VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH XUÂN TRÁI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Ở HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH XUÂN TRÁI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Ở HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 8.34.04.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ ANH TUẤN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực
tiễn. Các kết quả này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
khác.
Tác giả luận văn
Đinh Xuân Trái
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH ...................................................................................................... 9
1.1. Khái niệm, vai trò thực hiện chính sách cải cách hành chính ........................... 9
1.2. Nội dung và yêu cầu thực hiện chính sách cải cách hành chính nhà nước ..... 18
1.3. Điều kiện đảm bảo cho thực hiện chính sách cải cách hành chính ................. 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH Ở HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH QUẢNG NGÃI GIAI ĐOẠN
2015-2018 ............................................................................................................. 35
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách cải cách hành chính ở
huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi ........................................................................ 35
2.2. Thực tiễn tình hình thực hiện chính sách cải cách hành chính ở huyện Sơn
Tây, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2015-2018 .......................................................... 42
2.3. Đánh giá chung .............................................................................................. 56
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở HUYỆN SƠN TÂY, TỈNH
QUẢNG NGÃI ĐẾN NĂM 2025 ........................................................................ 64
3.1. Định hướng thực hiện chính sách cải cách hành chính ở huyện Sơn Tây, tỉnh
Quảng Ngãi đến năm 2025 .................................................................................... 64
3.2. Giải pháp chủ yếu thực hiện chính sách cải cách hành chính ở huyện Sơn Tây,
tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2025 ............................................................................ 67
3.3. Một số kiến nghị ............................................................................................ 84
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CỤM TỪ ĐẦY ĐỦ
TT
CHỮ CÁI VIẾT TẮT
1
CCHC
Cải cách hành chính
2
HĐND
Hội đồng nhân dân
3
TTHC
Thủ tục hành chính
4
UBND
Ủy ban nhân dân
5
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
6
XDCB
Xây dựng cơ bản
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu bảng
2.1
Tên bảng
Phân bố dân số cụ thể ở các xã (2005)
Trang
37
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền hành chính nhà nước luôn trong quá trình vận động không ngừng,
vừa bảo đảm sự quản lý nhà nước trên các lĩnh vực xã hội, vừa tìm kiếm
cách thức ứng với những đổi thay của nền kinh tế - xã hội. Đến một lúc nào
đó, các yếu tố của nền hành chính nếu không có những thay đổi, cải cách thì
sẽ trở thành lực cản, hạn chế hiệu lực, hiệu quả hoạt động, cần phải sửa đổi,
cải cách một cách tổng thể hoặc cải cách các yếu tố đang bất cập.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước đến năm 2020, Đảng ta
đã xác định cải cách hành chính (CCHC) là nội dung quan trọng trong cải
cách thể chế, là một trong ba khâu đột phá chiến lược để phát triển quốc gia.
Hơn nữa, giai đoạn hiện nay chuyển từ “Nhà nước cai trị” với chức năng chủ
yếu là quản lý thành “Nhà nước phục vụ” là nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu để
phục vụ nhân dân là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong bối cảnh
Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và
hội nhập quốc tế, đòi hỏi việc hoạch định và thực thi các chính sách để tạo ra
những nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi để phát triển trở nên cấp thiết.
Việc hoạch định và thực thi các chính sách về cải cách hành chính ở
nước ta từ gần hai mươi năm qua kể từ năm 2001 cho đến nay, tuy đã có
những tiến bộ nhất định, song vẫn còn nhiều hạn chế thách thức, cụ thể là:
Không ít chính sách ngay từ khi ban hành không phù hợp, nên phải sửa đổi,
bổ sung khá nhanh và nhiều lần tạo ra một hệ thống chắp vá, thiếu đồng bộ.
Trên thực tế, việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách trong số
đó chưa đem lại lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ ra, nên đã tiêu tốn tiền
của của nhân dân và sức lực của không ít người. Một số chính sách CCHC ở
các lĩnh vực liên quan thể chế, thủ tục hành chính về quản lý đất đai; quản lý
đầu tư xây dựng; về thuế, phí…trong quá trình thực thi còn thiếu khách
1
quan, minh bạch. Một số chính sách liên quan vấn đề thể chế, cơ cấu tổ chức
bộ máy Nhà nước, vấn đề biên chế - hợp đồng nhân sự, tiền lương – thu
nhập… trong quá trình thực hiện còn xơ cứng, thiếu minh bạch, biểu hiện sự
trì hoãn, chậm trễ so với yêu cầu thực tiễn phát triển xã hội.
Huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi) là một huyện miền núi cao nằm ở cực
tây tỉnh Quảng Ngãi. Trong giai đoạn 2011-2015 công tác CCHC Nhà nước
trên địa bàn huyện đã được các cấp uỷ, chính quyền và các ngành thường
xuyên quan tâm chỉ đạo triển khai ngày càng phù hợp với điều kiện thực tế
tại địa phương, đem lại một số kết quả nhất định. Song, so với yêu cầu thực
tiễn phát triển đặt ra thì vẫn còn đối diện nhiều bất cập, hạn chế, có thể nêu
ra: (1) Một số đơn vị, địa phương chưa thật sự chủ động trong việc nghiên
cứu, tìm các giải pháp đột phá để đẩy mạnh công tác CCHC theo lĩnh vực,
ngành phụ trách. Vẫn còn một số đơn vị chưa nhận thức đúng mức về tầm
quan trọng của công tác CCHC trong việc điều hành, phát triển kinh tế, xã
hội trên địa bàn, từ đó thiếu sự phân công, phân nhiệm rõ ràng trong việc
thực hiện công tác cải cách hành chính tại đơn vị; (2) Hiệu lực điều hành,
quản lý nhà nước ở một số cơ quan, đơn vị còn yếu, chưa nêu gương người
đứng đầu, sự phối hợp trong công tác và giải quyết công việc của một số cơ
quan, ban ngành, các xã, còn thiếu đồng bộ; (3) Năng lực, trình độ của đội
ngũ cán bộ, công chức còn chưa đồng đều, nhất là yếu về năng lực làm việc
trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông và năng lực tham mưu, đề xuất các
biện pháp về CCHC. Thái độ phục vụ nhân dân của một số cán bộ, công
chức trong giải quyết công việc cho người dân và doanh nghiệp vẫn còn biểu
hiện nhũng nhiễu, tiêu cực hoặc có hiện tượng né tránh trách nhiệm, thờ ơ
trong giải quyết công vụ, làm ảnh hưởng chung tới công tác CCHC của
huyện…
Với lý do đó, việc nghiên cứu quá trình thực thi chính sách CCHC
vừa có ý nghĩa lý luận sâu sắc, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách nhằm khắc
2
phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp, đùn đẩy, giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị, góp phần nâng cao hiệu quả chính sách CCHC đáp ứng yêu
cầu minh bạch hóa trong giai đoạn phát triển hiện nay. Đó là lý do chọn và
thực hiện đề tài “Thực hiện chính sách cải cách hành chính ở huyện Sơn
Tây, tỉnh Quảng Ngãi”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
CCHC là chủ đề không chỉ nhận được sự quan tâm đầu tư của các nhà
hoạch định và thực thi chính sách, mà chúng còn được nhiều chuyên gia và
giới khoa học nghiên cứu trao đổi ở nhiều khía cạnh, phương diện khác
nhau. Có thể nêu ra một số công trình điển hình, đó là:
Cuốn sách “Tìm hiểu hành chính nhà nước” của tác giả GS.TS
Nguyễn Hữu Khiển do Nxb Khoa học xã hội Hà Nội ấn hành năm 2001;
cuốn sách “Hành chính nhà nước” của nhóm tác giả GS.TS Nguyễn Hữu
Khiển và TS. Phạm Văn Hùng do Nxb Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh ấn
hành năm 2006. Hai công trình này đã cố gắng phát họa những nét chung cơ
bản về nội dung hoạt động hành chính nhà nước và quản lý hành chính nhà
nước.
Sách chuyên khảo “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hành chính nhà
nước” của nhóm tác giả Nguyễn Hữu Hải (chủ biên) cùng với Đặng Khắc
Ánh, Hoàng Mai do Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2014. Chuyên
khảo này trình bày khái niệm cơ bản, đặc điểm, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của hành chính nhà nước; các lý thuyết và mô hình hành chính nhà
nước; các yếu tố cấu thành nền hành chính nhà nước và quyết định hành
chính nhà nước; chức năng, hình thức và phương pháp hành chính nhà
nước…
Cuốn sách“Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền” của GS. Đoàn Trọng Truyến chủ biên do Nxb Tư Pháp Hà Nội
ấn hành năm 2006. Sách nghiên cứu này trên cơ sở học thuyết Mác – Lenin,
3
tư tưởng Hồ Chí Minh để tổng hợp hệ thống kiến thức cơ bản về nền hành
chính, về nhà nước pháp quyền, đánh giá khá rõ về nền hành chính phong
kiến Việt Nam, có cách nhìn nghiên cứu độc lập về nền hành chính Nhà
nước ta hiện nay, qua đó đề xuất cải cách nền hành chính phải xuất phát từ
yêu cầu thực tiễn và triển khai các nhiệm vụ về cải cách thể chế hành chính,
cải cách bộ máy hành chính, tinh giảm biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức trong sạch, vững mạnh.
Công trình nghiên cứu năm 2008 “Cải cách hành chính và xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” do PGS.TS Đinh Ngọc Vượng,
Viện Nhà nước và pháp luật làm chủ nhiệm. Nghiên cứu này chỉ ra rằng, cải
cách hành chính ngày nay đã chuyển sang một bước mới với bốn nội dung
trọng tâm, đó là: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính
nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Học viện Hành chính Quốc gia, Kỷ yếu hội thảo khoa học (2011), “Cải
cách hành chính nhà nước ở Việt Nam từ góc nhìn của các nhà khoa học”
NXB Lao động; Cuốn sách “Cải cách hành chính: Vấn đề cấp thiết để đổi
mới bộ máy Nhà nước” do Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh ấn hành năm
2004. Hai công trình nghiên cứu này đã tập hợp các ý kiến, bài tham luận
của các nhà khoa học, nhà lãnh đạo về hiện trạng và giải pháp CCHC nhà
nước, cải cách thể chế pháp luật liên quan đến CCHC.
Cuốn sách“Đánh giá kết quả của cải cách hành chính và các giải
pháp tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính ở nước ta” của GS.TS. Đào Trí
Úc do Nxb. Công an Nhân dân ấn hành năm 2007; Cuốn sách“Các giải
pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc
Hiến do Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2001.
Cuốn sách “Thủ tục hành chính - Lý luận và thực tiễn” của GS.
Nguyễn Văn Thâm chủ biên do Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội ấn hành năm
2002. Công trình này nghiên cứu khá công phu về thủ tục hành chính từ khái
4
niệm, ý nghĩa, đặc điểm đến thực tiễn cải cách thủ tục hành chính nước ta;
và đồng thời phân tích khá rõ cải cách thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực.
Công trình này cung cấp các tài liệu, luận cứ khá hữu ích để tham khảo trong
nghiên cứu.
Tài liệu “Cải cách nền hành chính Việt Nam: Thực trạng và giải
pháp” của nhóm tác giả Acuna-Alfaro và Jairo chủ biên do Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, UNDP và Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển hỗ
trợ cộng đồng (đồng chủ trì) do Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội ấn hành
năm 2009. Công trình này đưa ra các bình luận khá chi tiết và cụ thể về sự
phát triển nền hành chính nước ta qua hơn một thập kỷ đổi mới và đề xuất
gợi ý những giải pháp để đẩy nhanh quá trình CCHC.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu được đề cập trên chủ yếu
nghiên cứu lý luận và thực tiễn CCHC ở bình diện rộng, hoặc tập trung
nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của CCHC trên phạm vi cả nước.
Ngoài ra, có một số công trình nghiên cứu CCHC gắn liền với một địa
phương, như: Luận văn thạc sỹ năm 2013 “Đẩy mạnh cải cách hành chính
nhà nước tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2011-2020” của tác giả Lê Thị Bình
Minh, Học viện Hành chính; Luận văn thạc sỹ năm 2010 “Các giải pháp
tăng cường cải cách hành chính tại tỉnh Lào Cai” của tác giả Nguyễn Thị
Hồng Hiếu, Học viện Hành chính… Những luận văn, luận án này chủ yếu
đưa ra các nghiên cứu trường hợp về cải cách hành chính nhà nước ở một số
địa phương cụ thể.
Các công trình vừa nêu trên tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn
ở một lĩnh vực, một số địa phương khác nhau. Song với chính sách CCHC
và thực hiện chính sách CCHC ở huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi cho đến
nay, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách trực diện, có hệ thống về
thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu lực hiệu quả về việc thực hiện
chính sách CCHC ở địa bàn này. Chính vì vậy, nghiên cứu thực hiện chính
5
sách cải cách hành chính từ thực tiễn huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi là
cần thiết, có ý nghĩa thời sự về mặt lý luận và thực tiễn đối với bản thân và
địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách CCHC ở huyện Sơn Tây,
Quảng Ngãi. Qua đó, tìm kiếm giải pháp, đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách CCHC ở huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng
Ngãi hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận về thực hiện chính sách và
thực hiện chính sách CCHC; chỉ ra các yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện
chính sách CCHC.
- Khái quát, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách CCHC ở huyện
Sơn Tây, Quảng Ngãi giai đoạn 2015-2018: chỉ ra kết quả, hạn chế và
nguyên nhân cần giải quyết.
- Đề xuất định hướng hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả thực hiện chính sách CCHC ở huyện Sơn Tây, Quảng Ngãi
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động tổ chức thực hiện chính sách CCHC ở huyện Sơn Tây, QN
4.2. Phạm vi và thời gian nghiên cứu:
- Về thời gian: từ năm 2015 – 2018 và định hướng đến 2025
- Về không gian: địa bàn huyện Sơn Tây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu đề tài luận văn này dựa trên cơ sở phương pháp luận của
6
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng; lấy đường lối
chính trị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về CCHC làm định hướng nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Từ cách tiếp cận liên ngành và đa ngành khoa học xã hội và nhân văn,
luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu chu trình chính sách công, thực
hiện chính sách công với sự tham gia của các chủ thể chính sách.
Một số phương pháp nghiên cứu cụ thể được luận văn sử dụng:
- Phương pháp thu thập và phân tích văn bản, tài liệu báo cáo….
- Phương pháp nghiên cứu định tính: để khái quát hóa, hệ thống hóa
cơ sở lý luận về thực hiện chính sách CCHC.
- Phương pháp thống kê các số liệu thứ cấp thông qua các báo cáo và
tư liệu, so sánh, phân tích tổng hợp: để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả luận văn làm sáng tỏ hơn một số khía cạnh lý luận về thực
hiện chính sách CCHC, góp phần vào việc hệ thống hóa cơ sở lý luận thực
hiện chính sách CCHC.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn phân tích đánh giá Thực trạng thực hiện chính sách cải
cách hành chính ở huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2015-2018.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện
chính sách cải cách hành chính ở huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
Qua đó góp phần cung cấp một số luận cứ khoa học và thực tiễn có giá trị
tham khảo cho các cơ quan, phòng ban cấp huyện trong quá trình tổ chức
thực hiện chính sách CCHC hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, kết cấu nội
7
dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách cải cách hành chính;
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách cải cách hành chính ở
huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2015-2018;
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách cải cách hành chính ở huyện Sơn Tây, tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2025.
8
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH
HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm, vai trò thực hiện chính sách cải cách hành chính
1.1.1. Khái niệm về thực hiện chính sách cải cách hành chính
“Chính sách” là thuật ngữ được sử dụng khá rộng rãi trong thực tiễn
đời sống xã hội. Ở tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội, các chủ thể kinh
tế - xã hội đều có thể xác lập chính sách riêng của mình (như: chính sách của
Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; chính sách của doanh nghiệp/ tập
đoàn; chính sách của gia đình, dòng họ, cá nhân…). Vì vậy, cách hiểu chính
sách cũng đa dạng tùy vào chủ thể quan niệm. Điển hình theo các học giả
như:
James Anderson, chính sách là một quá trình hành động có tính hướng
đích được một hay nhiều chủ thể áp dụng để giải quyết những vấn đề phát
sinh hay những vấn đề mà họ theo đuổi.
Theo Oxford English Dictionary, chính sách công là một đường lối
hành động được theo đuổi hoặc thông qua bởi chính quyền, đảng, nhà cai trị,
chính khách.
Với B.Guy Peter quan niệm chính sách công - đó là mọi hoạt động của
Nhà nước có tác động ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của
dân chúng. Quan niệm này nhấn mạnh chủ thể ban hành và thực thi chính
sách công là Nhà nướcơ và chỉ rõ phạm vi tác động của chính sách công là
hướng vào đời sống cộng đồng của người dân.
Với Thomas R.Dye định nghĩa: chính sách công là bất cứ những gì mà
nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm. Việc lựa chọn quyết định không làm
cũng có thể không kém phần quan trọng như việc quyết định làm. Quan niệm
này là hợp lý ở trường hợp Chính phủ ra quyết định không can thiệp vào các
9
hoạt động cụ thể của doanh nghiệp nhà nước.
William Jenkins [35] cho rằng, chính sách công là sự tập hợp các quyết
định có liên quan lẫn nhau được ban hành bởi một nhà chính trị hoặc một
nhóm các nhà chính trị lựa chọn để giải quyết các mục tiêu và phương tiện
thuộc phạm vi thẩm quyền của họ nhằm đạt mục tiêu trong một tình huống cụ
thể.
Với Clarke E. Cochran cho rằng, chính sách công luôn chỉ những hành
động của chính phủ/chính quyền và những ý định quyết định hành động này;
hoặc chính sách công là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai
giành được cái gì.
Dù là mỗi định nghĩa nêu trên có các khía cạnh giới hạn nhất định,
song chúng đều hướng vào mô tả nội hàm của chính sách công mà theo học
giả Harold D.Lasswell [32] từng mô tả: Một trong các đặc điểm của chính
sách công đó là được bắt nguồn từ việc Nhà nước ban hành các quyết định
quản lý. Chính sách công hướng vào giải quyết vấn đề công cộng và tác động
ảnh hưởng tới lợi ích của số đông dân chúng trong xã hội. Mục tiêu của chính
sách nhằm tạo ra những thay đổi về hiện trạng của vấn đề hoặc điều chỉnh
hành vi để đạt được các mục tiêu phát triển của cấp quốc gia hoặc cấp địa
phương.
Chính sách công thể hiện tập trung ở mối quan hệ giữa đảng cầm
quyền, nhà nước và xã hội. Về dấu hiệu chung: (i) Chính sách công bắt
nguồn từ các quyết định do Nhà nước ban hành và nội dung của chính
sách được thể hiện trong các văn bản, quyết định của Nhà nước; (ii) Chính
sách công bao gồm một tập hợp các quyết định được ban hành và thường
được xác định dưới dạng một chuỗi các quyết định gắn liền với nhau; (iii)
Chính sách công hướng vào giải quyết vấn để công cộng và tác động đến lợi
ích của một hoặc nhiều nhóm dân cư trong xã hội; (iv) Chính sách công là
chương trình hành động, phương sách hành động được chủ thể lựa chọn thực
10
hiện để giải quyết những vấn đề cụ thể nhằm vào mục tiêu xác định. Chính
sách công được xem là “ đầu ra” của quá trình quản lý nhà nước, nó là sản
phẩm trí tuệ và lao động của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước và của cả xã
hội.
Theo đó, nội hàm của chính sách công là tổng thể các chủ trương, tư
tưởng, quan điểm, mục tiêu và hành động ứng xử của Nhà nước bằng các giải
pháp để hiện thực hóa mục tiêu đã xác định. Mục tiêu của chính sách công là
tạo ra những thay đổi và nhằm đạt được các mục tiêu phát triển của đất nước
hoặc địa phương.
Từ đây có thể hiểu: Chính sách công là hành động ứng xử do nhà nước
lựa chọn để vận hành giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn đời sống
cộng đồng phù hợp với thái độ lập trường chính trị ở mỗi giai đoạn để bảo
đảm cho xã hội phát triển theo định hướng xác định.
Thực hiện chính sách công (hay thực thi chính sách) là toàn bộ quá
trình hoạt động chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách công (ý chí của nhà
nước) thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định.
Theo tác giả Lê Chi Mai [3; tr.112], đó là bước chuyển biến những ý đồ chính
sách thành các kết quả trên thực tế thông qua hoạt động có tổ chức của các cơ
quan nhà nước nhằm hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra. Còn theo Thomas
Dye [6;tr.97], thực hiện chính sách công là việc tổ chức thiết kế tất cả các
hoạt động để thực thi chính sách đã được cơ quan lập pháp thông qua. Bởi
chính sách công với những tác động có chủ định, tức là chúng chuyển thành
chương trình hành động nhằm đạt các mục tiêu đã xác định. Theo Amy
DeGroff và Margaret Cargo, thực hiện chính sách công phản ánh một quá
trình thay đổi phức tạp mà các quyết định của Nhà nước được chuyển
thành các chương trình, thủ tục, các quy định, hoặc các hoạt động nhằm
đạt được những cải thiện xã hội. Còn với Ottoson và Green cho rằng, thực
thi là một quá trình lặp đi lặp lại, trong đó các ý tưỏng được thể hiện trong
11
chính sách công được biến đổi thành hành vi, được thể hiện thành hành
động xã hội. Thông thường, hành động xã hội được biến đổi từ chính
sách nhằm đạt được sự cải thiện xã hội; và thường được thể hiện phổ biến
nhất dưới dạng các chương trình, thủ tục, quy định và hành động.
Do đó, Thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình hoạt động của các
chủ thể tham gia tổ chức triển khai chương trình hành động bằng các giải
pháp đã được xác định trong các quyết định bằng văn bản pháp lý để bảo
đảm các mục tiêu dự kiến trong các quyết định đó thành hiện thực.
Đối với cải cách hành chính (CCHC), đó là hành vi hành chính để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền hành chính công thông qua cải cách
để thiết lập chế độ, phương pháp mới.
Theo đó, CCHC là quá trình tái thiết cơ bản nhằm thiết lập chế độ, cơ
cấu tổ chức bộ máy, nhân sự và phương pháp mới ở các lĩnh vực quản lý
hành chính nhà nước để gia tăng hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nền hành
chính công. Trong đó, riêng việc cải cách thủ tục hành chính được hiểu là cải
cách những quy định của pháp luật về trình tự và thủ tục thực hiện thẩm
quyền của cơ quan hành chính nhà nước và những người có thẩm quyền; cải
cách quá trình thực hiện thủ tục hành chính; cải cách những quy định đối với
những loại thủ tục hành chính.
Như vậy, có thể xác định: Thực hiện chính sách cải cách hành chính là
toàn bộ quá trình hoạt động của các chủ thể tham gia để tổ chức triển khai
chương trình hành động bằng các giải pháp đã được xác định trong các quyết
định về cải cách hành chính nhằm bảo đảm hiện thực hóa nội dung cải cách
hành chính theo các mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả, vì lợi ích và mục
đích chung của cộng đồng.
1.1.2. Vai trò của việc thực hiện chính sách cải cách hành chính
Chính sách công là sự kết tinh ý chí của chủ thể về phương thức
tác động đến các đối tượng, vì vậy chính sách công cũng cần phải có những
12
chức năng vai trò nhất định để tồn tại. Song, chức năng của chính sách chỉ
được thực hiện hóa khi nó tham gia vào quá trình vận động, triển khai thực
thi trong thực tiễn đời sống xã hội. Việc thực hiện/ thực thi chính sách công là
một yêu cầu tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của chính sách với tư
cách là công cụ thể chế hóa các mục tiêu tổng thể của chủ thể chính trị theo
đuổi thông qua nhà nước, là công cụ quan trọng của Nhà nước trong quản lý
vĩ mô để đạt mục tiêu mà chính sách đó theo đuổi.
Do đó, thực hiện chính sách là một khâu hợp thành chu trình chính
sách công, nó chiếm vị trí rất quan trọng trong chu trình chính sách công. Nếu
thiếu vắng công đoạn này thì chu trình chính sách công không thể tồn tại.
Nên thực hiện chính sách công là giai đoạn hiện thực hóa mục tiêu chính
sách công, nó có vai trò, ý nghĩa quyết định. Đúng vậy, thực hiện chính sách
công là trung tâm kết nối các khâu, các bước trong chu trình chính sách
thành một hệ thống, nhất là với hoạch định chính sách. Hoạch định được
chính sách công tốt và có chất lượng là quan trọng, song thực hiện tốt chính
sách công còn quan trọng hơn. Bởi lẽ, so với các khâu khác trong chu trình
chính sách, thực hiện chính sách công có vị trí đặc biệt quan trọng, là bước
hiện thực hoá chính sách trong đời sống xã hội (có chính sách công tốt nhưng
nếu không thực hiện được sẽ trở thành khẩu hiệu suông). Hơn nữa, có chính
sách tốt và quá trình thực hiện tốt sẽ đem lại thành công. Chính sách tồi song
thực hiện tốt cũng có thể dẫn đến thành công. Nhưng một khi chính sách tốt
hoặc tồi mà thực hiện lại tồi thì hiển nhiên nhận lấy sự thất bại [6; tr.97-99].
Theo Wayne Hayes [34] cũng khẳng định, có bốn khả năng xảy ra: (i) Chính
sách công tốt và thực hiện tốt dẫn đến thành công; (ii) Chính sách công tốt,
nhưng thực hiện tồi dẫn đến thất bại; (iii) Chính sách công tồi, nhưng thực
hiện tốt dẫn đến thành công; (iv) Chính sách công tồi và thực hiện tồi dẫn
đến thất bại kép.
Nói cách khác, để có được một chính sách công tốt, các nhà hoạch
13
định phải trải qua một quá trình đầu tư nghiên cứu, tìm kiếm kỹ lưỡng rất
công phu. Song dù cho tốt đến đâu thì chính sách công cũng trở thành vô
nghĩa, thậm chí còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành
chính sách (uy tín của nhà nước) - nếu chính sách đó không được đưa vào
thực hiện. Hoặc nếu chính sách công không được thực hiện đúng sẽ dẫn đến
sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của người dân và cộng đồng xã hội đối với
nhà nước. Cả hai tình huống này đều gây nên bất lợi về mặt chính trị và xã
hội, gây những bất ổn, khó khăn cho nhà nước trong công tác quản lý điều
hành kinh tế - xã hội.
Vì vậy, đối với việc thực hiện chính sách CCHC có vai trò rất quan
trọng, nó được thể hiện ở các phương diện cụ thể sau:
- Thực hiện chính sách CCHC giúp từng bước hiện thực hóa hệ mục
tiêu chính sách này.
Nhà nước ban hành chính sách CCHC nhằm giải quyết những vấn đề
thách thức và hạn chế đang đặt ra trong thực tiễn hiện nay. Do vậy, các cơ
quan Nhà nước đều kỳ vọng chính sách CCHC đáp ứng yêu cầu của hội nhập
và phát triển trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mục tiêu này chỉ đạt được kết quả tốt khi và chỉ khi thông qua quá trình vận
hành chính sách, thực hiện chính sách CCHC.
Trong quản lý, điều hành nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải đối xử với
nhiều đối tượng có quan hệ khác nhau nên việc thực hiện chính sách CCHC
nhằm biến ý đồ chính sách thành hiện thực là rất quan trọng. Xuất phát từ
địa vị chính trị, kinh tế, xã hội và pháp lý của từng đối tượng thuộc các
thành phần là đa dạng và không giống nhau, nên việc phát huy tác dụng của
các đối tượng trong quá trình vận động đến mục tiêu, nhà nước có thái độ
ứng xử một cách thích hợp với mỗi vấn đề phát sinh thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau. Và trong quản lý kinh tế - xã hội, bộ công cụ được nhà
14
- Xem thêm -