Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách đối với người có công tại huyện quế sơn, tỉnh quảng nam ....

Tài liệu Thực hiện chính sách đối với người có công tại huyện quế sơn, tỉnh quảng nam .

.PDF
84
184
91

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN MINH CHÂU THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN MINH CHÂU THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Chính sách công Mã số : 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LÊ VĂN ĐÍNH HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn của quý thầy, cô đang công tác, giảng dạy tại Học viện Khoa học xã hội. Đến nay, tôi đã hoàn thành chương trình học và hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp; tôi xin cảm ơn Ban Giám đốc, Khoa Chính sách công và tập thể giảng viên đang công tác tại Học viện Khoa học xã hội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin gởi lời cảm ơn chân thành đến PGS, TS. Lê Văn Đính, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học cho tôi với tinh thần trách nhiệm cao trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Bên cạnh đó, tôi gửi lời cảm ơn đến UBND huyện, Phòng Lao động Thương binh và Xã hội huyện Quế Sơn, Đảng ủy - UBND xã Quế Hiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Bản thân đã có nhiều cố gắng, song luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu soát nhất định. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, chia sẻ của quý thầy, cô và các bạn học viên để luận văn có giá trị thực tiễn hơn. Chân thành cảm ơn! LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận văn “Thực hiện chính sách đối với người có công tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS, TS. Lê Văn Đính. Các số liệu và những kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước khi trình, bảo vệ và công nhận bởi Hội đồng đánh giá Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Chính sách công. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Học viên Nguyễn Minh Châu MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG CÁCH MẠNG ...................................................... 7 1.1. Người có công và chính sách đối với người có công ................................. 7 1.2. Nội dung và quy trình thực thi chính sách đối với người có công cách mạng ................................................................................................................ 16 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách đối với người có công cách mạng ............................................................................................... 21 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NGƯỜI CÓ CÔNG TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ........................... 26 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách người có công tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ................................................................... 26 2.2. Tình hình và kết quả tổ chức thực hiện chính sách người có công tại huyện Quế Sơn theo quy trình thực hiện chính sách ...................................... 29 2.3. Đánh giá chung về thực hiện chính sách người có công tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ...................................................................................... 48 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ......................................................................................................................... 54 3.1. Quan điểm ................................................................................................ 54 3.2. Giải pháp .................................................................................................. 56 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 BMVNAH Bà mẹ Việt Nam anh hùng 2 BHYT Bảo hiểm y tế 3 CĐHH Chất độc hóa học 4 HĐCM Hoạt động cách mạng 5 HĐKC Hoạt động khách chiến 6 NCC Người có công 7 NXB Nhà xuất bản 8 TKN Tiền khởi nghĩa 9 UBND Ủy ban nhân dân 10 NHĐCM Người hoạt cách mạng DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng bảng 2.1 2.2 2.3 2.4 Bảng số liệu người được chi trả trợ cấp hằng tháng phân bố theo địa bàn Số lượng đối tượng chính sách được xác nhận đến thời điểm năm 2018 Số liệu vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa và chăm sóc phụng dưỡng Bà Mẹ VNAH từ năm 2013-2018 Kết quả thực hiện công tác điều dưỡng người có công từ năm 2013-2018 Trang 28 37 39 40 Số liệu về sửa chữa, xây mới nhà ở cho đối tượng chính 2.5 sách, người có công theo Quyết định 22 của Thủ tướng 41 Chính phủ từ năm 2013-2018 2.6 Số liệu kinh phí tu bổ, nâng cấp, xây mới các nghĩa trang liệt sĩ, di tích lịch sử từ năm 2013-2018 43 DANH MỤC CÁC HÌNH Số hiệu Tên hình hình 2.1 2.2 2.3 Hoạt động thắp nến tri ân tại nghĩa trang liệt sĩ xã Quế Hiệp Hoạt động đặt vòng hoa tại Tượng đài chiến thắng Quế Sơn của lãnh đạo huyện Lễ quy tập hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang nhân dân xã Quế Hiệp Trang 45 46 47 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Lịch sử của Việt Nam trải qua những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Chính từ đó đã hun đúc nên một truyền thống vô cùng qúy báu của nhân dân ta, đó là truyền thống “Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ người trồng cây”. Trong thời đại Hồ Chí Minh, cùng với sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, quân và dân ta đã sát cánh cùng nhau để “Trường kỳ kháng chiến” đánh thắng hai đế quốc to lớn để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Sau khi giành độc lập, thống nhất đất nước, cùng với việc xây dựng, kiến thiết nước nhà, quân và dân ta lại một lần nữa sát cánh cùng nhau trong hai cuộc chiến tranh biên giới (biên giới Tây nam, biên giới phía Bắc) để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ. Không những vậy, trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, vẫn có không ít trường hợp phải hy sinh vì sự bình yên của nhân dân, vì chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Có thể nói rằng được một Tổ quốc vẹn toàn, để người dân đất Việt được sống trong hòa bình, tự do như hôm nay, các thế hệ cha ông ta đã mất mát, hy sinh không hề nhỏ. Đã có hàng triệu, hàng triệu người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống, hàng triệu, hàng triệu người đã hy sinh một phần thân thể và cũng có không ít gia đình phải chịu ảnh hưởng của cuộc chiến, mãi mãi không gặp lại người thân yêu. Cho đến nay, gần 45 năm qua đi kể từ ngày toàn thắng năm 1975, vẫn còn nhiều liệt sỹ chưa tìm thấy hài cốt, vẫn còn nhiều liệt sỹ chưa được trả lại tên, nhiều NCC với cách mạng chưa được công nhận, xác nhận và tri ân. Chính những điều đó mà Đảng, Nhà nước cùng nhân dân đã không ngừng làm tốt công tác Đền ơn đáp nghĩa cả về chủ trương, chính sách, nhằm chăm lo để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người có công và thân nhân người có công với nước. 1 Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách chế độ đối với thương binh, bệnh binh, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, người có công, gia đình có công giúp đỡ cách mạng và thường xuyên bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ cách mạng, đến nay đã hình thành một hệ thống chính sách mà các nội dung đều gắn liền với việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội và liên quan đến đời sống hàng ngày của người có công. Điều đó không những góp phần ổn định cuộc sống cho người có công và thân nhân người có công mà còn góp phần giáo dục truyền thống “Uống nước, nhớ nguồn” trong cộng đồng, nhất là trong thế hệ trẻ. Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật nước ta vẫn đang ở trong giai đoạn từng bước hoàn thiện, luật hóa nên vẫn còn những bất cập, chưa triệt để. Hơn nữa, Việt Nam là một nước nghèo, do ảnh hưởng của hậu quả chiến tranh, thiên tai, lũ lụt xảy ra thường xuyên, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước còn gặp nhiều khó khăn nên công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc sức khỏe và nâng cao đời sống cho người có công với cách mạng vẫn còn hạn chế. Xuất phát từ yêu cầu khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Từ những nhận định trên, tôi lựa chọn vấn đề “Thực hiện chính sách đối với người có công tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp Chương trình đào tạo thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Chính sách người có công với cách mạng là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu, bài viết về chính sách người có công với cách mạng, trong đó có đề cập đến công tác này ở góc độ lý luận, chính sách, thực tiễn,... Một số công trình nghiên cứu trong nước tiêu biểu như sau: - Tập sách “Một số vấn đề chính sách xã hội ở nước ta hiện nay” của 2 tác giả Hoàng Chí Bảo, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993. Tác giả khẳng định: Chính sách xã hội không ngừng thay đổi để phù hợp với đối tượng áp dụng. Đất nước ngày càng phát triển thì việc yêu cầu các chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, gắn liền với lợi ích của đối tượng. Chính sách đối với người có công được thay đổi qua các thời kỳ, sự thay đổi đó có những mặt tích cực và tiêu cực trong việc triển khai, thực hiện chính sách. - Năm 1997, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đã xuất bản cuốn Những điều cần biết về chính sách với người có công, trong đó nêu rõ những căn cứ pháp lý về thực hiện chính sách đối với người có công ở nước ta. Bài viết đã đề cập đến các căn cứ pháp lý cụ thể, rõ ràng để mọi người và chính bản thân người có công biết được những quyền lợi nào họ được hưởng. - Năm 2005, Nguyễn Thị Hằng, nguyên Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH có bài: Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa chính sách ưu đãi xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sỹ, NCC với cách mạng, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 7/2005. Tác giả nêu những nét khái quát thành tựu đạt được trong việc thực hiện ưu đãi xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và NCC trong 10 năm từ 1995 đến 2005, qua đó đúc kết những kinh nghiệm và đề ra những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách ưu đãi xã hội. - Năm 2015, tác giả Phạm Thị Hải Chuyền - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Tiếp tục thực hiện tốt Chính sách ưu đãi người có công với nước hiện nay và định hướng đến năm 2020, Tạp chí Cộng sản số 837. - Tuệ Văn, Đề xuất sửa đổi chính sách ưu đãi người có công, Tạp chí Quản lý nhà nước Online 25/06/2019. Bài viết chỉ rõ công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng tiếp tục đặt ra các yêu cầu mới, đòi hòi cần tiếp tục hoàn thiện. Trên cơ sở phân tích các vướng mắc, tác giả đã đề xuất các giải pháp sửa đổi chính sách ưu đãi người có công. 3 - PGS, TS Nguyễn Danh Tiên, Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng, Tạp chí Cộng sản Online 27/7/2015. Tác giả bài viết đã trình bày chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người có công, chính sách ưu đãi xã hội chăm lo cho người có công đi vào đời sống xã hội và đề xuất giải pháp tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm bảo đảm tốt hơn nữa chính sách đối với người có công. - Nguyễn Phú Trọng, Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công là tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm cao cả của hệ thống chính trị và toàn dân, Báo Nhân dân điện tử, Thứ Năm, 27/07/2017. Bài viết đã nêu bậc sự những hy sinh, cống hiến to lớn của các bậc cách mạng tiền bối, các anh hùng liệt sĩ, thương binh, đồng bào, chiến sĩ cả nước và chỉ rõ việc quan tâm chăm sóc, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng là chủ trương, quan điểm nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta, là đạo lý truyền thống của dân tộc ta. Trên cơ sở các bài viết và kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước, luận văn tiếp tục làm rõ vấn đề thực hiện chính sách đối với người có công từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác này tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đối với người có công tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người có công tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng ở nước ta. 4 - Phân tích thực trạng thực hiện chính sách đối với người có công cách mạng tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. - Quan điểm và đề xuất các giải pháp giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người có công tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu việc tổ chức thực hiện chính sách đối với người có công cách mạng; quy trình thực hiện chính sách cho các nhóm đối tượng thuộc diện thụ hưởng chính sách theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi đối với người có công. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian: tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. - Thời gian: Nghiên cứu thực trạng từ năm 2013 đến năm 2018 và đề ra giải pháp trong thời gian tới. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về chính sách xã hội nói chung và chính sách đối với người có công cách mạng nói riêng. Nội dung nghiên cứu được tiếp cận dưới góc độ khoa học chính sách công và các khoa học liên ngành. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây: Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp; Phương pháp đối chiếu - so sánh. Cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp thu thập thông tin, tổng hợp các tư liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu như các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương; các bài viết trên sách, báo, tạp chí và công trình nghiên cứu khác liên quan trực tiếp 5 hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách người có công với cách mạng ở nước ta nói chung và tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng; kết hợp phương pháp phân tích, đánh giá, dự báo để phân tích thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp. 6. Ý nghĩa về lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng ở nước ta. - Đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện các chính sách đối với người có công trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người có công cách mạng tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến. - Góp phần hiện thực hóa những nội dung được nêu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” nói chung và Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng nói riêng; Chỉ thị số 14-CT/TW, ngày 19-7-2017 của Ban Bí thư "Về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác người có công với cách mạng". 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tài được chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đối với người có công cách mạng. Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với người có công tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả của chính sách đối với NCC tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. 6 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG CÁCH MẠNG 1.1. Người có công và chính sách đối với người có công 1.1.1. Người có công với cách mạng 1.1.1.1. Khái niệm Xuất phát từ đặc điểm lịch sử của dân tộc Việt Nam và với truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây. Trong chính sách của Đảng, Nhà nước ta qua các thời kỳ cách mạng luôn có những ghi nhận và ưu đãi với những người đã có những cống hiến, hy sinh hoặc có những thành tích, đóng góp đặc biệt xuất sắc cho đất nước. Những chính sách ưu tiên, ưu đãi đó được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật và đã được thực hiện từ rất lâu. Song, đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào nêu rõ khái niệm người có công cách mạng; do đó, khái niệm này trước đây thường được hiểu theo nghĩa hẹp như sau: “Người có công với cách mạng là những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác có đóng góp, cống hiến xuất sắc trong các cuộc kháng chiến thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật”. Trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, căn cứ vào các tiêu chuẩn, điều kiện đối với từng đối tượng là người có công mà Nhà nước đã quy định thì có thể hiểu: “Người có công cách mạng bao gồm những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam - nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Họ là những người có thành tích hoặc cống 7 hiến xuất sắc phục vụ cho lợi ích của dân tộc… được cơ quan có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật”. Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật, thể thao... Theo cách hiểu này thì người có công không chỉ là những người có công với cách mạng trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm mà còn là các đối tượng khác như: anh hùng lao động, nghệ sĩ nhân dân, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân… 1.1.1.2. Đặc điểm Vì đã từng chiến đấu, trải qua các cuộc chống chiến tranh xâm lược nên người có công với cách mạng luôn luôn trân trọng quá khứ và tự hào về những cống hiến của bản thân và gia đình cho sự nghiệp cách mạng. Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, bảo vệ tổ quốc, với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân, họ đã không ngại hy sinh tuổi xuân, máu xương, tài sản, gia đình để cống hiến cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Khi chiến tranh đã qua đi, nước nhà được hòa bình, độc lập, thống nhất. Song có nhiều chiến sĩ cách mạng, những thanh niên trẻ trung năng động ngày nào giờ đây đã mất đi một phần thân thể, mang trong mình những vết thương không bao giờ lành lại, gây ảnh hưởng tới sức khỏe, nỗi đau về thể xác, bệnh tật cho bản thân và nỗi lo toan, trăn trở của người thân trong gia đình. Nhưng, với ý chí kiên cường mạnh mẽ của người chiến sĩ cách mạng họ tiếp tục nêu cao bản chất truyền thống “Anh bộ đội Cụ Hồ”, gương mẫu đi đầu trong các phong trào hoạt động, phấn đấu, nỗ lực tự lo cho bản thân và gia đình nên tìm những công việc phù hợp để lao động, vượt qua khó khăn, quên đi bệnh tật và chấp hành tốt các chủ trương của Đang, chính sách pháp 8 luật của Nhà nước, là tấm gương sáng để mọi người trong gia đình, xã hội noi theo; luôn trung thành với chế độ mà mình đã đem sức lực, máu xương để đánh đổi, bảo vệ; họ luôn thể hiện tinh thần đấu tranh quyết liệt với những tiêu cực của xã hội. Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng, người có công là những người bản lĩnh, có uy tín, có sự tác động ảnh hưởng, có tiếng nói quan trọng trong cộng đồng dân cư, trong đời sống xã hội để vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển và hội nhập; môi trường, điều kiện của nền kinh tế thị trường, xã hội phát triển nhanh đòi hỏi sự nhanh nhạy, thích nghi và không “ưu tiên” cho người không bắt kịp xu thế; do đó với hoàn cảnh khó khăn, đôi lúc họ cũng có tâm trạng mặc cảm, cảm thấy mình bị thiệt thòi, thua thiệt, mất mát hơn so với những người xung quanh. Vì vậy, cần có sự quan tâm, giúp đỡ, sẻ chia về vật chất và tinh thần của toàn xã hội. Nhìn chung, người có công cách mạng có những đặc điểm khác nhau nên việc chăm sóc, chia sẻ, giúp đỡ cũng khác nhau và phải tìm hiểu kỹ đặc điểm, nhu cầu, nguyện vọng của họ để có sự giúp đỡ, sẻ chia hợp lý. 1.1.2. Chính sách công và thực thi chính sách công 1.1.2.1. Khái niệm chính sách công Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra và đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định. Tuy nhiên, do đặc điểm có tính đặc thù về cấu trúc, chức năng của hệ thống chính trị, nên hiện nay, ở nước ta cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chủ thể ban hành chính sách công. Giữa quyết sách chính trị (của Đảng cầm quyền) và chính sách công (của Nhà nước) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: Chính sách công là một 9 dạng biểu hiện cụ thể quyết sách chính trị của đảng cầm quyền (cương lĩnh, đường lối…); nó thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc tổ chức, quản lý, điều hành một lĩnh vực hoạt động nào đó của đời sống xã hội. Quyết sách chính trị của Đảng cầm quyền và Chính sách công có điểm chung, đó là sự thể hiện ý chí giai cấp cầm quyền, giai cấp thống trị xã hội. Trong đó, Quyết sách chính trị của Đảng cầm quyền là cơ sở đường lối của các Chính sách công và Chính sách công là hình thức thực tế, hình thức pháp lý, là công cụ để thể hiện Quyết sách chính trị. Bất cứ một chủ thể lãnh đạo quản lý chính trị nào (cụ thể là Đảng cầm quyền) sau khi đề ra một Quyết sách chính trị nào đó đều lưu tâm đến việc Quyết sách chính trị đó phải được các cơ quan trong bộ máy nhà nước, chính quyền thể chế hoá thành Chính sách công như thế nào; và ngược lại để nhà nước có được những Chính sách công đúng đắn thì không thể không dựa trên sự định hướng các Quyết sách chính trị của Đảng cầm quyền. Tất nhiên, sự phân biệt giữa Quyết sách chính trị và Chính sách công chỉ có tính tương đối. Bởi vì có những Chính sách công nhiều khi do khả năng, quy mô, phạm vi điều chỉnh và tác động của nó trong đời sống xã hội quá lớn (nhiều khi nó có tính “ưu trội” do hiệu quả tác động vào các quan hệ xã hội của nó có tính “trực tiếp” nhờ đặc trưng “cưỡng chế” của nó) thì cũng có thể xem nó như một Quyết sách chính trị. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xă hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn... đó chính là những căn cứ định hướng, chỉ đạo để các cơ quan trong bộ máy Nhà nước ban hành các Chính sách công. Từ thực tiễn đó, có quan điểm cho rằng: Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của các chủ thể chính trị có thẩm quyền (Đảng cầm quyền, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội) về việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp nhằm giải quyết những vấn 10 đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định để đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định. 1.1.2.2. Thực thi chính sách công Chu trình chính sách là một chuỗi các giai đoạn kế tiếp có liên quan với nhau từ khi lựa chọn được vấn đề chính sách đến khi kết quả của chính sách được đánh giá. Ở Việt Nam hiện nay, chu trình chính sách thường được chia làm 3 công đoạn: Hoạch định chính sách, tổ chức thực thi chính sách, đánh giá chính sách. Tổ chức thực thi chính sách là một khâu hợp thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hoá ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng. Để tổ chức điều hành có hiệu quả công tác thực thi chính sách, trước tiên cần tuân thủ các bước tổ chức thực thi cơ bản như: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công; phổ biến, tuyên truyền chính sách công; phân công, phối hợp thực hiện chính sách công; duy trì chính sách công; điều chỉnh chỉnh sách công; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chỉnh sách công và đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm. Trên thực tế việc phân biệt các bước trong chu trình chính sách công chỉ có tính tương đối. Nghĩa là, nó có sự giao thoa, đan xen, lồng ghép với nhau. Việc thực hiện các bước trong thực thi chính sách xã hội phải được xem xét ở cấp độ chủ thể thực thi: Chính sách xã hội, chính sách người có công được cấp Trung ương hoạch định (chính sách quốc gia) thì cấp thực thi chính sách đó là chính quyền địa phương các cấp. Trên cơ sở chính sách quốc gia, chính quyền địa phương các cấp căn cứ điều kiện đặc thù của địa phương mình lại tiếp tục thể chế hóa chính sách quốc gia thông qua việc ban hành các quyết định, kế hoạch, chương trình (chính sách địa phương) và tổ thức thực hiện để hiện thực hóa các chính sách nói trên. Vì vậy, trong tính tương đối, vừa có thể coi việc thực thi chính sách xã hội, chính sách người có công của 11 một tỉnh, thành phố chỉ là một khâu trong chu trình chính sách (hoạch định, thực thi, đánh giá kết quả) và vừa có thể coi việc thực thi đó hàm nghĩa cả chu trình chính sách (chính sách địa phương) với cả 3 bước (hoạch định, thực thi, đánh giá kết quả). Thực thi chính sách là quá trình biến các chính sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức của hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước, nhằm hiện thực hoá những mục tiêu mà chính sách đã đề ra; là toàn bộ quá trình hoạt động của chủ thể theo các cách thức khác nhau nhằm hiện thực hóa nội dung chính sách công một cách có hiệu quả. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một chính sách công, thực thi chính sách là một trong những khâu hợp thành của chu trình chính sách nếu thiếu một công đoạn thì chu trình chính sách không thể tồn tại và đáp ứng mục tiêu của chính sách. Thực thi chính sách chính là giai đoạn biến nội dung chính sách thành hiện thực, từng bước thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung, qua đó khẳng định tính đúng đắn, hợp lý của chính sách và giúp chính sách ngày càng hoàn chỉnh. Từ quan niệm nêu trên, thực thi chính sách đối với người có công là quá trình đưa những chính sách đối với người có công, các ưu đãi xã hội của Nhà nước vào thực tiễn thông qua các văn bản pháp luật, chủ trương nhằm giúp hỗ trợ cho người có công phần nào về vật chất cũng như tinh thần, giúp họ vượt qua nhưng khó khăn trong cuộc sống. Do tầm quan trọng của giai đoạn hiện thực hóa chính sách nên các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm chỉ đạo sát sao công tác tổ chức triển khai thực chính sách hiện này. Có thể thấy số lượng người có công hiện nay rất lớn, với những điều kiện và hoàn cảnh khác nhau, chế độ chính sách khác nhau; do đó để có thể thực thi chính sách đối với người có công thì đòi hỏi phải định ra một hệ thống tổ chức, phân 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan