiệp tại Việt Nam cũng không khác gì quá trình tƣ nhân hóa ở các quốc gia trên thế giới. Nhƣng theo quan điểm của ông Hồ Xuân Hùng - Phó Trƣởng ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ƣơng lại khẳng định: Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc hoàn toàn không phải là tƣ nhân hóa. Với những doanh nghiệp nhà nƣớc nắm giữ trên 50% vốn sau khi cổ phần, thì theo luật doanh nghiệp nó vẫn là doanh nghiệp nhà nƣớc. Vì vậy không nên băn khoăn nó là tƣ nhân hay là nhà nƣớc [23]. Nhƣ vậy, theo quan điểm của ông Hồ Xuân Hùng thì những doanh nghiệp nhà nƣớc nào mà sau khi đƣợc cổ phần hóa, nhà nƣớc vẫn nắm giữ trên 50% vốn điều lệ thì bản chất của nó không thay đổi, vẫn là doanh nghiệp của nhà nƣớc bởi nhà nƣớc nắm mọi quyền quyết định đối với doanh nghiệp. Phải chăng nó chỉ khác ở chỗ là bên cạnh chủ sở hữu là nhà nƣớc còn có nhiều cá nhân, tổ chức khác cũng là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Theo quan điểm về khái niệm cổ phần hóa của Thạc sĩ Nguyễn Hồng Nhung đƣợc trình bày trong Luận văn thạc sĩ Luật học của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2004 với đề tài: "Cổ phần và cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nƣớc", thì cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là nhà nƣớc (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu), chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc sang hoạt động theo quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp [19]. Theo khái niệm này, cổ phần hóa doanh nghiệp chính là làm đa dạng các chủ sở hữu doanh nghiệp, đồng thời chuyển đổi nguồn luật điều chỉnh 18 doanh nghiệp từ luật doanh nghiệp nhà nƣớc sang luật doanh nghiệp. Khái niệm này mới chỉ nêu đƣợc khái quát vấn đề về chuyển đổi doanh nghiệp đó là đa dạng chủ sở hữu và chuyển đổi nguồn luật điều chỉnh chứ chƣa nêu rõ đƣợc bản chất của loại hình doanh nghiệp đƣợc chuyển đổi. Sau khi nghiên cứu và tìm hiểu ở các nguồn tài liệu, bản thân tác giả đƣa ra một khái niệm chung chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc: Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là quá trình chuyển doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nƣớc sang hình thức công ty cổ phần thông qua quá trình chào bán các cổ phiếu chứng nhận quyền sở hữu doanh nghiệp cho các cổ đông. Hay có thể hiểu là thông qua quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc mà doanh nghiệp trƣớc đây thuộc sở hữu 100% vốn của Nhà nƣớc hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc chuyển sang một loại hình doanh nghiệp công ty cổ phần có nhiều chủ sở hữu, trong đó Nhà nƣớc có thể là một cổ đông để hoạt động theo luật Doanh nghiệp. Khái niệm trên đây cho thấy rõ hình thức chuyển đổi doanh nghiệp từ doanh nghiệp nhà nƣớc chỉ có một chủ sở hữu sang công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu đƣợc gọi là các cổ đông, phƣơng thức chuyển đổi là phát hành cổ phiếu chứng nhận quyền sở hữu và nguồn luật điều chỉnh cho loại hình doanh nghiệp mới đƣợc chuyển đổi là Luật Doanh nghiệp. Nhƣ vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp không phải quá trình tƣ nhân hóa, mà là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Nhà nƣớc sẽ chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nƣớc cho các cá nhân, tổ chức khác mà thƣờng là có ba tổ chức, cá nhân chính: Nhà nƣớc, ngƣời lao động trong doanh nghiệp và cổ đông ngoài doanh nghiệp, nhằm đa dạng hóa các chủ sở hữu cho doanh nghiệp, góp phần tạo sự năng động và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nƣớc, phát huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp 19 trong việc thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao. Thực hiện tốt chủ trƣơng cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nƣớc để huy động thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản thuộc sở hữu nhà nƣớc ngày càng tăng lên. Từ đó, doanh nghiệp không còn hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc nữa mà sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Từ khái niệm trên đây, ta có thể rút ra đƣợc một số đặc điểm của cổ phần hóa: Thứ nhất, cổ phần hóa là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, hay còn gọi là đa sở hữu. Doanh nghiệp đƣợc cổ phần hóa sẽ không chỉ có một chủ sở hữu độc quyền quyết định mọi vấn đề về đầu tƣ, kinh doanh mà sẽ có các chủ sở hữu - Đƣợc gọi là các cổ đông cùng đóng góp vốn và đều có quyền tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quyền và lợi ích của doanh nghiệp không chỉ là của một chủ sở hữu mà là của nhiều chủ sở hữu tham gia góp vốn đầu tƣ vào doanh nghiệp. Thứ hai, cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần. Đây là hình thức chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, liên quan đến nguồn luật điều chỉnh doanh nghiệp. Sau khi chuyển đổi, doanh nghiệp sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp năm 2005 theo hình thức công ty cổ phần chứ không nằm trong sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhà nƣớc năm 2003. Thứ ba, quá trình cổ phần hóa được tiến hành thông qua hình thức nhà nước bán một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Thực tế, các doanh nghiệp nhà nƣớc đƣợc cổ phần hóa lại dƣới sự điều khiển và chỉ đạo của chính chủ sở hữu doanh nghiệp, nên thƣờng nhà nƣớc vẫn chiếm giữ tỉ lệ phần trăm vốn góp rất lớn trong doanh nghiệp đƣợc cổ phần 20 hóa. Nếu nhƣ nhà nƣớc muốn nắm giữ tỉ lệ phần trăm vốn góp lớn, thì các doanh nghiệp tƣ nhân chỉ còn lại phần mà Nhà nƣớc cho phép tƣ nhân đƣợc đóng góp vốn. 1.1.2. Bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Theo cách hiểu thông thƣờng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc có nghĩa là chia phần vốn của doanh nghiệp nhà nƣớc ra thành các phần, cá nhân, tổ chức có thể mua phần vốn đó và sẽ trở thành chủ sở hữu của công ty. Về thực chất, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là quá trình tƣ nhân hóa. Ta có thể xem xét bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc dựa trên hai khía cạnh đó là bản chất pháp lý và khía cạnh chính trị [19]. Về bản chất pháp lý, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là thay đổi về chủ sở hữu. Doanh nghiệp vốn từ một chủ sở hữu là nhà nƣớc, sau khi đƣợc cổ phần hóa sẽ chuyển sang doanh nghiệp có đa chủ sở hữu. Các cá nhân, tổ chức có năng lực tài chính có thể mua cổ phần đóng góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và cùng với nhà nƣớc là đồng chủ sở hữu của doanh nghiệp. Các chủ sở hữu có quyền lợi và nghĩa vụ của mình tƣơng đƣơng với phần vốn góp đó, đƣợc hƣởng lợi nhuận, chức vụ và địa vị trong doanh nghiệp tƣơng đƣơng với tài sản của mình bỏ ra để đóng góp vào doanh nghiệp. Về khía cạnh chính trị, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc không nhằm mục tiêu tƣ nhân hóa nền kinh tế, mà cổ phần hóa đƣợc coi là quá trình tƣ nhân hóa một phần. Nhà nƣớc vẫn giữ phần vốn góp nhất định, thậm chí là chi phối trong doanh nghiệp đƣợc cổ phần. Nếu nhƣ nhà nƣớc vẫn nắm giữ chi phối đa phần vốn góp (trên 50%), thì bản chất doanh nghiệp đó vẫn đƣợc coi là doanh nghiệp của nhà nƣớc, và nhà nƣớc có quyền quyết định cao nhất trong lĩnh vực điều hành và quản lý doanh nghiệp. Còn trong trƣờng hợp nhà 21 nƣớc nắm giữ một phần vốn góp (dƣới 50%) thì nhà nƣớc chỉ có quyền biểu quyết dựa trên số phần trăm vốn góp của mình. Có thể nói, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc không nhằm xóa bỏ hoàn toàn sở hữu nhà nƣớc trong các cơ sở kinh tế công mà chỉ giảm mức độ sở hữu. Quá trình cổ phần hóa đƣa tƣ nhân vào cùng làm chủ sở hữu, trong đó có cả ngƣời lao động từng làm trong doanh nghiệp, có thể có cá nhân, tổ chức là ngƣời nƣớc ngoài… Đây chính là đồng chủ sở hữu cùng có tiếng nói quyết định đến sự phát triển của doanh nghiệp, đƣa nền kinh tế của đất nƣớc dần dần phát triển và hội nhập quốc tế theo đúng định hƣớng tiến lên xã hội chủ nghĩa. 1.1.3. Vai trò cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nƣớc là một bộ phận trong thành phần kinh tế nhà nƣớc. Việc sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc là nhằm trực tiếp nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nƣớc, đảm bảo doanh nghiệp nhà nƣớc làm tốt nhiệm vụ nòng cốt, phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nƣớc, qua đó, phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế khác. Do vậy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc trong nền kinh tế quốc dân có những vai trò chủ đạo sau: Thứ nhất, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng như cổ phần hóa các doanh nghiệp nói chung trong các thành phần kinh tế khác là xử lý về mặt quan hệ sản xuất để phát triển lực lượng sản xuất, kết hợp chặt chẽ lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Với vai trò này, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc góp phần vào cải tạo lực lƣợng sản xuất sao cho phù hợp với quan hệ sản xuất, giải quyết nhanh chóng mâu thuẫn chênh lệch giữa mối quan hệ sản xuất với lực lƣợng sản xuất, đem lại sự năng động ở tƣ duy, hiện đại ở công cụ lao động và học thức trình độ cao ở tay nghề nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lƣợng sản phẩm hàng hóa và sinh nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. 22 Thứ hai, cổ phần hóa góp phần tích cực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các doanh nghiệp động viên và tập trung đƣợc những khoản vốn lớn để đổi mới công nghệ, đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy và tận dụng những ƣu điểm của lực lƣợng sản xuất, làm động lực đẩy mạnh cổ phần hóa, không ngừng cải thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp. Cổ phần hóa là đòn bẩy để các doanh nghiệp tích cực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trƣờng để tìm kiếm nhiều lợi nhuận. Đây là mối quan hệ không thể tách rời. Thứ ba, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn góp phần làm thay đổi tư duy xã hội chủ nghĩa theo chế độ bao cấp lỗi thời lạc hậu, thay vào đó là tư duy năng động, nhạy bén trước tình hình biến đổi của kinh tế thế giới. Chế độ một chủ sở hữu là nhà nƣớc thực hiện chính sách bao cấp đã lỗi thời, lạc hậu, cần thay vào đó là chế độ đa chủ sở hữu cùng hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận trƣớc nhiều thách thức và khó khăn của nền kinh tế. Từ đó, mau chóng chuyển đổi cơ cấu kinh tế sang công nghiệp và dịch vụ, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mục tiêu của Đảng và Nhà nƣớc đề ra. Cuối cùng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn góp phần làm chuyển dịch các thành phần kinh tế, cụ thể: Từ việc doanh nghiệp nhà nƣớc do nhà nƣớc làm chủ, đƣợc xếp trong thành phần kinh tế nhà nƣớc, do nhà nƣớc quản lý và chi phối, thì sau khi cổ phần hóa, doanh nghiệp đƣợc cổ phần sẽ có sự thay đổi chuyển dịch về các thành phần kinh tế khác. Trong những doanh nghiệp cổ phần có ba chủ sở hữu, nếu sở hữu của tập thể ngƣời lao động chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tập thể. Nếu sở hữu nhà nƣớc và sở hữu tƣ bản tƣ nhân chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tƣ bản nhà nƣớc. Còn trƣờng hợp sở hữu tƣ bản tƣ nhân chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tƣ bản tƣ nhân. Nhƣ vậy, thành 23
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan