VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THỊ ANH THƯ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2018
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ THỊ ANH THƯ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
Ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Đỗ Thị Kim Định
HÀ NỘI, năm 2018
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại của nền kinh tế tri thức, bất kỳ một quốc gia nào, để có thể đi
tắt, đón đầu nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì nguồn nhân
lực chất lượng cao luôn giữ vai trò quyết định. Nếu nhiệm vụ trọng tâm của giáo
dục phổ thông là tạo ra những công dân tốt cho xã hội, cho đất nước, thì nhiệm vụ
chính của giáo dục đại học là cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho nền sản
xuất để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Do đó, trường đại học luôn là
môi trường bồi dưỡng, sáng tạo và chuyển giao những thành tựu khoa học – công
nghệ mới nhất, là đầu tàu trong việc tạo ra nguồn lao động chất lượng cao phục vụ
sự nghiệp phát triển đất nước.
Nghị quyết số 29/NQ-TW Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam nhận định: “Hệ thống giáo dục và đào tạo của nước ta đã tương đối hoàn
chỉnh từ mầm non đến đại học. CSVC, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ
rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, SV tăng nhanh, nhất là ở giáo
dục đại học. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Tuy nhiên, chất lượng,
hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học”.
Nghị quyết cũng đã đề ra mục tiêu đối với giáo dục đại học: “Tập trung đào tạo
nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học,
tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo
dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát
triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm
khu vực và quốc tế” [1].
Trường ĐH Quảng Nam được thành lập theo Quyết định số 722/QĐ-TTg
08/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là trường đại học công lập chính quy
thuộc UBND tỉnh Quảng Nam, có vị trí nằm ở khu vực trọng điểm của vùng Trung
Trung bộ và Tây nguyên; là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng NCKH có uy tín.
Trường ĐH Quảng Nam là một trường còn khá non trẻ, đội ngũ CC, VC
3
làm công tác quản lý phần lớn tuổi đời không cao, kinh nghiệm về quản trị trường
đại học chưa nhiều. Trong xu thế xã hội hóa giáo dục, với vị thế là trường đại học
địa phương, Nhà trường đứng trước nhiều khó khăn, thử thách trong công tác tuyển
sinh, nâng cao chất lượng dạy và học, xu hướng tự chủ trường đại học; công tác đào
tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao về giảng dạy, tham gia
quản lý tại trường. Trong thời gian tới, để hoàn thành sứ mệnh trở thành một trung
tâm đào tạo, bồi dưỡng và NCKH có uy tín, ngang tầm với các trường đại học lớn
trong vùng, vững vàng tiếp cận, hoà nhập với các trường đại học trong khu vực và
trên thế giới, bên cạnh sự đoàn kết, nỗ lực không ngừng của tập thể lãnh đạo và GV
Nhà trường, trường ĐH Quảng Nam cần có những chính sách đào tạo đại học phù
hợp trong điều kiện phát triển mới. Xuất phát từ những lý do nêu trên, học viên
chọn đề “Thực hiện chính sách đào tạo đại học tại trường ĐH Quảng Nam” làm đề
tài luận văn thạc sĩ ngành Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu thực trạng đào tạo đại học trong bối cảnh nền giáo dục nước nhà
thời điểm hiện tại, xu hướng phát triển các ngành trong tương lai, tìm ra hướng đi
cho đào tạo đại học của tỉnh nhà hay của từng trường cụ thể là bài toán khá nan giải
và cấp thiết đối với từng cơ sở đào tạo đại học hiện nay. Đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu, các hội thảo, các bài tham luận về chính sách công, chính sách đào tạo
đại học ở Việt Nam. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu sau:
PGS.TS Nguyễn Hữu Hải (chủ biên, 2014), Chính sách công – những vấn đề
cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách trang bị những kiến thức cơ
bản về chính sách công, công tác hoạch định và thực thi chính sách công; những kỹ
năng cơ bản về hoạch định, phân tích, tổ chức thực thi, kiểm tra, đánh giá chính
sách công giúp cho độc giả có thể vận dụng vào quản lý chính sách công, nhận thức
đúng tác dụng của phân tích chính sách để luôn quan tâm tìm kiếm các công cụ,
phương pháp phân tích chính sách công trong quản lý nhà nước.
Đề tài khoa học “Bàn về khái niệm chính sách công” (2017) do PGS.TS. Hồ
Việt Hạnh làm chủ nghiệm đã tập trung làm rõ khái niệm chính sách công dựa trên
4
cách tiếp cận quyền lực và trong sự so sánh với chính sách tư.
TS. Trần Văn Hùng (chủ nhiệm), đề tài “Tác động của các chính sách đổi mới
giáo dục đại học đối với sự phát triển quy mô của hệ thống giáo dục đại học”. Đề
tài là nghiên cứu thực trạng về sự tác động của các chính sách đổi mới giáo dục đại
học đối với sự phát triển quy mô của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam trong giai
đoạn vừa qua ở nước ta và đề xuất những định hướng cho việc xây dựng chính sách
phát triển giáo dục đại học đến năm 2020.
PGS.TS. Trần Khánh Đức (2007), đề tài khoa học “Kinh tế tri thức và phát triển
chương trình đào tạo đại học hiện đại”. Đề tài phân tích đặc điểm và các xu hướng
phát triển của nền kinh tế tri thức trong xã hội hiện đại. Vai trò của tri thức trong phát
triển và phát triển giáo dục trong nền kinh tế tri thức và kỷ nguyên thông tin, đặc biệt
là về vấn đề nội dung giáo dục và phát triển chương trình đào tạo đại học.
TS. Trịnh Ngọc Thạch (2017), đề tài khoa học “Chính sách phát triển giáo
dục đại học: những thành công ở các nước phát triển và bài học gợi ý cho Việt
Nam”. Đề tài đã có cái nhìn rất bao quát và đưa ra các nhận xét sắc bén về những
những thành quả đạt được của giáo dục đại học ở các quốc gia phát triển, và gợi ý
bài học kinh nghiệm trong chính sách phát triển giáo dục đại học của Việt Nam về
một số vấn đề như: 1) Đề cao quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo
dục đại học; 2) Chính sách đầu tư tài chính cho giáo dục đại học theo mô hình “chia
sẻ chi phí”; 3) Tăng cường liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp để tạo cơ
chế gắn kết giữa đào tạo, NCKH với sản xuất và dịch vụ trong các trường đại học;
4) Đào tạo, bồi dưỡng GV để đáp ứng yêu cầu của các chương trình đào tạo chất
lượng cao, tạo bước đột phá về chất lượng giáo dục đại học; 5) Xây dựng hệ thống
tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục đại học độc lập.
PGS.TS. Lê Hữu Ái (chủ biên), “Giáo dục đại học Việt Nam hiện nay: thực
trạng và giải pháp nâng cao chất lượng”. Trong công trình này, các tác giả đã tập
trung phân tích những bất cập, yếu kém của giáo dục đại học ở nước ta hiện nay,
đặc biệt là khía cạnh chất lượng giáo dục và đào tạo. Trên cơ sở đó, bài viết luận
chứng một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của giáo dục đại học trong phát triển
5
kinh tế ở nước ta hiện nay.
PGS. TS Lâm Quang Thiệp, báo cáo nghiên cứu “Tổng quan về chính sách
giáo dục đại học Việt Nam và ý nghĩa đối với phát triển giáo dục đại học định
hướng nghề nghiệp ứng dụng”. Báo cáo đã đưa ra một bức tranh tổng quan về chính
sách giáo dục đại học, phân tích những diễn biến, những bước phát triển mới trong
chính sách giáo dục đại học. Báo cáo đã góp phần một mặt giúp lãnh đạo các trường
có một cái nhìn toàn cảnh để định vị vai trò, sứ mạng của trường mình một cách phù
hợp, mặt khác giúp các nhà hoạch định chính sách ở các Bộ thấy rõ những điều còn
thiếu và cần được xây dựng.
Hầu hết các công trình nghiên cứu trong thời gian qua đều khẳng định vai trò
quan trọng của chính sách công, trong đó có chính sách đào tạo đại học. Tuy nhiên,
những bài viết trên chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu chính sách ở tầm rộng lớn,
nghiên cứu cả hệ thống chính sách hoặc nghiên cứu ở quy mô toàn quốc. Cho đến
nay, chưa có công trình nghiên cứu nào về thực hiện chính sách đào tạo đại học tại
trường ĐH Quảng Nam. Vì thế, việc nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học về
thực hiện chính sách tại trường ĐH Quảng Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ
sở cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ, toàn diện về những mặt tích cực và hạn chế của
hoạt động thực hiện chính sách đào tạo tại trường ĐH Quảng Nam từ đó đề xuất
những giải pháp phù hợp để hoạt động thực thi chính sách ngày càng chất lượng và
hiệu quả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về lý luận chính sách đào tạo đại
học; phân tích, đánh giá thực trạng chính sách đào tạo đại học từ thực tiễn trường
ĐH Quảng Nam hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách
đào tạo đại học từ thực tiễn trường ĐH Quảng Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ khái niệm, nội dung, vai trò cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến
thực hiện chính sách đào tạo đại học.
6
- Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo đại học từ thực tiễn Trường
ĐH Quảng Nam; phân tích, làm sáng tỏ những thành tựu và hạn chế.
- Phân tích nhu cầu, định hướng và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn
thiện chính sách đào tạo đại học từ thực tiễn trường ĐH Quảng Nam phù hợp với
điều kiện thực tế trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu việc thực hiện chính sách đào tạo đại học từ thực tiễn trường ĐH
Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trường ĐH Quảng Nam.
- Về thời gian: Tập trung đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo đại
học tại trường ĐH Quảng Nam từ năm 2013 đến năm 2017 và đề xuất định hướng,
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo đại học tại trường ĐH
Quảng Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
– Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về đào tạo đại học tại các cơ sở giáo dục trong hệ thống
giáo dục quốc dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê, mô tả, so sánh; phương pháp thu
thập thông tin.
Chương 1: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra các
khái niệm về chính sách, chính sách đào tạo đại học, đồng thời chỉ ra các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện chính sách đào tạo đại học.
Chương 2: Sử dụng phương pháp thu thập số liệu, tài liệu, tổng hợp, phân tích,
7
đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo đại học từ thực tiễn Trường ĐH
Quảng Nam.
Chương 3: Sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp để rút ra
những giải pháp thực hiện chính sách đào tạo đại học từ thực tiễn Trường ĐH
Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài vận dụng lý thuyết khoa học chính sách công để làm rõ vấn đề lý luận
về chính sách đào tạo đại học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài không những góp phần hoàn thiện cơ sở khoa học chính sách công mà
còn cung cấp các luận cứ để bổ sung, hoàn thiện lí luận, quan điểm, chủ trương,
chính sách về định hướng xây dựng chính sách đào tạo đại học tại trường ĐH
Quảng Nam nói riêng và trường đại học ở Việt Nam nói chung. Luận văn cũng giúp
cho UBND tỉnh Quảng Nam, các sở, ban, ngành liên quan, các nhà hoạch định
chính sách có cơ sở khoa học và thực tiễn để vận dụng, điều chỉnh chính sách và tổ
chức thực hiện chính sách đào tạo đại học tại trường ĐH Quảng Nam một cách hiệu
quả hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
tham khảo, luận văn gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào tạo đại học
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo đại học từ thực tiễn trường
ĐH Quảng Nam
Chương 3: Một số giải pháp thực hiện chính sách đào tạo đại học ở trường ĐH
Quảng Nam
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC
1.1. Khái niệm và vai trò của thực hiện chính sách đào tạo đại học
1.1.1. Khái niệm thực hiện chính sách đào tạo đại học
1.1.1.1. Khái niệm đào tạo, đào tạo đại học
Đào tạo, theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu là “dạy dỗ, rèn luyện để trở nên
thành người hiểu biết, có nghề nghiệp” [46] hay “làm cho trở thành người có năng
lực theo tiêu chuẩn nhất định” [45].
Theo Khoản 1, Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 05/3/2010 về đào tạo, bồi dưỡng CC đã định nghĩa: “Đào tạo là quá trình
truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống các tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp
học, bậc học” [15].
Như vậy, có thể hiểu đào tạo là việc trang bị các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
năng nhằm phát triển các cá nhân để đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Quá
trình truyền đạt này phải là một quy trình khép kín với những chuẩn mực và hệ
phương pháp dạy và học cụ thể, trong một khoản thời gian nhất định. Tùy theo mỗi
cấp học, ngành học mà mục tiêu đào tạo, chương trình học, nội dung môn học, thời
gian đào tạo tương ứng. Kết thúc khóa học, nếu người học đáp ứng được yêu cầu thì
được cấp bằng hay chứng chỉ.
Đại học, theo Luật Giáo dục đại học 2012 định nghĩa rằng: “Đại học là cơ sở
giáo dục đại học bao gồm tổ hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện NCKH
thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, để đào
tạo các trình độ của giáo dục đại học” [33]
Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học gồm trình độ cao đẳng, trình độ đại
học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ, được thực hiện theo hai hình thức là giáo dục
chính quy và giáo dục thường xuyên.
Vậy Đào tạo đại học là khái niệm chỉ hệ thống các biện pháp, các tổ chức đào
9
tạo, hoạt động giảng dạy, truyền thụ kiến thức của người thầy đến người trò ở trình
độ đại học.
Đào tạo đại học và đào tạo sau đại học là bậc đào tạo sau cùng trong hệ thống
giáo dục và đào tạo của một quốc gia: đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, bao gồm
các nhà khoa học, các chuyên gia, kỹ sư và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở
các trình độ khác nhau. Đào tạo đại học không trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất vì vậy chúng không trực tiếp tạo ra các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên, theo
phân công lao động xã hội, đào tạo đại học là nơi duy nhất có đủ điều kiện và đủ
khả năng cung cấp nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng và trình độ chuyên môn cao
cho nền kinh tế. Đào tạo đại học làm tăng giá trị cho mỗi cá nhân thông qua việc
trang bị cho họ tài khéo kéo, sự hiểu biết để làm ra nhiều của cải vật chất hơn cho
bản thân, gia đình và xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm chính sách, chính sách đào tạo đại học
Chính sách là một thuật ngữ sử dụng rất phổ biến hiện nay, theo cách hiểu
thông thường chính sách là tổng thể các quan điểm, giải pháp, công cụ mà chủ thể
quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực hiện các
mục tiêu nhất định trong một giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể.
Đứng trên góc độ Nhà nước, chính sách do cơ quan Nhà nước ban hành chính
là Chính sách công. Chính sách đào tạo đại học là một bộ phận của chính sách công
do các cơ quan Nhà nước ban hành để giải quyết các vấn đề thực tiễn, khó khăn,
vướng mắc ở lĩnh vực đào tạo đại học nảy sinh trong đời sống xã hội nhằm hướng
đến thực hiện mục tiêu chung là ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Trên cở sở những phân tích trên, tác giả xin đưa ra khái niệm về chính sách
đào tạo đại học như sau: là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của
Nhà nước nhằm đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức,
kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa
học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng
tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý thức
phục vụ nhân dân.
10
1.1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách đào tạo đại học
Mỗi chính sách được triển khai trên thực tế phải trải qua một chu trình với
nhiều công đoạn khác nhau. Chu trình chính sách là tất cả các công việc từ đầu
đến cuối của một chính sách, kể từ khi nảy ra ý tưởng tới việc định hình, kiểm
nghiệm, sửa đổi hoặc huỷ bỏ nó. Việc thực hiện chính sách công diễn ra theo
một logic, trật tự và đặc biệt có tính kế thừa rất cao. Chính sách công là một chu
trình tuần hoàn khép kín, được lặp đi lặp lại và biến động, gồm ba bước theo
trình tự sau:
- Hoạch định chính sách;
- Triển khai thực hiện chính sách;
- Tổng kết, đánh giá chính sách hay phân tích tác động của chính sách và cuối
cùng là những phản hồi đối với các chính sách đang được áp dụng, từ đó có thể dẫn
tới việc xem xét lại hay chấm dứt chính sách công đó.
Là một khâu quan trọng trong chu trình chính sách, thực hiện chính sách là
quá trình thực thi các chương trình hoặc các chính sách; nó biểu thị bằng việc
chuyển các kế hoạch thành thực tế, là quá trình quá trình chuyển hóa toàn bộ ý chí
của chủ thể chính sách thành hiện thực. Nói cách khác, “thực hiện chính sách bao
gồm các hoạt động có thể thức được chính phủ thực hiện hướng tới đạt các mục
đích và mục tiêu tuyên bố trong chính sách” [30].
Từ đó, ta có thể hiểu thực hiện chính sách đào tạo đại học là quá trình biến các
chính sách đào tạo đại học thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động
có tổ chức trong bộ máy nhà nước nhằm hiện thực hoá mục tiêu đã đề ra. Tổ chức thực
hiện chính sách là tất yếu khách quan, là một bước quan trọng trong chu trình chính
sách, là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với
các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu, định hướng của chính sách.
1.1.2. Vai trò của thực hiện chính sách đào tạo đại học
1.1.2.1. Thực hiện chính sách đào tạo đại học nhằm biến ý đồ chính sách
thành hiện thực
Trong quá trình quản lý điều hành quốc gia, nhà nước phải đối xử với nhiều
11
đối tượng, nhiều thành phần, nhiều giai cấp tầng lớp khác nhau. Do địa vị chính trị,
kinh tế, xã hội và pháp lý của từng đối tượng không giống nhau, nên vai trò của
chúng đối với quá trình phát triển xã hội cũng khác nhau. Để phát huy tác dụng của
các đối tượng trong quá trình vận động đến mục tiêu, nhà nước phải có thái độ ứng
xử một cách thích hợp với mỗi vấn đề phát sinh trong từng giai đoạn cụ thể. Công
cụ được nhà nước dùng để chuyển tải thái độ ứng xử của mình đến các đối tượng
quản lý đó chính là chính sách. Tùy theo yêu cầu quản lý phát triển nền kinh tế – xã
hội ở từng thời kỳ, nhà nước chủ động ban hành các chính sách công để thể hiện ý
chí trong quan hệ với các đối tượng theo mục tiêu.
Nghị quyết số 29/NQ-TW khóa XI ngày 04/11/2013 một lần nữa khẳng định
quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” [1]. Trong đó đào tạo đại
học có nhiệm vụ đào tạo cho SV “có kiến thức chuyên môn toàn diện, nắm vững
nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội, có kỹ năng thực hành cơ bản, có khả năng làm
việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc ngành được đào tạo” [33].
Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo thời gian qua còn thấp so
với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học. Do đó, nhà nước đã xây dựng nhiều chính sách
khác nhau nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo đại học, đưa chất lượng giáo
dục đại học Việt Nam tiệm cận với nền giáo dục của các quốc gia trong khu vực và
quốc tế.
1.1.2.2. Thực hiện chính sách đào tạo đại học nhằm từng bước thực hiện các
mục tiêu chính sách và mục tiêu chung
Mục tiêu của chính sách đào tạo đại học có liên quan đến nhiều hoạt động chính
trị, kinh tế, xã hội theo những cấp độ khác nhau, nên không thể cùng một lúc giải quyết
tất cả các vấn đề có liên quan và cũng không thể đốt cháy giai đoạn của mỗi quá trình.
Thực thi chính sách đào tạo đại học để giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ biện
chứng với mục tiêu cơ bản nhất để thúc đẩy quá trình vận động của cả hệ thống đến
mục tiêu chung. Mục tiêu chính sách đào tạo đại học chỉ có thể đạt được thông qua
thực thi chính sách đào tạo đại học, đồng thời giữa các mục tiêu chính sách đào tạo đại
học có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng rất lớn đến nhau và đến mục tiêu chung.
12
Mục tiêu lâu dài và tổng quát của đào tạo đại học là: “Đào tạo nhân lực, nâng
cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; NCKH, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới,
phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội
nhập quốc tế” [33]. Do đó, mục tiêu của chính sách đào tạo đại học là phải xác định
được SV, học viên đạt được những gì sau khi kết thúc khóa học, mức độ kiến thức,
kỹ năng và khả năng thực hiện công việc sau đào tạo.
Vì thế, các cơ sở giáo dục đại học khi xây dựng, ban hành các chương trình
đào tạo cần nêu rõ mục tiêu, yêu cầu kiến thức, kỹ năng cần đạt được của từng
chương trình. Bên cạnh đó việc ban hành và công bố chuẩn đầu ra cho từng chương
trình đào tạo cũng chính là cam kết của nhà trường với xã hội về chất lượng đào tạo
của cơ sở giáo dục. Việc thực hiện tốt chính sách đào tạo đại học ở từng trường sẽ
tạo động lực cho việc hoàn thành các mục tiêu chung về chính sách giáo dục đào tạo
và chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.1.2.3. Thực hiện chính sách đào tạo đại học nhằm khẳng định tính đúng đắn
của chính sách
Trong chu trình chính sách công thì thực thi chính sách đóng vai trò thẩm định
tính hiệu quả của các chính sách khi đã được hoạch định, xây dựng. Thực thi chính
sách chính là bước đầu tiên cho thấy tính đúng đắn hay không của vấn đề chính
sách. Chính sách đúng đắn là chính sách đáp ứng đầy đủ các yêu cầu (tiêu chuẩn)
của một chính sách, tập trung giải quyết tốt những vấn đề kinh tế, xã hội được đặt
ra. Tuy nhiên, một chính sách sau khi hoạch định được xem là tốt thì giá trị của nó
cũng chỉ mới dừng lại ở phương diện nguyện vọng, mong muốn mà thôi. Tính
chuẩn mực của chính sách ở giai đoạn này cũng mới chỉ là sự thừa nhận của chủ thể
ban hành chính sách. Một khi chính sách được triển khai thực hiện rộng rãi trong
đời sống xã hội, thì tính đúng đắn của nó được khẳng định ở mức cao hơn, tức là
được cả xã hội thừa nhận, đặc biệt là các đối tượng thụ hưởng chính sách.
Việc thực hiện các chủ trương, chính sách đào tạo đại học trong những năm
qua đã góp phần đào tạo ra lực lượng lao động chất lượng cao phục vụ đắc lực cho
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
13
1.2. Nội dung của thực hiện chính sách đào tạo đại học
1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo đại học
Tổ chức thực hiện chính sách đào tạo là một quá trình phức tạp và diễn ra
trong một thời gian dài. Vì vậy phải lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan liên
quan triển khai thực hiện chính sách một cách chủ động hoàn toàn. Ở giai đoạn
ngày, người tham gia lập kế hoạch thực hiện chính sách cần phải hiểu và nắm chắc
mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô và tầm quan trọng của
chính sách để trên cơ sở đó xác định mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, các nguồn nhân
lực và vật lực, thời gian và giải pháp tổ chức thực hiện chính sách. Việc lập kế
hoạch triển khai thực hiện chính sách tốt sẽ giúp cho việc thực thi chính sách được
trôi chảy và không phải thông qua điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện.
Việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo đại học cần
phải bám sát thực tế, đảm bảo đúng với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước. Kế hoạch thực hiện chính sách đào tạo đại học phải hướng
đến mục tiêu chung: “Đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài;
NCKH, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế; Đào tạo người học có
phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng
lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình
độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích
nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân”. Và mục tiêu cụ thể:
“Đào tạo trình độ đại học để SV có kiến thức chuyên môn toàn diện, nắm vững
nguyên lý, quy luật tự nhiên - xã hội, có kỹ năng thực hành cơ bản, có khả năng làm
việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc ngành được đào tạo” [33]
Căn cứ hệ thống các văn bản, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước về đào tạo đại học, ở từng địa phương, từng vùng, từng cơ sở giáo dục đại học,
trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu nguồn nhân lực địa phương, vùng, tiềm lực đào tạo
của từng cơ sở giáo dục (nhân lực, tài lực, vật lực….) tiến hành xây dựng kế hoạch,
chương trình trong từng giai đoạn khác nhau nhằm thực hiện có hiệu quả nhất mục
14
tiêu của chính sách đào tạo đại học đã đề ra.
1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách đào tạo đại học
Phổ biến, tuyên truyền chính sách là công đoạn truyền bá chính sách qua
nhiều kênh khác nhau có thể là trực tiếp, gián tiếp hay thông qua phương tiện
thông tin đại chúng nhằm mục đích làm cho các đối tượng chịu tác động trong
chính sách, cán bộ, CC và người dân hiểu ý nghĩa của chính sách và thực thi tốt
chính sách đó.
Phổ biến, tuyên truyền chính sách là công việc mang tính thường xuyên và
liên tục và đóng vai trò rất quan trọng. Nếu công tác phổ biến, tuyên truyền chính
sách không được thực hiện tốt (thiếu năng lực phổ biến, tuyên truyền) thì dễ có
nguy cơ làm cho chính sách bị biến dạng, làm giảm uy tín, niềm tin của nhân dân
vào Đảng, Nhà nước. Đối với người dân, việc phổ biến, tuyên truyền chính sách đào
tạo đại học giúp cho người dân hiểu rõ được tầm quan trọng, mục tiêu, tính chất,
quy mô của chính sách cũng như quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước trong
việc nhấn mạnh vai trò cốt yếu của chính sách giáo dục, đào tạo nhất là đào tạo đại
học trong việc hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa quốc gia.
Đối với các cơ sở giáo dục:
- Giúp cho nhà trường nắm bắt nhu cầu thị trường lao động, chuyển hướng đào
tạo đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và
quốc tế.
- Đẩy mạnh các hoạt động NCKH trong đội ngũ GV, SV, ứng dụng tốt các
phương tiện kỹ thuật trong dạy học, đổi mới phương pháp giảng dạy đem lại hiệu
quả cao, đầu tư CSVC, thực hành… nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
- Thu hút, đào tạo bồi dưỡng GV có năng lực và trình độ cao phục vụ trong
công tác giảng dạy.
- Chú trọng đến công tác liên kết, hợp tác đào tạo và NCKH giữa các cơ sở
giáo dục trong nước và quốc tế.
Đối với NLĐ:
15
- Đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng phát triển, khẳng định bản thân, nhu cầu “học
tập suốt đời”, nâng cao trình độ, mở mang trí tuệ của người dân.
- Trang bị cho NLĐ những kiến thức chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo cần thiết
làm hành trang cho họ khi tham gia vào thị trường lao động.
Đối với một quốc gia:
Đào tạo là vấn đế sống còn của một đất nước, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. Chính
vì vậy, đầu tư cho giáo dục là khoản đầu tư chiến lược và quyết định cho sự phồn
vinh của đất nước.
1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách đào tạo đại học
Từ nội dung chính sách đào tạo đại học, các Bộ, ngành, địa phương căn cứ vào
kế hoạch nhiệm vụ của mình chỉ đạo các cơ sở giáo dục đại học ở địa phương phối
hợp, xây dựng kế hoạch đào tạo hàng năm của đơn vị mình và thực hiện công tác
báo cáo định kỳ đến cơ quản quản lý.
Trong kế hoạch đào tạo đại học, các cơ sở giáo dục trên cơ sở nguồn nhân lực
hiện có: đội ngũ GV, điều kiện CSVC, phương tiện trang thiết bị kỹ thuật phục vụ
cho công tác giảng dạy, việc khảo sát nhu cầu về nguồn nhân lực theo ngành tại địa
phương, trong phạm vi toàn quốc và quốc tế theo từng giai đoạn để trình lên cơ
quan chức năng chỉ tiêu, kế hoạch tuyển sinh hàng năm.
Các Bộ, ngành, cơ quan chức năng phối hợp, theo dõi sâu sát quá trình tổ chức
đào tạo đại học tại các cơ sở giáo dục đại học trong phạm vi thẩm quyền quản lý.
Các cơ sở giáo dục đại học có trách nhiệm trong việc quản trị trường đại học từ
khâu truyển sinh đầu vào, tổ chức quá trình dạy và học, quản lý chất lượng dạy và
học của thầy trò trong nhà trường, quản lý chất lượng SV khi tốt nghiệp, khảo sát
được tình hình việc làm của SV sau tốt nghiệp và sự “tiếp nhận” của các nhà tuyển
dụng đối với “sản phẩm” của nhà trường. Xây dựng và bảo vệ danh tiếng, uy tín đào
tạo của nhà trường là hình thức tạo nên “thương hiệu” của cơ sở giáo dục trên thị
trường lao động hiện nay.
Tên phạm vi toàn quốc, cho đến nay hệ thống giáo dục và đào tạo của nước ta
16
đã tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Theo thống kê của Bộ GD-ĐT,
tính đến hết năm học 2016-2017, nước ta hiện có 235 trường đại học, học viện (bao
gồm 170 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước
ngoài), 37 Viện NCKH được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, 33 trường cao
đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. Đội ngũ GV các trường ngày càng
được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp
vụ, nhiều GV được tham gia tu nghiệp nước ngoài, trang thiết bị CSVC được chú
trọng đầu tư. Tuy nhiên vẫn có sự chênh lệch rất lớn giữa các trường trọng điểm
quốc gia với các trường đại học địa phương.
Như vậy, để thực hiện chính sách đào tạo đại học có hiệu quả cần phải có sự
phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, các ngành, các cấp, chính
quyền địa phương và quá trình này ảnh hưởng đến kết quả thực hiện mục tiêu chính
sách. Thực hiện chính sách đào tạo đại học có hiệu quả là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, với vai trò tham mưu tích cực của ngành Giáo dục – Đào tạo. Do
vậy, công tác phối hợp và phân công cụ thể các ngành chức năng là hết sức quan
trọng, việc triển khai và thực hiện cần có sự đồng bộ, tránh chồng chéo, rườm rà,
trách nhiệm không rõ ràng.
1.2.4. Duy trì chính sách đào tạo đại học
Duy trì chính sách là hoạt động đảm bảo chính sách tồn tại được và phát huy
hiệu quả của nó trong môi trường thực tế. Muốn vậy, cần phải có sự đồng tâm, hợp
lực của cả người tổ chức, người thực hiện và môi trường tồn tại. Đây là nhiệm vụ
của các cơ quan nhà nước chủ trì tổ chức thực hiện chính sách đào tạo đại học. Nếu
việc tổ chức thực hiện chính sách đào tạo đại học gặp phải khó khăn do môi trường
thực tế biến động thì cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống quản lý tác động nhằm tạo
môi trường thuận lợi cho việc thực hiện chính sách, đồng thời chủ động, điều chỉnh
bổ sung chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Tăng cường thực hiện dân chủ để người dân mạnh dạn tham gia vào quản lý
xã hội, xã hội hóa giáo dục, từ đó ý thức được tầm quan trọng cũng như những định
hướng, mục tiêu trong chính sách đào đại học, tham gia tìm kiếm, đế xuất biện pháp
17
thực hiện các mục tiêu chính sách đào tạo đại học với các cơ quan chức năng để
điều chỉnh, bổ sung chính sách ngày càng hoàn chỉnh và phù hợp với thực tiễn.
Những hoạt động trên sẽ góp phần tích cực vào việc duy trì chính sách đào tạo đại
học hiện nay.
1.2.5. Điều chỉnh chính sách đào tạo đại học
Điều chỉnh chính sách đào tạo đại học là một hoạt động cần thiết diễn ra
thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực hiện chính sách đào tạo đại học. Nó
được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương để chính sách ngày
càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế của đất nước. Theo quy định,
cơ quan nào ban hành chính sách thì cơ quan đó được quyền điều chỉnh bổ sung
chính sách, nhưng trên thực tế việc điều chỉnh các biện pháp và cơ chế chính sách
đào tạo đại học diễn ra rất năng động, linh hoạt. Vì thế, các cơ quan nhà nước, các
ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách, miễn là không
làm thay đổi mục tiêu chính sách. Nếu cần hoàn thiện mục tiêu chính sách, các cơ
quan nhà nước, các ngành, địa phương chủ động đề xuất với cơ quan ban hành
(Quốc hội hay Chính phủ) thực hiện. Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều
chỉnh chính sách đào tạo đạo học là để chính sách tiếp tục tồn tại chỉ được điều
chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu chính sách hoặc bổ sung hoàn chỉnh
các mục tiêu theo yêu cầu thực tế. Nếu điều chỉnh là thay đổi mục tiêu, nghĩa là làm
thay đồi chính sách, thì coi như chính sách đào tạo đại học cũng không tồn tại.
1.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách đào tạo đại học
Việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách đào tạo đại học
nhằm đảm bảo cho các hoạt động của chính sách được diễn ra bình thường theo
đúng quy định pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực hiện bất kỳ chính sách nào, kể cả chính sách đào tạo đại học cũng phải
quy định cụ thể công tác thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện chính sách đào
tạo đại học tại các cơ sở giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Việc
ban hành các quy định về cơ chế tự chủ trong các đơn vị sự nghiệp công lập, quy
định về khiếu nại, tố cáo của các tổ chức, cá nhân, quyền tố cáo của các cá nhân đối
18
với các hành vi vi phạm về chính sách, quy định điều lệ trường đại học, quy định
xác định chỉ tiêu tuyển sinh, quy định về chuẩn đầu ra cho SV tại các cơ sở giáo
dục, quy định về kiểm định chất lượng giáo dục, hay quy định về công tác NCKH
hợp tác quốc tế,… nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách giáo dục đại học cần
được các cơ quan quản lý nhà nước phối hợp thanh tra, kiểm tra, đôn đốc thường
xuyên góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực thực hiện mục tiêu chính sách.
Thực tế khi triển khai thực hiện chính sách đào tạo đại học, các chủ thể được
phân công thực hiệc không phải chủ thể nào cũng làm tốt và nhanh như nhau, nên
cần có hoạt động theo dõi tiến độ thực hiện, đôn đốc, nhắc nhở để vừa thúc đẩy
các chủ thể nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ, kiểm tra tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc để tiếp tục hướng dẫn thực hiện chính sách một cách hoàn thiện hơn, thông
qua các công cụ hữu ích giúp cho các chủ thể triển khai thực hiện chính sách đào
tạo đại học đạt kết quả tốt.
1.2.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách đào
tạo đại học
Đánh giá tổng kết thực hiện chính sách là quá trình xem xét, kết luận về chỉ
đạo điều hành và chấp hành chính sách của các cơ quan nhà nước trong hệ thống
chính trị, các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.
Việc xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo, điều hành thực hiện chính sách
đào tạo đại học thông qua một số nội dung như sau: nội dung chương trình đào tạo
đã phù hợp hay chưa, việc đa dạng hóa các loại hình học tập đã đáp ứng nhu cầu
của người học theo quy định hay chưa, việc tổ chức các hoạt động dạy và học đã
phù hợp và đem lại hiệu quả hay chưa, tình hình SV tốt nghiệp ra trường, tình hình
việc làm và thu nhập của SV sau khi tốt nghiệp,…
Tùy theo cấp độ đánh giá mà có thể sử dụng các phương pháp đánh giá khác
nhau: điều tra, phỏng vấn, kiểm tra thực hành, thi viết,… Việc đánh giá, tổng kết
trong thực hiện chính sách đào tạo đại học sẽ chỉ ra được chính xác ưu điểm, hạn
chế, kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách. Có như vậy chính sách đào
tạo đại học mới phù hợp với thực thế, đi đúng với định hướng mà Đảng và Nhà
19
nước đề ra.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chính sách đào tạo
đại học
1.3.1. Các yếu tố khách quan
Yếu tố hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm
các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên
kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời
sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích
của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị chi phối và ảnh hưởng đến nội dung, hình thức của chính
sách. Hệ thống chính trị nước ta gồm các tổ chức: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, và các tổ
chức chính trị - xã hội khác. Nhà nước ban hành các chính sách nhằm thực hiện hóa
các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng cầm quyền vì thế tầm nhìn và quyết
sách của Đảng ảnh hưởng rất lớn đến nội dung (thời điểm xuất hiện chính sách,
công cụ thực hiện chính sách, quy mô chính sách, mức ngân sách đầu tư cho chính
sách,...), hình thức chính sách.
Văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là những định hướng chính trị, thái độ chính trị của chủ thể
đối với hệ thống chính trị cũng như đối với vai trò của bản thân chủ thể đó trong hệ
thống chính trị. Văn hóa chính trị tác động mạnh mẽ đến chính sách nói chung và
chính sách đào tạo đại học nói riêng vì nó tạo nên niềm tin chính trị, ý thức con
người, thúc đẩy họ hướng tới những hành động tích cực, phù hợp với lý tưởng chính
trị xã hội, từ đó tác động đến mọi mặt đời sống xã hội
Hiến pháp 2013
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của một quốc gia. Nước ta từ khi lập quốc đến
nay trải qua 5 đời Hiến pháp, mỗi bản Hiến pháp đều gắn liền với các mốc lịch sử
quan trọng, gồm các bản Hiến pháp năm: 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung
20
- Xem thêm -