Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy theo pháp l...

Tài liệu Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố thủ dầu một, tỉnh bình dương

.PDF
84
294
77

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THÀNH NHÂN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THÀNH NHÂN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Luật Hình sự và Tố tung hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN HƯNG BÌNH HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không có sự gian lận, sao chép từ bất kỳ nguồn nào, các số liệu, được sử dụng trong luận văn là trung thực và chính xác. NGƯỜI CAM ĐOAN NGUYỄN THÀNH NHÂN MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY ............................................................................................................................7 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy ...........................................................................................................................7 1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy .........................................................................................................................13 1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy.........................................................................14 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG..................................................................................35 2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ..........................................................35 2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. ..............................................40 Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG ....................................................................................................................51 3.1. Những yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương …………………………………………………………………………………51 3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ............................................................................................................................52 KẾT LUẬN ..............................................................................................................64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra ĐTV : Điều tra viên HĐND : Hội đồng nhân dân KSV : Kiểm sát viên KSHĐTP : Kiểm sát hoạt động tư pháp KSĐT : Kiểm sát điều tra HĐTP : Hoạt động tư pháp KSVTTP : Kiểm sát việc tuân theo pháp luật KTBC : Khởi tố bị can KTVAHS : Khởi tố vụ án hình sự VAHS : Vụ án hình sự TAND : Tòa án nhân dân THQCT : Thực hành quyền công tố TNHS : Trách nhiệm hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát KSND : Kiểm sát nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân BPNC : Biện pháp ngăn chặn DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Diện tích và Dân cư trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một (Tổng điều tra dân số ngày 01/4/2014). Bảng 2.2: Kết quả thực hiện Đề án “Xã, phường, thị trấn không có tệ nạn ma túy” trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một từ năm 2014 đến năm 2018. Bảng 2.3: Tình hình các vụ án về ma túy trên các phường thuộc thành phố Thủ Dầu Một từ năm 2014 đến năm 2018. Bảng 2.4: Thống kê tình hình các vụ án về ma túy phân theo tội danh trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một từ năm 2014 đến năm 2018. Bảng 2.5: Phân tích đặc điểm nhân thân người phạm tội trong các vụ án về ma túy trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một, tình Bình Dương từ năm 2014 đến năm 2018. Bảng 2.6: Tình hình người nghiện ma túy trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một từ năm 2014 đến năm 2018. Bảng 2.7: Kết quả khởi tố, truy tố và xét xử các vụ án về ma tuý trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương từ năm 2014 đến năm 2018. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhân loại bước vào Thế kỷ 21 với những thành tựu vĩ đại trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, khẳng định khả năng chinh phục thế giới tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của con người. Tuy nhiên, bên cạnh đó con người cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, một trong những thách thức được coi là thảm họa mang tính toàn cầu đó là ma tuý đi đôi với đại dịch HIV/AIDS. Thực tế ở Việt Nam cho thấy tình hình vi phạm, tội phạm về ma túy có diễn biến phức tạp trên hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh đồng bằng, có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển, tập trung dân cư đông nhưng đa số là dân nhập cư, trong đó có thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; Phương thức hoạt động ngày càng tinh vi, có chiều hướng gia tăng về số vụ, về tính chất nguy hiểm và hậu quả gây ra ngày càng nghiêm trọng. Vì vậy, để từng bước ngăn chặn, giảm dần tệ nạn ma túy tiến đến triệt tiêu ma túy ra khỏi đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước đã ban hành một hệ thống pháp luật khá hoàn thiện và đầy đủ trong công tác phòng, chống, xử lý tệ nạn ma túy. Nhưng thực tế cho thấy đấu tranh với các tội phạm về ma túy thật sự là một cuộc chiến đầy cam go và gian khổ, đôi khi phải trả giá bằng sức khỏe, thậm chí là cả tính mạng của những cán bộ, chiến sỹ trực tiếp đấu tranh đối với loại tội phạm này. Bởi lẽ, kinh doanh ma túy đem lại một khoản tiền lời kếch xù, lợi nhuận lớn mà ít có ngành nghề kinh doanh nào có thể so sánh được. Ma túy thường nhỏ gọn, dễ cất giấu, dễ bán, dễ tiêu thụ, dễ vận chuyển, khó phát hiện và nếu bị phát hiện thì mức hình phạt dành cho tội phạm về ma túy luôn nghiêm khắc hơn các tội phạm khác. Nhiều tội danh như sản xuất trái phép chất ma túy; Tàng trữ trái phép chất ma túy; Vận chuyển trái phép chất ma túy; Mua bán trái phép chất ma túy; Chiếm đoạt chất ma túy; Tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy có mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình nên tội phạm thường liều lĩnh, bất chấp cả tính mạng, chống trả quyết liệt để tẩu thoát. Mặt khác, ngoài đặc điểm chung thì tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, điều 1 kiện kinh tế, xã hội, phong tục tập quán, lối sống của từng địa phương, vùng miền mà công tác đấu tranh đối với tội phạm về ma túy ở mỗi nơi lại có những đặc điểm riêng. Do vậy, đây là vấn đề phải được tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ. Thành phố Thủ Dầu Một là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội quan trọng nhất của tỉnh Bình Dương và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nằm trên trục đường hướng tâm đối ngoại của TP.HCM với tuyến cao tốc Hồ Chí Minh Thủ Dầu Một - Chơn Thành. Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, tốc độ đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ, lượng dân nhập cư tăng lên qua từng năm, tình hình an ninh trật tự, trong đó tình hình tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong nhân dân, ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều gia đình, là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng như sự phát triển chung của thành phố. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài nêu trên đem lại ý nghĩa thiết thực đối với công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy đồng thời góp phần nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Những hạn chế, tồn tại này có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân về nhận thức, lý luận và thực tiễn THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy chưa đầy đủ và thống nhất, chưa được tổng kết, rút kinh nghiệm. Để tiếp tục phát huy kết quả đạt được tiến đến hạn chế, khắc phục những thiếu sót còn tồn tại, cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết 48, 49/NQ-TW, Luật tổ chức VKSND năm 2014, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; BLTTHS năm 2015 nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra VAHS và KSHĐTP; tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm ma túy. Với những lý do nói trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương” để làm nội dung nghiên cứu viết Luận văn Thạc sỹ Luật học là hoàn toàn phù hợp, có ý nghĩa lý luận 2 và thực tiễn, mang tính thời sự cao, góp phần nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài THQCT là một trong hai chức năng hiến định của VKSND, việc đảm bảo thực hiện chức năng này cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, đã được thể chế hóa trong Nghị quyết số 08 ngày 21/01/2002 của Bộ chính trị. THQCT được thực hiện từ khi KTVAHS và trong suốt quá trình tố tụng, đảm bảo không để bỏ lọt tội phạm và người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội... THQCT và KSHĐTP trong ngành KSND luôn được đổi mới, đi vào chiều sâu và thực chất, ngày càng nâng cao về chất lượng, hạn chế được tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Bên cạnh đó, do nhiều nguyên nhân dẫn đến THQCT trong các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là THQCT trong giai đoạn điều tra các VAHS còn tồn tại nhiều hạn chế. KSV chưa có tâm thế sẵn sàng thực hiện đầy đủ các thao tac nghiệp vụ theo đúng quy chế của ngành trong khâu KSĐT nên hầu như các yêu cầu điều tra chưa sâu, sát, chưa phản ánh đúng thực trạng của hồ sơ các vụ án hình sự nên vẫn còn để xảy ra việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tâm lý nể nang, ngại va chạm, sợ mích lòng giữa KSV với ĐTV và CQĐT cũng phần nào ảnh hưởng đến chất lượng KSĐT. Thực tế này thu hút sự quan tâm không chỉ các cấp, các cơ ban, ban ngành đoàn thể mà cả những nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn, có một số công trình nghiên cứu, như: - Luận văn Thạc sĩ: “THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Đào Việt Yên, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017. - Luận văn Thạc sĩ: “KSĐT các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” của tác giả Phạm Văn Tân, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017. - Luận văn Thạc sĩ: “THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái” của tác giả Hà Minh Loan, Học viện 3 Khoa học xã hội, năm 2017. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy theo pháp luật TTHS Việt Nam tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Về mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy, phân tích thực trạng. Từ đó, làm rõ những yêu cầu và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. 3.2. Về nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu lý luận và pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy như khái niệm, đặc điểm và quy định của pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy. - Phân tích, đánh giá thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, trong thời gian 05 năm (từ năm 2014 đến năm 2018). Từ đó, nêu lên các yêu cầu nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy trong thời gian tới; đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một số quy định của pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật và thực trạng về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian, luận văn này tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian 05 năm (từ năm 2014 đến năm 2018). 4 Về chủ thể và không gian, luận văn này tập trung nghiên cứu việc THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy xảy ra tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và ngành Kiểm sát nhân dân về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy; đặc biệt là quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp; nghiên cứu tài liệu, …. 6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài Những đóng góp mới của luận văn: Luận văn đã làm rõ thêm khái niệm, đối tượng, phạm vi và nội dung của THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy; Đánh giá ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của việc THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương trong thời gian tới. Ý nghĩa của luận văn: Luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu về công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận, pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy. Do đó, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập chuyên ngành. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể áp dụng để xây dựng các kỹ năng nghề nghiệp, các thao tác nghiệp vụ trong mối quan hệ giữa KSV với ĐTV trong quá trình THQCT, KSĐT các VAHS nói chung, các vụ án về ma túy 5 nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY 1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy Theo từ điển Tiếng Việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [59, tr.973]. Để thực hiện quyền công tố, VKSND phải sử dụng các quyền năng thuộc quyền công tố trong suốt quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án. Do vậy, theo tác giả, khái niệm thực hành quyền công tố được hiểu như sau: Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKS trong việc truy cứu TNHS người phạm tội và buộc tội họ trước Tòa án. Do đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội nên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là hoạt động nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội, bảo đảm việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội có căn cứ và hợp pháp, bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội, làm oan người vô tội. Như vậy, trong các hoạt động của VKSND, bên cạnh khái niệm “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện khái niệm “Quyền công tố và THQCT”[18, tr.6]. Tuy nhiên, từ khi xuất hiện cho đến nay, khái niệm về Quyền công tố còn có nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, xã hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật” [36, tr.84]. Theo đó, quyền công tố được xác định trên cơ sở các khái niệm công tố Nhà nước và công tố xã hội. Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS thực hiện theo luật định, thể hiện được sự đồng nhất giữa khái niệm quyền công tố Nhà nước với khái niệm thẩm quyền của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và các loại án khác [18, tr.7]. 7 Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS đều là THQCT” [21, tr.17]. Quan điểm này đánh đồng quyền công tố với KSVTTPL của VKSND như vậy là chưa chính xác, bởi lẽ chức năng của VKS là THQCT và KSVTTPL. Quan điểm thứ ba cho rằng: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan (ở Việt Nam là cơ quan VKS) thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội [18, tr.7]. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa” [18, tr.7]. Theo quan điểm này, quyền công tố là nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội và chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà không có trong các lĩnh vực khác. Phạm vi quyền công tố: Về phạm vi không gian: QCT chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Về phạm vi thời gian (tức thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công tố): Hiện nay còn nhiều quan điểm nhưng tác giả đồng tình với quan điểm: “Phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật” [35, tr.40]. Bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội, thì quyền này phải phát sinh từ khi tội phạm xảy ra và nó trừng phạt người đó một cách công khai bằng con đường đưa vụ án ra Tòa án xét xử. Ở Việt Nam: Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố; bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không ngoài cơ quan VKS” [15, tr.10]. Như vậy, VKS là cơ quan độc quyền thực hiện nhiệm vụ THQCT vì các lẽ sau: VKS là cơ quan duy nhất về mặt pháp lý có 05 quyền sau: Có quyền độc lập phát động QCT; Có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; Có trách nhiệm đảm bảo đủ các chứng cứ để truy tố bị can; Có quyền quyết định truy tố bị can ra Tòa, khi đảm bảo đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần thiết phải xử lý người phạm tội trước pháp luật VKS quyết định; Có quyền để bảo đảm việc truy tố, buộc tội bị cáo theo những căn cứ và quy định của pháp luật tại Tòa án và việc chấp 8 nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội chính là bản án kết tội của Tòa án. Từ đó, khái niệm THQCT trong TTHS có thể được hiểu như sau: THQCT là hoạt động của VKS thực hiện việc nhân danh Nhà nước buộc tội đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Hiến pháp năm 2013 tại Điều 107 quy định: "VKS nhân dân THQCT, kiểm sát các hoạt động tư pháp" [29, tr.72]. Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “VKS nhân dân là cơ quan THQCT, KSHĐTP của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [30, tr.7,8] và một lần nữa được khẳng định tại Điều 20 BLTTHS năm 2015: “VKS THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” [28, tr.17]. Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội [28, tr.16]. THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS [30, tr.8]. KSHĐTP là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết VAHS [30, tr.10]. 9 Hiện nay, ở nước ta có nhiều quan điểm về việc phân chia các giai đoạn TTHS [18, tr.11]. Có quan điểm cho rằng quá trình TTHS gồm 05 giai đoạn: KTVAHS, điều tra vụ án hình sự, truy tố người phạm tội, xét xử và thi hành án [4, tr.11]. Bên cạnh đó cũng tồn tại quan điểm quá trình TTHS gồm 07 giai đoạn: KTVAHS, điều tra VAHS, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, xét xử phúc thẩm VAHS, thi hành án và giai đoạn đặc biệt (giám đốc thẩm và tái thẩm) [37, tr.10]. Dù có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia các giai đoạn TTHS, điều tra vụ án hình sự vẫn là giai đoạn không thể thiếu, điều tra là giai đoạn TTHS trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội [28, tr.16]. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra VAHS được quy định tại Điều 165 BLTTHS [28, tr.154]. Ngoài ra, VKS còn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT và kiểm sát việc KTVAHS theo quy định tại Điều 161 BLTTHS [28, tr.148, 149]. Trong giai đoạn điều tra, mối quan hệ giữa VKS và CQĐT là mối quan hệ vừa phối hợp vừa chế ước, biểu hiện qua những quyền năng theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội. Tội phạm về ma túy là một loại tội phạm, nên cũng có những đặc điểm chung như các tội phạm khác đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật, tính có lỗi và tính chịu hình phạt [18, tr.6]. Tuy nhiên, đối với tội phạm về ma tuý có những đặc điểm riêng mà các tội phạm khác không có như: Tội phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước chứ không phải của một cá nhân hay tổ chức như các tội danh khác. Các tội phạm về ma túy đều có chung đối tượng là các chất ma túy và tiền chất ma túy được quy định trong Nghị định số 82/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban 10 hành ngày 19/7/2013, có hiệu lực từ ngày 15/9/2013, ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất bao gồm 234 chất ma túy và 24 tiền chất để sản xuất ra chất ma túy; Nghị định số 126/2015/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 09/12/2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2016, sửa đổi, bổ sung Danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất, bổ sung 15 chất vào Danh mục “Các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền” và bổ sung 02 chất vào Danh mục “Các tiền chất”. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm về ma tuý ở chỗ đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của con người cũng như đến hạnh phúc gia đình và trật tự công cộng [18, tr.12]. Tính nguy hiểm của loại tội phạm này cao hơn so với các tội phạm khác được quy định trong BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia), trong số 13 tội danh về ma túy thì có 09 tội danh là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng gồm 03 tội danh có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình: khoản 4 các Điều 248; Điều 250; Điều 251; 06 tội danh có mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân: khoản 4 các Điều 249; 252; 253, 255, 257, 258; 03 tội danh là tội phạm rất nghiêm trọng gồm: 02 tội danh có mức cao nhất của khung hình phạt là đến 10 năm tù: khoản 2 các Điều 254, 259 và 01 tội danh có mức cao nhất của khung hình phạt là đến 10 năm tù: khoản 2 Điều 256; Chỉ duy nhất có 01 danh có mức cao nhất của khung hình phạt là đến 07 năm tù (khoản 2 Điều 247). Không phải ngẫu nhiên mà những nhà làm luật Việt Nam lại xây dựng riêng một chương "Các tội phạm về ma túy" trong BLHS và qua mỗi lần sửa đổi bổ sung, chương các tội phạm về ma túy lại được quan tâm, chú trọng xây dựng hoàn thiện ở tất cả các khâu lập pháp, hành pháp và tư pháp. Như vậy, chúng ta có thể hiểu: THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy là chức năng luật định của VKSND nhằm giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham 11 gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra các vụ án về ma túy, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất [61, tr.14]. Chủ thể THQCT trong giai đoạn điều tra: Như đã trình bày ở trên, quyền công tố là quyền của Nhà nước thực hiện truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội [18, tr.13]. Quyền này được Nhà nước trao cho một cơ quan duy nhất (độc quyền) là cơ quan VKS thực hiện. Do đó, VKS cũng chính là chủ thể THQCT trong giai đoạn điều tra [18, tr.13]. Đối tượng của THQCT trong giai đoạn điều tra: Là tội phạm và người phạm tội [61, tr.19]. Nội dung của THQCT trong giai đoạn điều tra: Là thẩm quyền được quy định tại Điều 165 BLTTHS [28, tr. 154, 155, 156], khái quát lại gồm: - Quyết định phát động quyền công tố để mở cuộc điều tra hình sự đối với sự kiện phạm tội (khởi tố hoặc không khởi tố VAHS). - Quyết định việc KTBC để điều tra đối với người thực hiện tội phạm (phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định KTBC, trực tiếp ra quyết định KTBC). - Quyết định việc có hạn chế hay không hạn chế quyền tự do, dân chủ của cá nhân người phạm tội (xét phê chuẩn việc bắt, gia hạn tạm giữ, tạm giam). - Quyết định việc thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng (đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án làm chấm dứt giai đoạn điều tra; quyết định truy tố bị can ra tòa làm phát sinh giai đoạn tố tụng mới – giai đoạn xét xử VAHS). Phạm vi của THQCT trong giai đoạn điều tra: Luôn gắn liền với việc tiến hành các hoạt động điều tra, được bắt đầu từ khi vụ việc phạm tội xảy ra và trong suốt quá trình điều tra đến khi kết thúc việc buộc tội. Do đó, THQCT trong giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi việc điều tra kết thúc hoặc đình chỉ vụ án. Bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, CQĐT tiến hành các hoạt động nghiệp vụ điều tra như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, lấy lời khai người làm chứng, đối chất, thực nghiệm điều tra, hỏi cung bị can,.... thì khi đó VKS có trách nhiệm THQCT. Trong trường hợp không có tội phạm thì QCT 12 cũng bị triệt tiêu, theo đó, cũng chấm dứt mọi hoạt động tố tụng, trong đó có THQCT [28, tr.145]. 1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy là một hoạt động áp dụng pháp luật vào thực tế nhằm truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội về ma túy [18, tr.15]. Hoạt động này được tiến hành bởi một chủ thể duy nhất (độc quyền) là VKS. Để thực hiện chức năng công tố, BLTTHS và Luật tổ chức VKSND quy định cho VKS một hệ thống các quyền năng pháp lý rộng lớn, trong đó có những quyền chỉ VKS được thực hiện, điển hình như quyền truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử [18, tr.15]. Các CQĐT và các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng được pháp luật giao cho một số quyền năng pháp lý cụ thể như: khởi tố, điều tra vụ án hình sự, … nhưng đó chỉ là một số quyền năng tố tụng thuộc nội dung quyền công tố. Trong đó, có những Lệnh, Quyết định bắt buộc phải được sự phê chuẩn của VKS trước khi thi hành, mới có giá trị pháp lý. Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT khi THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy là mối quan hệ vừa phối hợp, vừa chế ước. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ giữa hai chủ thể này. Cơ quan điều tra và VKS phối hợp bằng nhiều cách thức, cấp độ, tần suất khác nhau như: Phối hợp theo quy định của pháp luật (Bộ luật TTHS, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Thông tư liên tịch), các quy định giữa hai ngành, hai đơn vị cùng cấp (quy chế, quy định phối hợp), phối hợp thường xuyên định kỳ theo chương trình, kế hoạch đột xuất thông qua việc giải quyết các vụ án hình sự cụ thể. Giữa VKS và CQĐT trong TTHS đã hình thành quan hệ tố tụng đặc biệt, trong đó, VKS có quyền giám sát, yêu cầu, hủy bỏ các quyết định, hành vi không có căn cứ, trái pháp luật của CQĐT và ĐTV, nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra vụ 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan