Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thi pháp trò chơi trong lolita của v. nabokov...

Tài liệu Thi pháp trò chơi trong lolita của v. nabokov

.PDF
101
197
123

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ THỊ THANH NHÀN THI PHÁP TRÒ CHƠI TRONG LOLITA CỦA V. NABOKOV LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài Hà Nội – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------------------------- LÊ THỊ THANH NHÀN THI PHÁP TRÒ CHƠI TRONG LOLITA CỦA V. NABOKOV Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học nƣớc ngoài Mã số: 60 22 02 45 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Nhƣ Trang Hà Nội – 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; những nhận định, kết luận trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày tháng năm 2014 Tác giả luận văn Lê Thị Thanh Nhàn LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Thị Như Trang - người đã tận tình giúp đỡ, khích lệ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Văn học, Phòng Sau đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, tôi xin được tri ân tới gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này! Hà Nội, ngày tháng năm 2013 Tác giả luận văn Lê Thị Thanh Nhàn MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2 3. Phạm vi, đối tƣợng và mục đích nghiên cứu ....................................... 10 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 10 5. Kết cấu luận văn..................................................................................... 11 CHƢƠNG 1: THI PHÁP TRÒ CHƠI TRONG VĂN HỌC ..................... 12 1.1.Trò chơi (game) và sự chơi (play)....................................................... 12 1.2.Lý thuyết về trò chơi trong văn học ................................................... 16 1.3.Quan niệm của V.Nabokov về trò chơi .............................................. 27 CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT – NGƢỜI CHƠI VÀ CÁC HÌNH THỨC ÁM CHỈ, GIỄU NHẠI.......................................................................................... 32 2.1.Nhân vật – ngƣời chơi.......................................................................... 32 2.1.1. Annabel và Lolita. ......................................................................... 33 2.1.2. Valeria – người vợ đầu của Humbert và Charlotte – người vợ thứ hai ......................................................................................................... 35 2.1.3. Lolita và người mẹ Charlotte. ....................................................... 36 2.1.4. Annabel, Valeria, Lolita. ............................................................... 37 2.1.5. Humbert với Clare Quilty. ............................................................. 38 2.1.6. Các mặt đối lập trong con người Humbert. .................................. 40 2.2. Các hình thức ám chỉ, giễu nhại ........................................................ 44 2.2.1. Ám chỉ ............................................................................................. 44 2.2.2. Giễu nhại ........................................................................................ 58 Tiểu kết: ...................................................................................................... 63 CHƢƠNG 3: “THẾ GIỚI CHƠI” VÀ DIỄN TIẾN TRÒ CHƠI ............ 65 3.1. Không – thời gian của Lolita: một “thế giới chơi” .......................... 65 3.1.1. Sự đan cài, đối lập của các lớp thời gian...................................... 65 3.1.2. Không gian mang ý nghĩa biểu trưng ........................................... 69 3.2. Sự kết hợp của cốt truyện trinh thám, phiêu lƣu, tam giác tình yêu và diễn tiến “mở” của trò chơi .................................................................. 73 3.2.1. Cốt truyện kiểu tam giác tình yêu ................................................. 73 3.2.1. Cốt truyện kiểu trinh thám ............................................................ 78 3.2.3. Cốt truyện phiêu lưu ...................................................................... 82 3.2.4. Cốt truyện matryoshka (búp bê mẹ-con)....................................... 84 Tiểu kết: ...................................................................................................... 85 KẾT LUẬN .................................................................................................... 87 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Vladimir Vladimirovich Nabokov (1899 – 1977) là nhà văn, nhà thơ, dịch giả Nga, sáng tác bằng tiếng Nga và tiếng Anh – một trong những hiện tượng lớn nhất của văn học Nga hải ngoại và cũng là một trong những cây bút kiệt xuất nhất thế kỷ XX. Ảnh hưởng văn xuôi của V.Nabokov đối với chủ nghĩa hậu hiện đại Mỹ, Tây Âu và Nga đã được thừa nhận rộng rãi từ lâu. Chẳng hạn, ở bài báo Văn học của sự đổi mới (The Literature of Replenishment, 1967) John Barth đã xếp V.Nabokov bên cạnh H. L. Borges và gọi ông là một trong những Người tiên phong đưa ra cách hiểu mới về văn học. 1.2. Sở hữu nhiều tác phẩm nổi tiếng thế giới nhưng đáng kể nhất trong sự nghiệp sáng tác của V.Nabokov là Lolita. Tác phẩm này ban đầu được viết bằng tiếng Anh và xuất bản năm 1955 tại Paris, sau đó được chính tác giả dịch sang tiếng Nga và xuất bản năm 1967 tại New York. Sau khi ra đời, Lolita trở thành tâm điểm của những cuộc tranh luận kéo dài, từng bị từ chối, bị hắt hủi, bị chỉ trích, bị cấm đoán. Nhưng cũng chính Lolita đó đã được dịch và xuất bản tại gần 40 quốc gia, đứng trong Top 100 tác phẩm xuất sắc nhất mọi thời đại, Top 100 tiểu thuyết vĩ đại nhất thế kỉ XX, Top 10 tác phẩm gây nhiều tranh cãi nhất thế giới [23].Tác phẩm có thể coi là tiêu biểu, mang đậm cảm quan sáng tác hậu hiện đại – hình thành từ khoảng cuối thế chiến thứ nhất, được thừa nhận như hiện tượng thẩm mỹ chung của văn hóa phương Tây ở đầu những năm 80 và ảnh hưởng sâu rộng tới quá trình sáng tác, phê bình và tiếp nhận văn học trên toàn thế giới tới ngày nay. 1.3. Theo nhiều nhà nghiên cứu, về niên đại và lộ trình, Lolita ra đời vào thời điểm xuất hiện và tồn tại của chủ nghĩa hậu hiện đại. Đó là thời kỳ mà thế giới có nhiều biến động về lịch sử, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ 1 thuật… làm thay đổi sâu sắc nền tảng tư duy của con người. Đây cũng chính là giai đoạn mà lý thuyết trò chơi trở nên phổ biến và được nghiên cứu lại một cách có hệ thống ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trải rộng từ triết học, tâm lý học, mỹ học, nhân học cho đến chính trị, luật pháp, kinh tế, toán học, vật lý, công nghệ thông tin… Hơn nữa, tác giả của nó – V.Nabokov là nhà văn hải ngoại người Nga nên có thể coi ông thuộc nhóm những người sáng tác ngoại vi. Sáng tác của những bộ phận ngoại vi, chiếm số ít trong văn học thế giới hiện nay như văn chương của phụ nữ, của giới đồng tính, da màu, dân thuộc địa cũ… Chúng thường hướng đến lối viết mang tính trò chơi với những thủ pháp điển hình như biếm phỏng (parody), nhại lại (pastiche), lai ghép, làm lệch chuẩn ngôn ngữ… Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng sâu sắc của thời đại, bản thân V.Nabokov cũng rất ý thức trong việc tạo nên trò chơi trong các tác phẩm của mình. Có thể khẳng định, bản chất của Lolita là trò chơi. Vì thế, nghiên cứu thi pháp trò chơi trong tiểu thuyết Lolita là điều cần thiết, là bước đi hợp lí để hiểu phong cách V.Nabokov. Vì những lý do trên, người viết chọn đề tài Thi pháp trò chơi trong “Lolita” của V.Nabokov mong góp một phần nhỏ vào hành trình khám phá cuốn tiểu thuyết vĩ đại vẫn còn rất mới mẻ và chứa nhiều điều bí ẩn, hấp dẫn với độc giả Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề Ngay từ khi ra đời, trong hơn nửa thế kỷ qua, Lolita nhận được nhiều sự quan tâm của giới phê bình với nhiều thái độ, cách tiếp cận khác nhau thậm chí trái chiều nhau. Số lượng các công trình nghiên cứu bằng tiếng Anh và tiếng Nga về tác phẩm này đến nay khó có thể thống kê được. Trên thế giới, phân ngành V.Nabokov học (tiếng Nga: Набоковедение, tiếng Anh: Nabokov Studies) đã và đang tồn tại với 3 nhóm lớn: những công trình do Nga kiều viết riêng về Nabokov-Sirin; những công trình của các tác giả 2 nước ngoài; những công trình của các học giả trong nước Nga, chủ yếu xuất hiện thời kỳ cải tổ và hậu Xô Viết. Ba nhóm công trình trên tựu trung nghiên cứu 4 phương diện trong di sản nghệ thuật của V.Nabokov: tiểu sử sáng tác; đặc điểm sáng tác nói chung của từng tác phẩm cụ thể nói riêng; V.Nabokov – người tường giải văn hóa Nga, hoạt động dịch thuật của nhà văn; V.Nabokov nói về bản thân mình. Trong khả năng của mình, chúng tôi quan tâm đến những tài liệu nghiên cứu bằng tiếng Anh về Lolita. Tài liệu mới nhất, gần gũi nhất với đề tài luận văn của chúng tôi có thể kể tới là luận án tiến sĩ Nabokov and Play (Tạm dịch: Nabokov và trò chơi) của Thomas Karshan (2006). Công trình này được chia làm sáu chương đã nghiên cứu một cách công phu, kỹ lưỡng về quan niệm trò chơi của V.Nabokov. Trong đó, tác giả luận án đã tìm hiểu tường tận tiểu sử của V.Nabokov để thấy được nguồn gốc hình thành và quan niệm của nhà văn về trò chơi, những ảnh hưởng tư tưởng của các nhà triết học khác tới V.Nabokov về đề tài này. Từ đó, tác giả luận án đi vào chứng minh các mặt thể hiện của thi pháp trò chơi thông qua một số tác phẩm tiêu biểu của V.Nabokov như: Pale Fire/Lửa nhạt, King, Queen, Knave/Vua, Hoàng hậu, Kẻ bất lương, The Luzhin Defense/Nước phòng thủ của Luzhin, The Gift/Quà tặng, Memory/Ký ức, Bend Sinister/Tai họa dồn đến, Lolita,… Điều này cho thấy, V.Nabokov hoàn toàn có chủ ý trong việc sắp đặt mỗi tác phẩm theo một cuộc chơi nhất định, với những cách thức khác nhau. Bên cạnh luận án này, chúng tôi cũng quan tâm đến một số công trình nghiên cứu khác về thi pháp trò chơi trong sáng tác của V.Nabokov như: luận án tiến sĩ của Janet Gezari năm 1971 mang tên Game Fiction: The World of Play and the Novels of Vladimir Nabokov (tạm dịch: Tiểu thuyết trò chơi: Thế giới chơi và tiểu thuyết của Nabokov) và tiểu luận năm 1979 của Mark Lilly Nabokov: Homo Ludens (Tạm dịch: Nabokov: Người chơi). Luận án của Janet 3 Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com blog giáo dục, công nghệ được Thomas đánh giá là công trình dài nhất nghiên cứu về chủ đề này. Tuy nhiên, điểm hạn chế của công trình này là chưa đi vào lý giải nguồn gốc, bối cảnh làm nảy sinh những mô tả của V.Nabokov về trò chơi, mối quan hệ giữa chúng và những ý tưởng, giá trị thẩm mỹ đằng sau đó. Tiểu luận năm 1979, của Mark Lilly trình bày lại giải thích của Gezari về các trò chơi trong sáng tác của V.Nabokov như xung đột giữa tác giả và người đọc. Lilly viết rằng, tiểu thuyết của V.Nabokov thực sự trở thành trò chơi mà trong đó các độc giả là những người chơi. Nhiệm vụ của họ là tìm ra lời giải những vấn đề được thiết lập bởi tiểu thuyết gia bậc thầy về trò chơi (V.Nabokov). Ra đời hơn nửa thế kỷ qua nhưng dường như Lolita vẫn còn rất nhiều điều thú vị thu hút các nhà nghiên cứu. Mấy năm trở lại đây, vẫn có không ít bài báo tiếp tục khám phá những ẩn số đằng sau tác phẩm này. Có thể kể tới một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí Nabokov Studies, chẳng hạn như: – Michael McGehee (2009/2011), Lolita and Transatlantic Family Structures, Nabokov Studies, Volume 12, 2009/2011, pp. 131-145. – Marie Bouchet (2010), Music and Songs in Lolita, novel and film, Miranda. – John Wasmuth (2009). Unreliable Narration in Vladimir Nabokov’s Lolita. – Steven F. Walker (2009), Nabokov’s Lolita and Goethe’s Faust: The Ghost in the Novel, Comparative Literature Studies, Volume 46, Number 3, 2009, pp. 512-535. – Julian W. Connolly , Nabokov's Dialogue with Dostoevsky: Lolita and The Gentle Creature, Nabokov Studies, Volume 4, 1997, pp. 15-36. – Heather Menzies Jones (1995), Nabokov’s Dark American Dream: Pedophilia, Poe, and Postmodernism in Lolita. – Mathew Winston (1975), Lolita and the Dangers of Fiction in Twentieth Century Literature, Vol. 21, No. 4, December. – Carl R. Proffer (1968), Keys to Lolita, Indiana University Press. 4 Kho tài liệu miễn phí của Ket-noi.com blog giáo dục, công nghệ Các bài báo này gợi ý cho chúng tôi rằng khi nghiên cứu thi pháp trò chơi trong Lolita không thể không quan tâm đến cách thức trần thuật, đến mối liên hệ liên văn bản giữa văn bản của V.Nabokov với văn bản của một số nhà văn khác, đến “dung môi” hậu hiện đại mà Lolita tồn tại… Có thể thấy, danh tiếng của cuốn tiểu thuyết này đã rộng khắp từ mấy chục năm nay nhưng mãi đến tháng 3/2012 bản tiếng Việt mới đến được Việt Nam. Chỉ hơn một tháng phát hành, tiểu thuyết Lolita đã trở thành “bestseller” trên thị trường sách, gây được tiếng vang và sự chú ý của giới truyền thông và bạn đọc. Hàng loạt bài viết về tác phẩm xuất hiện khá dày trên mạng internet. Hiệu ứng này là tất yếu bởi Lolita vốn là tác phẩm kinh điển nổi tiếng toàn thế giới và có sức ảnh hưởng lớn trong văn học và đời sống như đã phân tích ở trên nên độc giả trong nước rất hào hứng khi Lolita được dịch sang tiếng Việt. Mặt khác, bản dịch tiếng Việt của dịch giả Dương Tường cũng chịu số phận gây tranh cãi giống như nguyên gốc tác phẩm bởi việc chuyển ngữ và dẫn nguồn chú giải. Về vấn đề dịch thuật, một số bài viết tranh luận về những lỗi dịch sai từ, dịch chưa thoát ý, chưa đúng văn cảnh của bản dịch. Có thể nói, cuốn sách gây ra nhiều tranh luận về vấn đề dịch cũng bởi nhiều lẽ. Thứ nhất, nhiều người phải thừa nhận rằng, dịch Lolita khó, vì V.Nabokov chơi chữ quá nhiều, quá phức tạp, quá hay; người dịch Lolita vất vả vì phải nghĩ ra cách chuyển tải linh hồn câu chữ. Dịch giả Dương Tường cũng lý giải, tác giả V.Nabokov là người rất uyên bác, đọc rất nhiều, biết nhiều kiến thức Đông Tây kim cổ và chơi chữ rất ghê, hiểu hết được ông ấy cũng không dễ. Nhà văn Mỹ gốc Nga này vốn khét tiếng thế giới như một phù thủy về ngôn ngữ. Tiểu thuyết Lolita của ông trùng điệp những ẩn dụ, những trò chơi ngôn từ, những cấu trúc câu, những liên văn bản và xuyên văn bản bất tận. Theo nghĩa nào đó, Lolita là một mê cung ngôn ngữ. Vì vậy, trong một bản dịch dày 431 5 trang sách khổ lớn mười sáu nhân hai tư centimet quả là không dễ dàng với Dương Tường. Bản thân dịch giả có vốn văn hóa sâu rộng, sự am hiểu cả tiếng Anh, Pháp và tiếng Việt này cũng từng cho biết, khi nhận dịch cuốn sách tức là chấp nhận vào một cuộc phiêu lưu không dễ dàng mà vì lòng yêu ông mới nhận làm. Điểm thứ hai là, trong dịch thuật có thể nói yếu tố cảm quan, văn phong, phong cách của người dịch ghi dấu ấn đậm và chính sự khác biệt văn phong gây ra nhiều tranh luận. Chủ tịch Hội đồng Văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Văn Dân không đồng tình khi một bộ phận dư luận nóng vội quy kết “thảm họa dịch thuật” hay “dịch loạn” cho các tác phẩm dịch văn học trong thời gian qua. Trong cuộc trò chuyện với Thể thao Văn hóa, ông Dân nêu ý kiến, đánh giá chung thì bản dịch Lolita của Dương Tường không có những lỗi nghiêm trọng về văn phạm, mà những sai sót chủ yếu là thuộc về ngữ nghĩa của các từ ngữ, thành ngữ và biểu ngữ. Tổng quan mà nói, Lolita bản dịch tiếng Việt vẫn được nhiều dịch giả kỳ cựu có tên tuổi đánh giá là một bản dịch chất lượng và không thể phủ nhận ấn tượng thẩm mỹ mà bản dịch trao cho người đọc một cách tổng thể. Đặc biệt, bản dịch Lolita ở Việt Nam đã được sửa chữa. Bản sửa cuối cùng mà luận văn dùng làm tài liệu khảo sát đã có rất nhiều sự điều chỉnh về mặt dịch thuật so với bản in đầu tiên. Tuy nhiên, ở Việt Nam, bàn về Lolita, các bài viết chủ yếu mới dừng lại ở giới thiệu sơ qua về tác phẩm, tác giả, về bản dịch hay tóm tắt đơn giản về nội dung tác phẩm. Nổi lên có phần kỹ càng hơn là bài viết của nhà văn trẻ Di Li trong Lolita hay tình yêu của một kẻ tâm thần. Nữ nhà văn đã phân tích một cách khoa học về bệnh ái nhi để từ đó lý giải cho niềm si mê bệnh hoạn và khó hiểu của tiến sĩ Humbert. Một bài viết đáng chú ý khác là Lolita có thể lấy ý tưởng từ nhiều tác phẩm khác được đăng trên báo điện tử VnExpress ngày 19/11/2012. Bài viết 6 được Đỗ Thị Hường trích dịch từ Tiếp cận vấn đề về cội nguồn tiểu thuyết Lolita (К вопросу о генезисе романа Лолита) của nhà nghiên cứu văn học người Nga Irina Lvovna Galinskaya được in trong cuốn Vladimir Nabokov: những cách đọc đương đại (Владимир Набоков: современные прочтения). Ở đó, tác giả đã cung cấp cho bạn đọc những thông tin hữu ích về các giả thuyết xoay quanh nguồn gốc của tác phẩm gây tranh cãi nhất thế kỷ XX. Đi sâu hơn về phân tích học thuật của tác phẩm có bài viết Tại sao dồn sự chú ý vào chương đầu của bản dịch “Lolita”? của tác giả Nguyễn Đình Đăng trên trang http://nguyendinhdang.wordpress.com. Tuy nhiên, bài viết đầu tiên đánh dấu việc nghiên cứu chuyên sâu mang tính khoa học về tác phẩm chính là Sự tiếp nhận tiểu thuyết “Lolita” của V.Nabokov: Những khía cạnh văn hóa của Phạm Gia Lâm đăng trên Tạp chí Văn học số tháng 3/2012. V.Nabokov sinh ra và lớn lên ở Nga nhưng sau đó lại định cư ở Mỹ. Có thể nói hai nền văn hóa Nga, Mỹ đã tác động nhiều tới con người ông và phần nào đó ánh xạ trong chính những sáng tác của V.Nabokov. Trong bài viết, Phạm Gia Lâm đã đưa ra hướng tiếp cận Lolita từ góc nhìn văn hóa của độc giả: văn hóa đại chúng Mỹ với văn hóa đọc của Nga. Tiểu thuyết Lolita ra đời trong bối cảnh văn hóa đại chúng Mỹ đã phát triển mạnh. Có thể nói nhân vật Lolita chính là sản phẩm của nền văn hóa này. Cô bé thích đọc những cuốn tạp chí người lớn, thích đóng kịch, thích nhạc pop. “Lolita đã trở thành biểu tượng và nguồn cảm hứng trong văn hóa đại chúng” [21; 6]. Đối với nước Nga, văn hóa đọc có vai trò quan trọng trong việc định tính con đường hồi hương của V.Nabokov. Ông đã tự mình dịch tác phẩm Lolita sang tiếng Nga. Khi làm điều này, ông đã thấy trước được rằng, với sự kiểm duyệt xuất bản ở Nga sẽ không có nhà xuất bản nào in cuốn tiểu thuyết này. Trong tái bút viết cho bản in tiếng Nga tiểu thuyết Lolita ở nhà xuất bản Phaedra (1967), V.Nabokov viết rằng: “Gần nửa thế kỷ nay điểm mù trong 7 phần phía Đông của não bộ đã tối sẫm lại nên ông không rõ hiện nay ở Nga người ta đọc những ai, rằng khó mà hình dung được có một chế độ nào, dẫu tự do hay cực quyền toàn trị trên quê hương khốn khó của tôi lại để kiểm duyệt bỏ lọt Lolita, do vậy làm gì có nhà xuất bản Xô Viết nào in Lolita kia chứ!” [21; 10]. Đến năm 1989, hai mươi hai năm sau khi V.Nabokov dịch Lolita sang tiếng Nga, văn bản này mới được in tại quê hương ông. Nhưng từ trước đó không ít người đọc Nga đã được tiếp cận với văn bản Lolita bằng tiếng Nga theo cách rất đặc trưng đối với những ấn phẩm “ngoài luồng”. Dần dần, tên tuổi của V.Nabokov được khẳng định trên chính quê hương mình. Và mới đây, nhà nghiên cứu Phạm Gia Lâm tiếp tục nghiên cứu sâu hơn sự tương tác văn hóa trong sáng tác của V.Nabokov nói chung Lolita nói riêng qua bài viết Tương tác văn hóa trong sáng tác của Nabokov đăng trên Tạp chí Văn học tháng 12/2013. Phạm Gia Lâm đã đưa ra cái nhìn định tính đối với sáng tác của V.Nabokov dưới góc độ tương tác và đối thoại văn hóa. Ông đi vào tóm lược một số nét tiêu sử cuộc đời của V.Nabokov như: được sinh ra trong một gia đình dòng dõi quý tộc sử dụng cả ba thứ tiếng Anh, Nga, Pháp trong sinh hoạt hàng ngày; những đam mê thuở nhỏ của V.Nabokov như văn học, cờ vua và nghiên cứu côn trùng và sự dịch chuyển qua nhiều không gian văn hóa của V.Nabokov. Từ đây, tác giả đưa ra kết luận: “Vladimir Nabokov được mệnh danh là “nhà văn – nhân sư”, ngoài lý do ông sáng tác bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Nga với số lượng tác phẩm hầu như ngang nhau, còn bởi tính chất thông tuệ của một nhà văn – nhà khoa học”. Nhà nghiên cứu đã đi sâu phân loại các sáng tác của V.Nabokov để chứng minh cho cái “chất đạo của Nga” và “chất đời của phương Tây” trong các sáng tác của nhà văn vĩ đại này. Hình ảnh nước Nga xuất hiện xuyên suốt sáng tác của V.Nabokov tới tận tác phẩm cuối cùng của ông Những bờ bến khác (Другие берега, 1954; bản tiếng Anh có bổ sung, mang nhan đề Tiếng gọi ký ức: san nhuận tự truyện 8 (Speak, Memory: An Autobiography Revisited, 1967). Nước Nga của V.Nabokov, nói đúng hơn là của V.Sirin – đó là hình ảnh tuổi thơ, cũng là hình ảnh về sự trong trắng và hài hòa, như tiếng hót của con chim thiên đường, [22; 6]. Đồng thời trong những sáng tác bằng tiếng Anh của mình, V.Nabokov lại có những sáng tạo nghệ thuật mang dấu ấn phương Tây như khi ông đề cao cái riêng, cái cá thể khác với truyền thống văn học Nga thường thể hiện cái chung, cái tập thể. Trong hoạt động sáng tạo của V.Nabokov, dịch thuật cũng đóng vai trò quan trọng. Ở khía cạnh này, người ta cũng dễ dàng nhận thấy sự hòa quyện giữa các nền văn hóa trong các tác phẩm dịch của V.Nabokov. Điều đặc biệt, trong bài nghiên cứu của mình, Phạm Gia Lâm có bàn đến trò chơi trong sáng tác của V.Nabokov và đưa ra khái niệm văn bảnmatryoshka. “Tác phẩm văn học có chứa một hoặc nhiều văn bản do nhân vật viết nên được gọi là văn bản-matryoshka hay văn bản búp bê mẹ-con, tương tự như các búp bê mẹ-con (матрёшка) của Nga. Văn bản “bên ngoài” của tác giả tương ứng với búp bê mẹ/bên ngoài, còn văn bản “bên trong” của nhân vật tham gia vào văn bản của tác giả, tương ứng với một hoặc nhiều búp bê con/bên trong” [22; 11]. Đây chính là một trong những gợi mở quan trọng cho luận văn trong quá trình triển khai đề tài. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu chuyên sâu khác về tác phẩm có thể kể tới như khóa luận Hệ thống ám chỉ trong tiểu thuyết Lolita của Vladimir Nabokov của Nguyễn Thị Khuyên. Khóa luận đã chỉ ra tính ám chỉ trong Lolita qua các phương diện: Hệ thống nhân vật, Cốt truyện và Tác giả – người kể chuyện. Nguyễn Thị Bích lại bàn tới vấn đề chuyển thể Lolita sang điện ảnh thông qua luận văn Chuyển thể điện ảnh tiểu thuyết Lolita của V.Nabokov. Như vậy, bản dịch của tác phẩm có thể nói đã tạo nên hiệu ứng tiếp nhận khá mạnh tuy nhiên, sự mới mẻ của nó khiến cho việc đi sâu tìm hiểu 9 tác phẩm chưa nhiều. Và có thể khẳng định, đề tài Thi pháp trò chơi trong"Lolita" của V.Nabokov mà chúng tôi đang theo đuổi chưa từng trùng với bất cứ khảo cứu nào trước đó. 3.Phạm vi, đối tƣợng và mục đích nghiên cứu 3.1. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Luận văn khảo cứu trên bản dịch Lolita tiếng Việt do Dương Tường chuyển ngữ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, in lần thứ 3 năm 2012 có sửa chữa. Để thấy được bản chất và và phương thức thể hiện của thi pháp trò chơi trong Lolita, chúng tôi tiến hành phân tích văn bản trên các yếu tố: Hệ thống nhân vật – “người chơi” và các phương thức thể hiện như giễu nhại, ám chỉ; không – thời gian nghệ thuật và tiến trình chơi. 3.2. Mục đích nghiên cứu – Xác định những dấu ấn của thi pháp trò chơi trong tiểu thuyết Lolita của V.Nabokov. – Đề xuất một cách đọc Lolita nhằm đạt tới sự thông hiểu tác giả và tác phẩm. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: – Liên văn bản và Văn hóa học. Lolita ta là một văn bản chồng chéo các chú thích, viện dẫn, đối sánh. Vì thế nội dung tác phẩm gần như mở ra những triển hạn vô cùng. Có thể coi đây là yếu tố quan trọng mà V.Nabokov xây dựng nên các “chiến thuật” trò chơi trong tác phẩm của mình. Do đó, với đề tài thi pháp trò chơi trong Lolita, chúng tôi vận dụng phương pháp nghiên cứu liên văn để thấy được cách thức chơi giữa các nhân vật – người chơi trong tác phẩm, giữa các nhân vật trong Lolita với nhân vật trong các tác phẩm khác. Tất cả đặt trong trò chơi lớn giữa tác giả V.Nabokov và độc giả. 10 Sinh thời, V.Nabokov vốn có tiểu sử rất đặc biệt khi sinh ra ở Nga, sau đó nhiều năm sống lưu vong xa quê hương trên đất Mỹ, sáng tác chủ yếu bằng tiếng Anh nhưng tâm hồn vẫn rất Nga và luôn đau đáu nỗi niềm quê hương. Chính vì vậy, ảnh hưởng của các nền văn hóa tác động tới sáng tác của ông. Lolita cũng là sản phẩm của sự cộng hưởng của các nền văn hóa, được thể hiện trên nhiều phương diện: tính cách của các nhân vật trong tác phẩm, các kiểu cốt truyện, giọng văn… Tất cả những yếu tố này lại đóng vai trò thiết yếu trong việc triển khai đề tài. Vì vậy, chúng tôi vận dụng phương pháp nghiên cứu văn hóa học để có cái nhìn thấu đáo khi đi phân tích thi pháp trò chơi trong tác phẩm. – Các thao tác nghiên cứu được vận dụng: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp. 5. Kết cấu luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Trò chơi trong văn học và trò chơi trong tác phẩm của V.Nabokov Chương 2: Nhân vật – “người chơi” và các hình thức ám chỉ, giễu nhại Chương 3: “Thế giới chơi” và diễn tiến trò chơi 11 CHƢƠNG 1: THI PHÁP TRÒ CHƠI TRONG VĂN HỌC 1.1. Trò chơi (game) và sự chơi (play) Trò chơi (game) và sự chơi (play) là những hoạt động quan trọng, gắn bó với đời sống loài người từ thời thoạt kỳ thủy. Johan Huizinga – sử gia người Hà Lan, trong công trình kinh điển khảo cứu về trò chơi, Homo Ludens (Người chơi), đã nhận định: “(nền văn minh nhân loại) đã nảy sinh trong trò chơi, như là trò chơi và chưa bao giờ rời bỏ nó” [12;21]. Còn các học giả phương Tây cho rằng, ngay ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại, trò chơi là một phần trong đời sống giải trí của cộng đồng, hiện diện trong hình thức những cuộc thi đấu thể thao như những cuộc so tài trí, thể lực, sức mạnh hợp lệ, có trong các nghi thức thuộc tôn giáo, liên quan tới trình diễn sân khấu… Thậm chí, trò chơi còn diễn ra trong các cuộc tranh luận của các học giả thời bấy giờ… Từ giữa thập niên 50 của thế kỷ trước, những biến động lớn của thế giới cả về lịch sử, chính trị, khoa học kỹ thuật, văn hóa… làm thay đổi sâu sắc những nền tảng tư duy của con người. Ở giai đoạn này, khái niệm về trò chơi được đề cập ở nhiều lĩnh vực từ triết học, mỹ học, tâm lý học, nhân học cho đến chính trị, luật pháp, kinh tế, toán học, vật lý, công nghệ thông tin… Theo đó, trò chơi không đơn thuần chỉ là một hoạt động cơ bản của con người mà được sử dụng như một khái niệm, một hệ hình để tư duy những vấn đề khác. Có thể hiểu trò chơi là cách sáng tạo ra thế giới mới với không – thời gian riêng có sự độc lập với thực tại nhưng không hoàn toàn thoát ly khỏi thực tại. Trò chơi tạm thời đưa con người bước ra ngoài đời sống thường nhật với những quy luật, giới hạn không gian, thời gian tất yếu của nó để thâm nhập vào một thế giới khác vừa ở trong nhưng cũng vừa ở ngoài thực tại mang tính tự trị tương đối. Con người tham gia vào cuộc chơi như để tìm kiếm ý nghĩa sự tồn tại của mình, khám phá những khả năng tiềm ẩn của bản 12 thân và thế giới quanh mình. Do đó, chơi vừa mang tính xây dựng, kiến tạo, vừa hàm chứa năng lượng của sự lật đổ, phá vỡ. “Chơi, vì thế, vừa mang tính chất xây dựng, kiến tạo, vừa hàm chứa năng lượng của sự lật đổ, phá vỡ. Chức năng biểu nghĩa, vị thế kép vừa ở trong vừa ở ngoài thực tại, tính chất hai mặt – kiến tạo và phủ định (…) có nhiều điểm tiệm cận với hướng tư duy của các nhà giải cấu trúc sau này” [12; 21]. Do đó có thể thấy, trò chơi vừa nghiêm túc vừa phi nghiêm túc, vừa quy tắc lại vừa phóng khoáng, tự do như Hegel đã từng viết: “Trò chơi là sự thăng hoa nhất và nghiêm túc nhất” [10; 59]. Về cơ bản, trò chơi/sự chơi bao gồm các thành tố chính là người chơi (đi kèm là luật chơi), thế giới chơi và hình thức chơi, tiến trình chơi và kết quả chơi. Trong đó, ba yếu tố đầu tiên đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thiết lập nên trò chơi. Người chơi nắm vai trò chủ đạo vì người chơi điều hành, tổ chức, đưa ra luật lệ, phương thức chơi và trò chơi là hành vi của chủ thể con người. Về cơ bản, trò chơi thường có sự xuất hiện do có sự “tương tác” của hai hay nhiều đối tượng. Trò chơi và sự chơi luôn luôn diễn ra trong một không gian, thời gian cụ thể nào đó được gọi là thế giới chơi. Thành tố cuối cùng là đối tượng được chơi có khi được nhận biết như một thực thể có khi lại rất trừu tượng. Chẳng hạn như trong các cuộc so tài thể thao cổ đại thì đối tượng được chơi có thể là một cái gậy, một hòn đá… còn trong các cuộc tranh luận của học giả thì đối tượng chơi lại là ngôn ngữ. Liên quan đến thành tố quan trọng nhất là người chơi, trò chơi và sự chơi luôn đi kèm với các nguyên tắc, luật lệ chơi. Sự khác biệt trong luật chơi chính là cơ sở để phân loại các kiểu trò chơi đồng thời cũng là căn cứ để nhờ đó mà trò chơi được tiến hành. Luật chơi do người chơi đặt ra nhằm duy trì trò chơi, tạo ra sự hấp dẫn cho trò chơi. Johan Huizinga đã nhấn mạnh vai trò và sự cần thiết của việc phải giữ luật và khẳng định: “Một nền văn minh thực 13 sự không thể tồn tại nếu thiếu vắng thành tố của sự chơi, vì văn minh luôn tiền giả định giới hạn và sự làm chủ bản ngã, không được đánh đồng những khuynh hướng của nó với cái mục tiêu tối hậu và cao nhất mà phải hiểu rằng bao giờ nó cũng tồn tại trong những ranh giới được chấp nhận tự nguyện. Theo nghĩa nào đó, nền văn minh sẽ luôn được chơi theo những luật lệ nhất định và nền văn minh đích thực sẽ luôn đòi hỏi sự chơi đẹp” [12; 23]. Theo ông, luật chơi bao giờ cũng tạo ra sự khó khăn, thử thách đối với người chơi song cũng nhờ thế mà nó tạo nên sức hấp dẫn cho trò chơi, làm thỏa mãn một ham mê thường trực ở con người chinh phục độ khó. Tuy vậy, chính luật lệ chơi cũng vô hình chung thu hẹp phạm vi người chơi khi nó đặt ra những điều kiện làm cho không phải ai cũng có thể tham gia vào cuộc chơi. Từ đây có thể thấy, trò chơi/sự chơi được định nghĩa như là sự đối lập với thực tại, cái nghiêm túc và xét ở mặt nào đó mang tính vụ lợi cả về vật chất lẫn tinh thần. Trong khi đó, tham gia vào cuộc chơi tức là con người tạm bước ra khỏi quỹ đạo của cuộc sống hàng ngày để hòa mình vào một thế giới mới vừa ở ngoài đời sống vừa mang tính tự trị tương đối (có không gian – thời gian riêng, có những luật lệ riêng) gắn liền với sự vui vẻ, thường là tự nguyện và không vụ lợi. Vì vậy, có thể khẳng định chức năng đầu tiên và rõ ràng nhất theo đúng bản chất của trò chơi/sự chơi là chức năng giải trí, mang lại khoái cảm cho con người. Thậm chí, ý tưởng về trò chơi (game) thường bị đồng nhất hoặc nhầm lẫn với sự chơi (play) nhưng Platon trong trong Phaedrus đã phân biệt hai khái niệm này. Theo quan điểm của triết gia Hy Lạp, trò chơi thường ít tính ngẫu hứng hơn sự chơi hay nói ngược lại sự chơi không chịu sự tác động nhiều của các quy tắc, luật lệ như trò chơi. Theo đó, chức năng giải trí được bộc lộ rõ ràng hơn ở sự chơi vì với sự chơi thì sự can thiệp của các quy tắc, luật lệ là ít hơn so với trò chơi cho nên sự chơi là vô tư, không mang tính vụ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan