VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHÍ THỊ BÍCH LIÊN
THƠ VỊNH VẬT CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM VĂN ÁNH
Hà Nội, 2017
HÀ NỘI, năm
LỜI CAM ĐOAN
T
S
T
ã ượ
ã ượ
ỉ õ
ơ
ồ
NGƢỜI VIẾT
PHÍ THỊ BÍCH LIÊN
M
í
dẫ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chƣơng 1: Thơ vịnh vật và một số nét về thơ vịnh vật Việt Nam .................. 7
1.1. Khái lược về thơ vịnh vật ................................................................................. 7
1.2. Một số nét về thơ vịnh vật Việt Nam ............................................................. 12
1.3. Thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm - Văn bản và trữ lượng ...................... 19
Tiểu kết .................................................................................................................. 22
Chƣơng 2: Thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm - đề tài và nội dung phản
ánh........................................................................................................................... 24
2.1. Thống kê phân loại thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm ............................ 24
2.2. Sự mở rộng phạm vi đối tượng ngâm vịnh qua thơ vịnh vật của Nguyễn
Bỉnh Khiêm ............................................................................................................ 26
2.3. Những nội dung chủ yếu trong thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm .. 45
Tiểu kết ................................................................................................................... 52
Chƣơng 3: Thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm – thể thức và các thủ
pháp nghệ thuật ..................................................................................................... 54
3.1. Bút pháp ........................................................................................................... 54
3.2. Thể thơ.............................................................................................................. 61
3.3. Dụng điển và ngôn ngữ .................................................................................... 67
Tiểu kết ................................................................................................................... 71
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 75
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Ông được
đánh giá là nhà chính trị, tư tưởng, vị danh sư, bậc hiền triết, cây đại thụ t a
bóng lên cả thế kỉ XVI
inh
ia Khánh . Ông không chỉ được các bậc thức
giả đương th i đề cao mà c n được dân gian xưng tụng với nhiều truyền thuyết,
những l i s m truyền mang tinh th n tiên tri, tiên giác. Những đóng góp của
Nguyễn Bỉnh Khiêm được ghi nhận trên nhiều lĩnh vực, là một trong những
nhân vật để lại d u n đậm nét không chỉ trong văn học mà trong cả chính trị, xã
hội thế kỉ XVI.
Thành tựu Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại ở nhiều lĩnh vực nhưng trên hết ông
là tác gia lớn trong văn học trung đại Việt Nam, trước thuật phong phú, g m cả
thơ văn chữ Hán và chữ Nôm, số lượng sáng tác lúc sinh th i lên đến hàng ngàn
bài. Sáng tác của ông hiện c n lưu trữ trong nhiều tư liệu khác nhau, về văn bản
c ng có nhiều phức tạp. Theo khảo cứu văn bản và giới thiệu trong công tr nh
Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Tổng tập Nxb. Văn học, 2 14 , thơ chữ Hán
của Nguyễn Bỉnh Khiêm có tập Bạch Vân Am thi tập, tác ph m tương đối đáng
tin cậy có 582 bài, thơ chữ Nôm có tập Bạch Vân thi tập có 153 bài , trong đó
có một số bài tr ng l p với thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Ngoài ra Nguyễn Bỉnh
Khiêm c n một số bài bi kí, số lượng không nhiều. Bên cạnh đó, một số s m kí
được coi là của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tuy nhiên về văn bản và xét thêm cả nội
dung, h u hết không đáng tin cậy.
ến nay, Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Tổng tập là công tr nh được thực
hiện công phu và bề thế nh t trong việc giới thiệu sự nghiệp trước thuật của
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trên cơ sở các tác ph m được phiên dịch trong công tr nh
nói trên, chúng tôi thống kê được 208 bài trên 739 bài thơ là thơ vịnh vật. Với số
1
lượng thơ vịnh vật như vậy, có thể khẳng định đến hết thế kỉ XVI, Nguyễn Bỉnh
Khiêm là tác giả có số lượng thơ vịnh vật lớn nh t. Hiện tượng này cho th y
điều g ? Tại sao tác giả lại t ra hứng thú với thơ vịnh vật như vậy? Tác giả
thông qua thơ vịnh vật của m nh để g i g m những thông điệp g ? Thơ vịnh vật
của Nguyễn Bỉnh Khiêm có điểm g khác so với thơ vịnh vật của các tác gia
khác trong văn học trung đại Việt Nam, chẳng hạn thơ vịnh vật trong Hồ
â
Đ
, thơ vịnh vật của Nguyễn Trãi? Mối quan hệ giữa thơ vịnh vật
với các d ng thơ khác trong gia tài sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm là như thế
nào? v.v… ây là những câu h i c n được từng bước làm rõ.
Thơ vịnh vật trong văn học trung đại là một kiểu thơ phổ biến, quen thuộc
ph hợp với th m mĩ của nhà nho. Qua các th i kỳ khác nhau, thơ vịnh vật có
những bước phát triển riêng với những đ c điểm đáng lưu ý. D ng thơ này đã
đóng góp không nh vào sự phát triển chung của văn học trung đại Việt Nam.
Tuy nhiên nghiên cứu về d ng thơ này cả về v n đề lý luận và thực tế lại chưa
thực sự hệ thống, đ y đủ, phong phú.
Xu t phát từ những lí do trên chúng tôi chọn đề tài T ơ ị
N
ễ Bỉ
K
ủ
làm đề tài nghiên cứu của m nh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một tác gia lớn của văn học trung đại, một hiện tượng thú vị của đ i
sống tư tưởng thế kỉ XVI, ngay từ n a đ u thế kỉ XX đã xu t hiện những nghiên
cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm.
ến nay, đã có nhiều công tr nh chuyên biệt về
Nguyễn Bỉnh Khiêm c ng như nghiên cứu, giới thiệu các tác ph m của ông. Thơ
văn Nguyễn Bỉnh Khiêm được đưa vào trong chương tr nh giảng dạy ở nhiều
c p. Về thơ ca Nguyễn Bỉnh Khiêm nói chung, đã có nhiều nghiên cứu khác
nhau, từ v n đề văn bản tác ph m, đến cảm hứng chủ đạo, tính ch t ngôn chí...
Có thể kể đến các công trình bài, viết của các nhà nghiên cứu như B i Duy Tân
với các bài viết N
ễ Bỉ
K
ấm ò
2
ư
ư
(in
trong V
V
ộ
ởẩ
Tr n
N
ừ
ủ N
ỉX– ử
ễ Bỉ
nh Hượu với bài T
T
K
ầ
ỉ XVIII), N ữ
đăng trên Tạ
ý
ơởN
ễ Bỉ
íV
K
số 1-1986, Nguyễn Huệ Chi với bài viết N
ộ
â
ch ị
ử
dò
ơ ưd
3-1986, Tr n Ngọc Vương với N
trên Tạ
Bỉ
íV
K
số 2-1975,
đăng trên Tạ
ễ Bỉ
K
đăng trên Tạ
ễ Bỉ
Khiêm – ư
íN
V
–
í
ì
íV
ừ
số
bài viết đăng
số 6-2001, hay Lê Thị Hương với bài T ơ
đăng trên Tạ
ạ
N
ễ
số 9-2 7,… Ngoài các bài
viết t m hiểu về đ c điểm thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, về một số khía cạnh trong
thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm c n có các nghiên cứu về các v n đề văn bản, nghiên
cứu về các lĩnh vực khác trong di sản Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại như các bài
s m, các giai thoại,… C ng có các tác giả đi sâu phân tích một số bài thơ của
Tuyết iang Phu T , cùng các bài b nh giảng phân tích về một tác ph m cụ thể,
đ c biệt là các tác ph m được s dụng trong nhà trư ng phổ thông, hay các bài
thơ nổi tiếng của tác giả quan trọng này.
Năm 1985, Hội thảo T ạ
Tì
N
ễ Bỉ
K
kỉ niệm 4
năm
ngày m t của Nguyễn Bỉnh Khiêm được tổ chức. Sau đó, năm 1991, hội thảo
N
ễ Bỉ
K
–d
â
ó nhân kỉ niệm 5
năm ngày sinh của
Trạng Tr nh được tổ chức. Sau các hội thảo này các tham luận được tập hợp và
in thành sách: Nguyễn Bỉnh Khiêm - Danh nhân
ó (Nguyễn Huệ Chi chủ
biên, Bộ Văn hóa thông tin và thể thao xu t bản, H, 1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm
trong lịch sử phát triể
ó dâ
ộc (Viện KHXH & Sở Văn hóa thông tin
thành phố H Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm xu t bản, Tp. HCM,
1991), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Nguyễn Huệ Chi và Ngô ăng Lợi chủ
biên, Hội đ ng lịch s Hải Phòng và Viện Văn học xu t bản, Hải Phòng, 1991).
Năm 2
1, nhà nghiên cứu Tr n Thị Băng Thanh và V Thanh c ng đã
tuyển chọn và giới thiệu các bài viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm trong cuốn N
3
ễ
Bỉ
K
ẩ
trong seri các cuốn sách về các tác gia lớn
của văn học Việt Nam. Năm 2 14, Ph ng Văn học Việt Nam cổ trung đại thuộc
Viện Văn học Việt Nam đã cho xu t bản cuốn T ơ
N
ễ Bỉ
K
-
Tổ
(Nxb. Văn học , trong đó có khảo cứu văn bản, giới thiệu, phiên dịch
g n 8
văn bản các tác ph m của Nguyễn Bỉnh Khiêm cả chữ Hán và chữ
Nôm, cung c p một cơ sở dữ liệu xác tín và phong phú cho các nhà nghiên cứu
tiếp cận, khai thác, nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm. Năm 2 15, thành phố
Hải Ph ng c ng Viện Văn học tổ chức hội thảo khoa học T ơ
Khiêm - Nộ d
ư
ẩ
N
ễ Bỉ
ĩ nhân kỉ niệm 43 năm ngày m t
của ông. Hội thảo thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu từ trung
ương đến địa phương. Qua các hoạt động khoa học và cách công tr nh kể trên,
có thể th y sự quan tâm của giới nghiên cứu với di sản văn hóa, văn học của
Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Theo các nhà nghiên cứu, trong văn học Việt Nam, thơ vịnh vật b t đ u
được sáng tác tương đối phổ biến từ khoảng thế kỉ XV trở đi. ây là d ng thơ có
đề tài phong phú và đa dạng, ph hợp với quan điểm th m m và tư tưởng của các
nhà nho. Nhiều tác giả lớn của văn học trung đại từng sáng tác thơ vịnh vật, trong
đó có thể kể tới các tác giả như Nguyễn Trãi, các tác giả th i H ng ức, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Ph ng Kh c Khoan, H Xuân Hương, Nguyễn Khuyến... Tuy nhiên,
tới nay, thơ vịnh vật chưa thực sự thu hút sự quan tâm đúng mức của các nhà
nghiên cứu. Các nghiên cứu về thơ vịnh vật trong văn học trung đại ph n lớn n m
rải rác trong các công tr nh, bài viết, tiêu biểu như nghiên cứu của Phạm Thế Ng ,
B i Văn Nguyên, Tr n Thị Băng Thanh, V Thanh… song thông thư ng c ng
chỉ khảo sát ở những bài thơ cụ thể mà ít đi sâu nghiên cứu thơ vịnh vật như một
d ng thơ xuyên suốt trong sáng tác của một tác giả, ho c xuyên suốt trong lịch s
văn học.
4
Th i gian g n đây có một số học viên đã chú ý đến mảng đề tài thơ vịnh
vật và chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ của m nh như: luận văn K
ị
Q
â
năm 2 1 tại Trư ng
Hồ
ễ K
â
của Mai Thị Hoài
ại học Sư phạm Hà Nội, hay luận văn của Nguyễn Thị
Thu Thủy năm 2 11 c ng tại Trư ng
ủ N
Đ
ơ
ại học Sư phạm Hà Nội về T ơ ị
đã cho th y một hướng tiếp cận hệ thống và khái quát hơn
về thơ vịnh vật trong các sáng tác của các tác gia lớn.
Kế thừa gợi ý từ các nhà nghiên cứu, khảo sát trên ngu n tư liệu tương đối
phong phú về thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm mới công bố g n đây, chúng tôi hi
vọng có thể có những đánh giá đ y đủ, th u đáo hơn về mảng sáng tác này của
Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
iải thích hiện tượng thơ vịnh vật Nguyễn
Bỉnh Khiêm, thông qua thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm để t m hiểu tư
tưởng, t nh cảm, bút pháp của tác giả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu : khảo sát, phân loại, đánh giá, chỉ ra những đ c
điểm trong vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ đó gợi chỉ ra những đóng góp
của tác giả này trong sự phát triển của thơ vịnh vật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu : Các bài thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh
Khiêm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu : Các bài thơ hiện c n của Nguyễn Bỉnh Khiêm
được giới thiệu, phiên dịch trong T ơ
N
ễ Bỉ
K
– Tổ
.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn s dụng các phương pháp: Phương pháp nghiên cứu văn học s ,
thi pháp học, loại h nh học c ng các thao tác thống kê, so sánh đối chiếu, v.v...
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn sẽ làm rõ hơn về một kiểu thơ là thơ vịnh vật, đ ng th i nghiên
cứu những biểu hiện của kiểu thơ này trong một tác giả cụ thể, qua đó đánh giá
được thành công và đóng góp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với sự phát triển của
thơ vịnh vật trong văn học trung đại Việt Nam.
- Về thực tiễn, luận văn sẽ cung c p thêm cho những ngư i làm công tác
giảng dạy, nghiên cứu những số liệu, đ c điểm về thơ vịnh vật Nguyễn Bỉnh
Khiêm để ứng dụng, tham khảo cho những công tr nh, đề tài khác.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài ph n Mở đ u, Kết luận, Thư mục tham khảo, nội dung chính của
luận văn g m 3 chương:
Chương 1: Thơ vịnh vật và một số nét về thơ vịnh vật Việt Nam
Chương 2: Thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm - đề tài và nội dung
phản ánh
Chương 3: Thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm - thể thức và các thủ
pháp nghệ thuật
6
Chƣơng 1
THƠ VỊNH VẬT VÀ MỘT SỐ NÉT VỀ THƠ VỊNH VẬT VIỆT NAM
1.1. Khái lƣợc về thơ vịnh vật
1.1.1. Một số định nghĩa về thơ vịnh vật:
Thơ vịnh vật là loại thơ thác vật ngôn chí , tác giả thông qua ngâm vịnh
sự vật để thể hiện tư tưởng, t nh cảm của m nh.
ó có thể là chí hướng, thái độ
nhân sinh, những ước vọng, ho c giả là triết lí sống.
Thơ vịnh có các loại cơ bản như: vịnh cảnh, vịnh vật, vịnh s . Trong chữ
Hán Vịnh có hai nét nghĩa chính: một là ngâm vịnh, hát; hai là d ng thơ từ để
miêu tả, bày t tâm tư, t nh cảm. C n theo Từ
ể T
V
thì “Vịnh là làm
thơ về phong cảnh ho c sự vật trước m t một lối thơ phổ biến th i trước
tr.46]. C ng bàn về khái niệm Vịnh , Bùi Duy Tân trong V
ỉ X-XIX –
ữ
ấ
ý
ị
V
[67,
N
ử cho r ng: Vịnh là để cho l i thơ sâu
rộng, d i dào nghĩa, hay đẹp, nghiêm c n và thư ng có ngụ ý [64, tr. 507].
Vật tức sự vật, ho c hiện tượng nói chung. Theo T
Hứa Thận th i Hán vật là vạn vật vậy (V
ạ
của
dã). V lẽ đó, thơ vịnh vật
có thể bao g m thơ vịnh r t nhiều đối tượng, từ thiên tượng, địa lý, chim thú,
cây c , côn tr ng, cá tôm, vật dụng, kiến trúc,… trong đó, thông thư ng nh t là
các bài vịnh về động vật, thực vật và các vật dụng do con ngư i tạo ra.
T
ư ổ
ụ khi nói về thơ vịnh vật của Tạ Khả Tông th i
Nguyên cho r ng: Xưa, Khu t Nguyên có bài Tụ
ấ , Tuân Huống có bài
Phú tàm, loại vịnh vật manh nha từ y, nhưng riêng các nhà làm phú hay làm.
Bài Thiên mã trong Hán phú, bài Bạ
ĩ, B
ỉ
của Ban Cố, c ng là nhân
việc mà làm văn, không chủ vào việc kh c họa một vật nào. Thông qua sự vật để
ngụ nỗi niềm, th th y ở thơ, đến bài vịnh về cây thạch lựu trước sân của Sái
7
Ung mới b t đ u . H Ứng Lâm th i Minh cho r ng: Vị
,
ờ Đườ
Theo Từ
ể
ở ừ Lụ
[20, tr.118].
ổ
ể T
Q
khái niệm thơ vịnh vật được
hiểu là loại thơ chuyên l y tự nhiên giới ho c một vật thể nào đó trong đ i sống
hàng ngày làm đối tượng miêu tả, thư ng cho đề mục r i làm như vịnh tuyết
vịnh tuyết rơi , vịnh thiềm vịnh tiếng ve , vịnh mai vịnh hoa mai hay vịnh
phiến vịnh cái quạt . Thơ vịnh vật theo yêu c u chu n xác, miêu tả tinh luyện
được đ c trưng h nh tượng của vật được vịnh. Thơ vịnh vật thư ng d ng các thủ
pháp tỉ dụ, tượng trưng, mô ph ng…, xuyên qua bề ngoài là vịnh vật để g i g m
lý tưởng và t nh cảm của thi nhân, n chứa nhiều ngụ ý sâu s c.
iều y gọi là
thác vật ngôn chí , mượn vật để nói chí m nh, đây chính là một tiêu chí quan
trọng để xác định tr nh độ cao th p của thơ vịnh vật. Vịnh vật và trữ t nh đã
nhập thành một thể [31, tr.834-845].
Sách K
ữ ý
T
Q
trong đề mục
thơ vịnh vật có viết: Thơ vịnh vật là loại thơ chuyên miêu tả vật thể tự nhiên
ho c nhân tạo. Phạm Trọng Yêm đ i Tống trong cuốn Phú lâm hoàng giám
viết: đề vịnh một vật nào đó gọi là thơ vịnh vật. Vật được vịnh là điểu, thú,
tr ng, ngư, thảo, mộc, hoa, quả, trăng, sao, mây, gió, mọi cảnh vật tự nhiên và
những thứ con ngư i tạo ra như nhạc khí, binh khí, nông cụ, văn cụ… Những
bài này không chỉ tả vật mà c n g i g m t nh ý tác giả… Từ th i Lục triều trở
đi, loại này càng thịnh, đ i
ư ng thích mượn vật tả t nh, đ i Tống thư ng
xen thêm nghị luận. Thủ pháp sáng tác chủ yếu là trực tả, d ng điển, thí dụ,
so sánh, tưởng tượng, khoa trương. Những tác ph m ưu tú không chỉ l i hay
mà ý tứ c n sâu xa [8, tr.148-149].
C ng bàn về v n đề này, Nguyễn Kim Sơn cho r ng: Thơ vịnh vật là
tiểu loại của thơ đề vịnh, d ng sự vật làm đối tượng trung tâm của tác ph m
để thông qua những đ c điểm, tính ch t của vật mà g i g m nỗi niềm. Thơ
8
vịnh vật phản ánh tâm trạng, mang đậm d u n cá nhân nhưng c ng đi theo
thị hiếu th m m của th i đại. Nó là thơ trữ t nh và c ng thuộc phạm vi "thi
ngôn chí" [38, tr. 74-75].
Với các khái niệm, các định nghĩa về thuật ngữ thơ vịnh vật như trên, có thể
nhận th y, thơ vịnh vật là một tiểu loại của thơ đề vịnh, l y sự vật làm trung tâm tác
ph m, thông qua việc miêu tả sự vật ở những m t, phương diện nh t định nào đó để
thể hiện tâm tư, t nh cảm, hoài bão, chí hướng, tư tưởng của nhà thơ.
1.1.2. Một số đặc điểm chính của thơ vịnh vật:
C ng từ các định nghĩa trên, có thể rút ra một số đ c điểm cơ bản của thơ
vịnh vật như sau:
T
ấ , đối tượng của thơ vịnh vật bao g m một phạm vi rộng. Chúng có
thể là các vật, sự vật của thế giới thiên nhiên, nhưng c ng có thể là các đ vật do
con ngư i tạo ra. Có thể chia đối tượng thơ vịnh vật thành các nhóm như: động
vật long, ly, quy, phụng, gà, chó, ếch, đom đóm,… , thực vật t ng, cúc, trúc,
mai, tre, h e, lựu, cây chuối, sen, quả vải, quả nhãn,… , vật dụng cái quạt, cái
cái bát, cái mành, cái lược, cái m ,… , sự việc, sự vật trăng, sao, đ t, tr i,… ,
thậm chí có thể là các món ăn, các bộ phận cơ thể ngư i,... Các sự vật, vật được
vịnh có thể là những h nh ảnh cao quý, mang tính ước lệ, tượng trưng c ng có
thể là những sự vật, sự việc g n g i, dân dã g n bó với cuộc sống thư ng ngày
của con ngư i. Khi lựa chọn các đối tượng để vịnh, các nhà thơ c ng thư ng
chọn những đ c điểm điển h nh của đối tượng để miêu tả. C
ấ
ộ
ượ
ó
T
ể ử
ắ
ươ
ượ ì
ì
ủ
ơ ị
ể
ủ
.
, thơ vịnh vật d là để nói về sự vật, sự việc nhưng chủ yếu là để kí
thác tâm tư. Ở một mức độ nào đó, ó
ì
ý ủ
i ầ
b
ò
ị
ể ó ị
ể kí thác, không kí thác
, chỉ là tả vật mà thôi. V vậy
9
í
ợ
ó
â
ủ b
ơ. Do
đó khi t m hiểu thơ vịnh vật c n nh n th y được t ng sâu hơn phía sau của tác
ph m... Nhà nghiên cứu Lã Nhâm Th n từng nhận định: Bài thơ vịnh vật bao
gi c ng mang ngụ ý. Tác giả không coi cái biểu đạt là mục đích mà l y cái
được biểu đạt làm mục đích. Với những nhà thơ ít tài năng, bài vịnh có thể khô
khan, lộ ý, c n với những nhà thơ lớn, bài vịnh thư ng độc đáo, ý vị, hàm súc,
tiềm n những khả năng tạo nghĩa [55, tr. 31].
c điểm này cho th y trong
thơ vịnh vật, giữa đối tượng được miêu tả và tâm tư nhà thơ có mối quan hệ
mật thiết. Hì
í
ủ
ượ
ơ ị
ủ
ườ
ượ
ó
. Thơ trung đại thư ng mượn cảnh tả t nh và thơ
vịnh vật chính là một minh chứng rõ nét cho đ c điểm này. Vật được chọn để
vịnh – khách thể của thế giới khách được lựa chọn không phải với mục đích
miêu tả bản ch t của nó mà mục đích chính là bày t tâm tư của nhà thơ – chủ
thể nên t t cả các tính ch t của sự vật, sự việc được miêu tả đều nh m hướng
tới biểu đạt cho tâm tư t nh cảm của nhà thơ. T ơ ị
ữ
ữ
ì
d
. Có thể vật gợi lên t nh, c ng có thể tác giả
có sẵn tâm tư t nh cảm đó, mượn vật để kí thác mà thành thơ. Cho nên, có thể
khẳng định, thơ vịnh vật chính là mượn vật tả t nh , thác vật kí hứng .
Trong đó, t nh được hiểu theo nghĩa rộng, g m t t cả mọi tâm tư, t nh cảm của
con ngư i.
T
b , sự vật, vật được miêu tả trong thơ vịnh vật thể hiện rõ quan điểm
th m mĩ của th i đại. Trong văn học trung đại, chức năng giáo hóa của văn
chương được đề cao hơn chức năng th m mĩ. V thế, thơ thư ng để tải đạo ,
nói chí . Thơ vịnh vật c ng vậy. Nó là một nhánh của thơ ngôn chí, điều này
khiến nội dung của thơ vịnh vật thư ng tập trung ở một số các v n đề như thể
hiện đạo lý làm ngư i, giáo hóa, g i g m tâm sự về th i thế, bày t t nh cảm với
10
thiên nhiên, thể hiện các ph m ch t tốt đẹp của ngư i quân t ,… D đối tượng
vịnh có phong phú bao nhiêu thì thông thư ng thơ vịnh vật đều hướng về các
chủ đề kể trên.
T
ư, thơ vịnh vật thể hiện r t rõ quan niệm của ngư i xưa về mối quan
hệ giữa thiên nhiên và con ngư i. Các nhà Nho cho r ng, thiên nhiên và con
ngư i có mối quan hệ mật thiết, tương thông. Chính v thế nên trong thơ xưa,
các sự vật, sự việc thư ng được nhân cách hóa, g n vào chúng các đ c điểm mang
tính ước lệ, tượng trưng cho con ngư i, các nhà thơ thông qua chúng để thể hiện
triết lý sống, ph m ch t của con ngư i, tiêu biểu như những h nh tượng: tùng, cúc,
trúc, mai, long, ly, quy, phụng,… Tuy nhiên, c ng một h nh ảnh của thiên nhiên,
không phải ở nhà thơ nào c ng kí thác những tâm tư giống nhau, ở mỗi tác giả,
mỗi giai đoạn, c ng một h nh ảnh biểu tượng đó, lại có thể chứa đựng những tâm
tư riêng. Chính đ c điểm này làm thơ vịnh vật có sự phong phú, đa dạng.
T
, về m t nghệ thuật, ngoài những bút pháp chung của văn học
trung đại, thơ đề vịnh c n có bút pháp nghệ thuật riêng. Như đã nói ở trên, mục
đích chính của thơ đề vịnh không phải là ở sự việc, sự vật mà n m ở tâm tư của
chủ thể. Do đó, bút pháp của thơ vịnh vật là bút pháp được s dụng để tái tạo
nên lớp nghĩa sâu hơn phía sau t ng miêu tả bên ngoài. Trong thơ đề vịnh, gợi
mới là trọng tâm, tả không phải là mục đích chính. V thế, khi tiếp cận giải mã
thơ vịnh vật, c n có sự liên tưởng linh hoạt và phong phú để có thể cảm nhận
được sâu s c những kí thác được g i g m sau những sự vật, sự việc được miêu
tả. Một đ c điểm nữa về m t h nh thức của thơ vịnh vật là ngư i đọc r t dễ dàng
nhận ra chúng, bởi nhan đề của thơ vịnh vật thư ng là gọi tên đối tượng được
miêu tả, chẳng hạn như: Cúc thi, Mai thi, T
Vị
H ỳ
…
ó là một số đ c điểm cơ bản góp ph n khu biệt thơ vịnh vật với các d ng
thơ khác trong văn học trung đại Việt Nam.
11
1.2. Một số nét về thơ vịnh vật Việt Nam
Ở Trung Quốc, thơ vịnh vật manh nha từ r t sớm, phát triển mạnh vào giai
đoạn Lục triều (222 - 589), tiếp tục được sáng tác phổ biến trong các giai đoạn
sau. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu Trung Quốc, trong T
Đườ
có khoảng 6261 bài thơ vịnh vật trên tổng số g n 5 vạn bài . Các tác giả lớn
trong văn học, văn hóa Trung Quốc như Lục Du, Chu Hi... đều có số lượng thơ
vịnh vật khá phong phú và đã được nghiên cứu c n kẽ. Ở các th i k khác nhau,
mức độ phát triển của thơ vịnh vật có thể có những biến động, nhưng nh n
chung, đây là một dạng thơ được các nhà thơ xưa khá ưa chuộng trong việc bày
t tâm tư, t nh cảm, hoài bão của m nh.
Ở Việt Nam, thơ vịnh vật không phát triển từ sớm và mạnh như ở Trung
Quốc nhưng c ng có đ i sống riêng với các th i kỳ phát triển khác nhau. Không
thể phủ nhận t m ảnh hưởng lớn lao và sâu s c của văn hóa và văn học Trung
Quốc đối với văn hóa và văn học Việt Nam th i trung đại. V vậy, không có gì
khó lí giải khi một dạng thơ được ưa chuộng ở Trung Quốc c ng có sự phát triển
tương đối khả dĩ ở Việt Nam. Là một thể loại thơ đáp ứng được nhu c u bày t
tâm tư, t nh cảm một cách kín đáo, ph hợp với th m mĩ của các nhà nho nên
đối với các tác gia của văn học trung đại Việt Nam, thơ vịnh vật có một sức hút
riêng. Số lượng thơ vịnh vật ở mỗi th i k có thể biến thiên, song có thể khẳng
định đây là một dạng thơ được sáng tác tương đối phổ biến.
Nh n lại lịch s văn học trung đại Việt Nam, có thể th y thơ vịnh vật xu t
hiện từ th i Lí - Tr n, song số lượng chưa phong phú. Th i Lý – Tr n, tư tưởng
xã hội Việt Nam vẫn chịu sự chi phối, ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo. Trong
d ng thơ thiền Lý – Tr n, ph n lớn các tác ph m đều d ng để nói về giáo lý nhà
Phật, thể hiện những tư tưởng của Phật giáo, về công đức của các thiền sư. C ng
có một số tác ph m thể hiện những v n đề g n g i với đ i sống xã hội hơn, có
những tác ph m l y h nh ảnh thiên nhiên làm đối tượng miêu tả, song đó chưa là
12
những bài thơ vịnh vật. Ví như bài C
ị
của Mãn iác Thiền sư có
nói đến nhành mai nở sau khi xuân đã tàn, song đó chỉ là một h nh ảnh gợi sự
siêu thoát, siêu việt của ngư i tu hành đ c đạo, vượt kh i thế tục, sinh t , hưng
phế, không phải thơ vịnh hoa mai. Nhành mai đó được nh c đến theo một kiểu
khác, không giống cách vịnh hoa mai để tượng trưng cho sự thanh cao, ph m
ch t quân t của các nhà nho. Trong văn học Phật giáo th i Lí - Tr n, không
phải không có những bài thơ r t g n thơ vịnh vật, manh nha những yếu tố của
thơ vịnh vật như T ạ
Mã của Hứa ại Xả và H
của Nguyễn
iác Hải.
C ng có khi h nh ảnh thiên nhiên xu t hiện trong thơ các nhà sư:
L
ạT
C
ầ
dươ
ã
,
.
(Hoa cúc ở bên giậu trong tiết Tr ng dương,
Chim oanh ngày tr i m hót đ u cành .
H nh ảnh thiên nhiên trong câu thơ trên của thiền sư Viên Chiếu và thi liệu
được dùng là h nh ảnh hoa cúc nở bên giậu, tứ thơ tương tự thơ của các nhà
Nho, phảng ph t ý thơ của nhà thơ ào Uyên Minh th i T n.
Tuy nhiên, nếu xét kĩ, có thể nhận th y đó vẫn chưa thực sự là thơ vịnh vật,
các h nh ảnh của thiên nhiên xu t hiện hoa, bướm đều không phải thác vật tả
chí, thác vật ngụ ý, đều không phải là đối tượng chính của bài thơ. Thơ vịnh vật
ph hợp với các nhà Nho hơn là các thiền sư. Có lẽ v vậy, trên thực tế, ở giai
đoạn th i Lý, dạng thơ vịnh vật chưa thực sự phong phú.
ến đ i Tr n, thơ vịnh vật đã có một bước phát triển mới. Các nhà thơ th i
này d là chịu ảnh hưởng của Phật giáo hay Nho giáo th trong các bài thơ vịnh
vật đều đã tả được cái sống của thiên nhiên, từ đó gợi được cái t nh của chủ
thể. Các bài thơ vịnh vật th i kỳ này đ c biệt chú ý tới các loại cây, loại hoa
tượng trưng cho ph m ch t của ngư i quân t như: t ng, cúc, trúc, mai,… Có
thể kể đến các bài thơ như Mai Tr n Nhân Tông , Mai hoa Huyền Quang ,
13
Vị
Tr n Cung , Vị
Huyền Quang , Cúc Tr n Mạnh ,… Vẫn là
nhành mai nhưng đã là nhành mai trong núi tuyết, trong gió đông, thể hiện cái
khí tượng của ngư i quân t :
T
T
ạ
â
ể
bộ
t,
.
(Mai – Tr n Nhân Tông
(Mật s t, gan đá, vươn lên trong tuyết buổi sớm,
Trang phục một màu lụa tr ng, trở lưng với gió xuân .
C ng tương tự như vậy, bông cúc trở thành h nh ảnh đẹp tượng trưng cho
tinh th n của nhà Nho, mang hương thơm ngát dẫu ở b t k hoàn cảnh nào. ến
đây, qua một số tác ph m, dư ng như ta đã th y đúng tinh th n của thơ vịnh vật.
Ngoài những cây trên c n có các h nh ảnh cây, hoa khác trong thơ vịnh vật th i
Tr n như hoa sen trong thơ Phạm Nhân Khanh, cây quế trong thơ Nguyễn
Sưởng… Ở th i kỳ này, các tác giả khác như Trương Hán Siêu, Nguyễn Ức, Tạ
Thiên Huân, V Thế Trung,… c ng có những bài thơ vịnh vật về các đề tài khác
nhau, chủ yếu đều nh m hướng tới việc bộc lộ các ph m ch t của nhà nho thông
qua các h nh ảnh thiên nhiên, đậm ch t ước lệ. ến giai đoạn cuối của th i Tr n,
chúng ta th y thơ vịnh vật theo hướng ngôn chí b t đ u xu t hiện. Th i k này,
văn học chữ Nôm chưa thực sự phát triển so với văn học viết b ng chữ Hán nên
các bài thơ vịnh vật chủ yếu được sáng tác b ng chữ Hán.
Th i nhà H , văn học không có những thành tựu lớn đ c biệt, song thơ
vịnh vật vẫn phát triển, d số lượng không nhiều. Các sáng tác vịnh vật th i kỳ
này vẫn l y các loại c cây, các loài vật làm đối tượng. Mở rộng hơn không chỉ
đề vịnh về các sự vật thiên nhiên mang ph m ch t ngư i quân t , mà trong thơ
của Nguyễn Bá Tĩnh c n có một số bài vịnh vật nói về các vị thuốc và tác dụng
của nó. Các tác giả thơ vịnh vật th i kỳ này có thể kể đến Phạm Nhữ Dực với
bài Hạ
Tr n Thu n Du với bài T
14
Tâ
ạ ẩ
ư
â
Như
vậy thơ vịnh vật th i nhà H tuy không có sự phát triển về quy mô, số lượng,
song c ng có những nét riêng.
ến thế kỉ XV, số lượng thơ vịnh vật phong phú hơn, chỉ riêng Nguyễn
Trãi đã có g n 5 bài thơ vịnh vật.
ây là th i k phát triển mạnh của Nho giáo
nên thơ văn th i k này nói chung có những phát triển khác biệt so với th i k
trước. Thơ vịnh vật c ng không phải là một ngoại lệ. Thơ vịnh vật đến th i kỳ
này không chỉ viết về các sự vật cao quý đã trở thành h nh ảnh giàu tính tượng
trưng, ước lệ, mà đã xu t hiện thêm những h nh ảnh g n g i với đ i sống khiến
cho đề tài đề vịnh trở nên phong phú đa dạng. Ngoài ra, thơ vịnh vật c ng không
chỉ là các sáng tác b ng chữ Hán, mà có cả những bài thơ viết b ng chữ Nôm,
tiêu biểu như các bài thơ vịnh vật của Nguyễn Trãi trong Q
â
. Trong
tập thơ này, những bài thơ vịnh vật không c n chỉ để ca ngợi lý tưởng cao đẹp,
ph m ch t, tiết tháo của ngư i quân t , mà c n bộc lộ những tâm tư t nh cảm
của nhà nho với trăn trở về lẽ xu t - x , hàng - tàng, với những lo l ng, suy tư
về th i cuộc…
Ngoài Nguyễn Trãi, về thơ vịnh vật th i này c n nh c đến các tác ph m
của Hội Tao đàn do vua Lê Thánh Tông làm chánh nguyên súy. Các sáng tác
của Hội Tao đàn được tập hợp trong Hồ
Đ
â
. Trong tập thơ
này, có hẳn một mục ph m vật môn , là ph n tập hợp những bài thơ vịnh vật.
Ngoài ra, ở mục thiên địa môn c ng có một số bài thơ có thể xếp vào thơ vịnh
vật. Theo thống kê sơ bộ, các bài thơ vịnh vật trong Hồ
khoảng trên 8 bài. Các bài thơ vịnh vật trong Hồ
Đ
Đ
â
â
có
ngoài
những nội dung giống với thơ vịnh vật ở th i k trước c n có điểm đáng chú ý
khác, đó là thông qua thơ vịnh vật để ca ngợi triều đ nh, ca ngợi nhà vua, ca ngợi
các tôi hiền. Thơ vịnh vật b ng chữ Hán th i kỳ này vẫn t n tại và phát triển song
song với thơ vịnh vật chữ Nôm. Có thể kể đến các tác giả có thơ vịnh vật tương đối
tiêu biểu ở giai đoạn này, như: Lý T T n, V Mộng Nguyên, Lê Thiếu Dĩnh, Tr n
15
Khản… Nét khác biệt giữa thơ vịnh vật chữ Hán và thơ vịnh vật chữ Nôm có lẽ là
ở thơ vịnh vật chữ Hán vẫn chủ yếu hướng tới các vật quen thuộc, khuôn sáo, như
tùng, cúc, trúc, mai... mà ít hướng tới các sự vật b nh thư ng như trong thơ vịnh
vật chữ Nôm. Nội dung chủ yếu của thơ vịnh vật giai đoạn này bên cạnh việc ngợi
ca triều đại với sự g p gỡ của bậc minh quân - lương tể, vẫn là bộc lộ tài năng,
ph m ch t của ngư i quân t đ ng th i thể hiện nhưng tâm sự trước th i cuộc một
cách kín đáo.
Tuy nhiên, phải đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, số lượng thơ vịnh vật mới thực
phong phú, đa dạng. Tiếp nối các thành tựu về thơ vịnh vật của Nguyễn Trãi,
của nhóm Tao đàn, thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày càng hướng tới
các sự vật g n g i hơn với đ i thư ng.
ề tài nh thế c ng có sự mở rộng.
Ngoài những loại cây, con vật quý vẫn hay xu t hiện trong thơ vịnh vật các giai
đoạn trước, trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xu t hiện những loại cây r t g n
g i như với đ i sống b nh dân nơi thôn dã, như: cây khoai, quả dưa, quả mít,…
những đ d ng hàng ngày, như: cái mõ, cái bát, cái chậu, cái tr n nhà,… những
vị thuốc đông y hay những con vật nh bé, như: đom đóm, con ngài, ếch, cóc,
gà,… Thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu viết b ng chữ Hán và tập
trung trong tập Bạ
Vâ A
với 2 8 bài, một con số kỉ lục so với các
nhà thơ có sáng tác thơ vịnh vật trước đó.
Th i kỳ này, ngoài Nguyễn Bỉnh Khiêm, tác giả là Ph ng Kh c Khoan
trong tập thơ Đ
có tới g n một trăm bài thơ vịnh vật. Khi Ph ng Kh c
Khoan đọc Kinh thi th y có tên các loại c cây, chim muông, tr ng cá,… Ông
dựa vào đó mà vịnh thơ. Các bài thơ vịnh vật trong tập thơ này khá đa dạng và
hết sức phong phú. Ngoài tập thơ này, Ph ng Kh c Khoan c n nhiều bài thơ
vịnh vật khác, n m rải rác trong nhiều thi tập. Xem xét về đề tài và bút pháp,
c ng như mối quan hệ cá nhân thân thiết giữa hai tác giả, r t có thể Ph ng Kh c
Khoan đã chịu ảnh hưởng nh t định từ thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
16
Một tác gia khác th i k này là
iáp Hải tuy số lượng thơ vịnh vật không nhiều
nhưng khá độc đáo.
Sau Nguyễn Bỉnh Khiêm, đến thế kỉ XVII – n a đ u thế kỉ XVIII, thơ vịnh
vật tiếp tục phát triển theo khuynh hướng của thơ vịnh vật giai đoạn trước. Các
nhà thơ vịnh vật tiêu biểu của giai đoạn này là Phạm Công Trứ, Ngô Th Ức,
Nguyễn Cư Trinh,...
b
ị
c biệt là tác giả Trịnh Căn với tập thơ Thiên hoàn danh
, chủ yếu viết b ng chữ Nôm, trong đó có một mục dành riêng cho các
bài thơ vịnh vật. Các bài thơ trong nhóm này ước chừng khoảng 5 bài viết về
các sự vật thư ng g p trong phủ chúa, cung vua, như: kiếm, n , quân c , kiệu
r ng,… Các bài thơ vịnh vật của Trịnh Căn thiên về ngợi ca triều đại, khá g n
với thơ vịnh vật th i Lê sơ.
iai đoạn n a cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, thơ vịnh vật b ng chữ
Nôm tiếp tục phát triển bên cạnh những bài thơ vịnh vật b ng chữ Hán.
ề tài
thơ vịnh vật th i k này phong phú và có những nét mới lạ độc đáo so với các
th i k trước. Các tác giả tiêu biểu có thể kể đến là Nguyễn Hành, Nguyễn Du,
H Xuân Hương,… hay một số bài thơ vịnh vật của các vua như Minh Mệnh,
Tự ức. ề tài thơ vịnh vật th i kỳ này phong phú, xu t hiện những đề tài mới
bên cạnh những đề tài mới.
u tiên phải kể đến sự táo bạo trong thơ vịnh vật tương truyền của bà
chúa thơ Nôm – H Xuân Hương. Thơ vịnh vật của H Xuân Hương thư ng
hướng tới các sự vật hàng ngày, đ i thư ng. Khác các tác giả đi trước, H Xuân
Hương không ngợi ca mà ngược lại thông qua vịnh vật để phơi bày bộ m t thật,
bản ch t thật của kẻ ngụy quân t . H Xuân Hương không ngại ng ng châm
biếm, đả kích những hành vi x u xa trong xã hội. Nếu có ca ngợi th H Xuân
Hương ca ngợi vẻ đẹp của ngư i phụ nữ, đề cao những ph m ch t tốt đẹp ở họ.
Cái độc đáo nh t trong thơ H Xuân Hương là dư ng như bà cung c p một lớp
nghĩa mới cho những sự vật, sự việc mà bà đề vịnh. Thơ vịnh vật của H Xuân
17
- Xem thêm -