Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận bình tân, thàn...

Tài liệu Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận bình tân, thành phố hồ chí minh

.PDF
95
341
51

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THANH HÙNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH THANH HÙNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN DANH SƠN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung nghiên cứu trình bày trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công với đề tài “Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Danh Sơn. Các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các tư liệu, trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những nội dung trên. Tác giả luận văn Huỳnh Thanh Hùng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM .............................................. 8 1.1. Các khái niệm ............................................................................................ 8 1.2. Tiêu chí đô thị bền vững ......................................................................... 13 1.3. Chính sách phát triển đô thị theo hướng bền vững ở Việt Nam .............. 16 1.4. Các bước tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững ......... 22 1.5. Chủ thể và các bên liên quan trong thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững ......................................................................................................... 24 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH............................................................................................................. 28 2.1. Chủ trương và chính sách phát triển đô thị bền vững của thành phố Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 28 2.2. Tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững ở quận Bình Tân thời gian qua ................................................................................................... 34 2.3. Kết quả đạt được và đánh giá .................................................................. 48 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆNCHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................. 63 3.1. Quan điểm, phương hướng và mục tiêu phát triển đô thị bền vững quận Bình Tân ......................................................................................................... 63 3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững quận Bình Tân thời gian tới ........................................................................... 67 KẾT LUẬN ................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NXB Nhà xuất bản PGS.TS Phó Giáo sư, Tiến sỹ PPP Public – Private – Partnership (Mô hình đối tác công tư) UBND Ủy ban nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Tên bảng, biểu Trang Bảng 2.1. Phân loại đất theo mục đích sử dụng đất .................................... 35 Bảng 2.2. Phân loại đất theo đơn vị hành chính ......................................... 36 Bảng 2.3. Quy mô dân số quận Bình Tân giai đoạn 2011 – 2017 .............. 38 Biểu 2.1. Tỷ trọng các ngành kinh tế quận giai đoạn 2011 – 2017 ............ 49 Biểu 2.2. Kết quả thu, chi ngân sách quận giai đoạn 2011 – 2017 ............. 49 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, tiến trình đô thị hóa ở Việt Nam đã gắn kết với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đạt được nhiều kết quả quan trọng: hệ thống đô thị Việt Nam đã có bước phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Theo số liệu thống kê của Cục phát triển đô thị (Bộ Xây dựng), tỷ lệ đô thị hóa tăng từ khoảng 19,6% với 629 đô thị năm 1999 lên khoảng 37,5% với 813 đô thị năm 2017, trong đó có 02 đô thị đặc biệt (thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh), 19 đô thị loại I, 23 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 84 đô thị loại IV, 640 đô thị loại V. Đô thị hóa tăng nhanh tại các vùng kinh tế trọng điểm, vùng đô thị lớn phân bố đồng đều hơn trên phạm vi cả nước. Nhiều đô thị mới hình thành và phát triển, đô thị hiện hữu từng bước được nâng cấp cải tạo, mở rộng về quy mô đất đai, hạ tầng kỹ thuật (giao thông, cấp điện, cấp nước, thoát nước thải, vệ sinh môi trường,…) và hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao,…), bộ mặt đô thị đã có nhiều thay đổi theo hướng văn minh, hiện đại, đời sống dân cư đô thị từng bước được nâng cao. Cùng với xu thế phát triển đô thị chung của cả nước, quận Bình Tân là một đô thị trực thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Trong những năm qua, quận Bình Tân đã thực hiện chủ trương phát triển kinh tế gắn với quy hoạch phát triển đô thị, giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách an sinh xã hội và đã đạt được những kết quả tích cực. Lãnh đạo quận Bình Tân luôn quan tâm coi trọng công tác quy hoạch phát triển đô thị nhằm hướng tới phát triển đô thị bền vững, góp phần vào việc hiện thực hóa mục tiêu phấn đấu xây dựng quận Bình Tân trở thành một quận “giàu đẹp, văn minh, hiện đại, nghĩa tình”, một quận có môi trường đô thị văn minh, có thiên nhiên trong lành và đời 1 sống văn hóa cao; một trong những quận phát triển hài hòa, thân thiện. Tuy nhiên, với đặc điểm là quận đô thị hóa, áp lực tăng dân số cơ học cao (từ 633.543 người năm 2013 tăng lên 729.367 người năm 2017), kèm theo đó là các nhu cầu về nhà ở, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, các dịch vụ tiện ích,… để phục vụ cho đời sống người dân đòi hỏi ngày càng cao, đây là một thách thức rất lớn đặt ra cho công tác quản lý phát triển đô thị của quận. Mặc dù, quận Bình Tân hiện nay có nhiều khu đô thị mới đã và đang hình thành làm thay đổi diện mạo của quận, như: khu đô thị Lý Chiêu Hoàng, khu đô thị An Lạc – Bình Trị Đông, khu đô thị Nam Hùng Vương – Bắc Trần Văn Kiểu, khu đô thị Tên Lửa, khu đô thị dân cư mới Vĩnh Lộc,… Các khu đô thị mới này đã góp phần tích cực vào kết quả phát triển nhà ở mỗi năm, cũng như góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ đô thị, tạo lập môi trường đô thị hiện đại và giảm áp lực cho khu vực nội đô của thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nhìn chung các khu đô thị mới trên địa bàn quận Bình Tân vẫn chỉ là đáp ứng tức thời cho bài toán tăng quỹ đất ở, nhà ở, còn việc tạo lập một môi trường sống thực sự thì chưa thể đáp ứng nổi. Và thực tế cũng còn rất nhiều vấn đề đang tồn tại trong các đô thị. Đó là tình trạng hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, thiếu các tiện ích xã hội như: siêu thị, trường học, bệnh viện, công viên cây xanh, hệ thống giao thông công cộng, ô nhiễm môi trường nước, không khí, thu gom và xử lý rác thải,...Đây là những biểu hiện của việc phát triển chưa thực sự bền vững. Trong các nguyên nhân của tình trạng này có nguyên nhân từ tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị theo hướng bền vững. Xuất phát từ thực tế phát triển đô thị ở quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh học viên lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chính sách phát triển đô thị bền vững là chủ đề được các nhà nghiên cứu quan tâm với tiếp cận theo những góc độ khác nhau. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài: - Vụ Quản lý Kiến trúc Quy hoạch - Bộ Xây dựng (1998): Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020, Nxb Xây dựng, Hà Nội. - Nguyễn Thế Nghĩa, Tôn Nữ Quỳnh Trân (Chủ biên) (2002), Phát triển đô thị bền vững, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. - Đào Hoàng Tuấn (2008), Phát triển bền vững đô thị: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. - Lê Hồng Kế và các cộng sự (2006), Phân tích những tác động của chính sách đô thị hóa đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. - Nguyễn Quang Thái và Ngô Thắng Lợi (2007), Phát triển bền vững ở Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. - Phạm Thị Bích Yên (2011), Đô thị hóa Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2011. - Lê Thanh Sang (Chủ biên) (2017), Đô thị hóa và phát triển bền vững vùng Nam Bộ: lý luận, thực tiễn và đối thoại chính sách (kỷ yếu hội thảo Khoa học Quốc gia),Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đã phản ánh rất nhiều góc độ khác nhau về tình hình quản lý quy hoạch phát triển đô thị cả nước nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đặc biệt đã phản ánh sự cấp thiết cần có cơ chế, chính sách, giải pháp giải quyết vấn đề quản lý quy hoạch phát triển đô thị trong tiến trình tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội tại các 3 địa phương trong cả nước, đặc biệt là tại các đô thị lớn. Mặc dù các nghiên cứu này các tác giả đã phản ánh tình trạng cấp thiết về quản lý quy hoạch phát triển đô thị và đề xuất được những giải pháp để ổn định đời sống của người dân trong tiến trình đô thị hoá và phát triển đô thị, nhưng về chính sách phát triển đô thị lớn, đặc biệt như thành phố Hồ Chí Minh, thì còn rất nhiều vấn đề đặt ra cả về tính chất đặc thù và cả về tổ chức thực hiện các đặc thù của chính sách phát triển đô thị trong bối cảnh mới hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển đô thị theo hướng bền vững, hiện đại ở Việt Nam; - Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh; - Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận Bình Tân trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa các khái niệm về thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững, trong đó xác định tất yếu, các yếu tố cùng các tiêu chí đô thị bền vững mà chính sách phát triển đô thị hướng tới trong tổ chức thực hiện. - Vận dụng lý luận về chính sách công để nghiên cứu thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững qua thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh, từ đó tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu cùng nguyên nhân trong tổ chức thực hiện chính sách. - Nghiên cứu đưa ra giải pháp nhằm tăng cường thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận Bình Tân, phù hợp với điều kiện thực tế đáp ứng nhu cầu phát triển, cũng như yêu cầu và vị trí, vai trò của quận. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề có liên quan đến thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững ở địa bàn cấp quận. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm vi thời gian: giai đoạn 2011 – 2017, trong đó 2011 là năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm (2011-2015) phát triển đô thị của quận Bình Tân cũng như của thành phố Hồ Chí Minh; và 2017 là năm có số liệu thống kê mới nhất cho đến thời điểm thực hiện luận văn. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu và vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học, quản lý học và đô thị học; vận dụng phương pháp luận và lý thuyết về chính sách công. Đó là cách tiếp cận nghiên cứu chính sách công theo chu trình thực hiện chính sách từ hoạch định đến xây dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá thực hiện chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu, số liệu: Hệ thống tài liệu là cơ sở quan trọng giúp cho việc hình thành và hoàn thiện cơ sở lý luận cũng như những nghiên cứu, phân tích cụ thể về lịch sử phát triển, sự biến đổi và phát triển của đô thị ở quận Bình Tân theo thời gian. Hệ thống tài liệu thu thập được bao gồm: tài liệu liên quan đến lịch sử phát triển của quận Bình Tân, tài liệu về các văn kiện, Nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các tài liệu, công trình nghiên cứu, các báo cáo, thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên 5 quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách phát triển đô thị bền vững ở nước ta nói chung và thực tế quận Bình Tân nói riêng. - Phương pháp thống kê và so sánh: được sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm xử lý các số liệu thống kê đã thu thập được để phân tích đặc điểm của quá trình thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững khu vực nghiên cứu. - Phương pháp phân tích chính sách công, bao gồm kỹ thuật phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) để xác định các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức, từ đó tìm ra các vấn đề và nguyên nhân trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại địa bàn nghiên cứu. - Phương pháp thực địa: Khảo sát tình hình thực tế tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận Bình Tân nhằm kiểm định và thu thập thêm thông tin. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Góp phần nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững ở cấp quận trong bối cảnh mới (đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng phó với biến đổi khí hậu). 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Cung cấp những chứng cứ thực tiễn về tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững từ thực tế quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh cùng các vấn đề được phát hiện cũng như các giải pháp tăng cường tổ chức thực hiện chính sách. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố cục theo 3 chương sau: 6 - Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam. - Chương 2: Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. - Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM 1.1. Các khái niệm 1.1.1. Chính sách công và thực hiện chính sách công - Chính sách công thể hiện mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, do đó khái niệm về chính sách công phụ thuộc nhiều vào bản chất của nhà nước. Cho đến nay, một số nhà khoa học trong và ngoài nước đưa ra các quan niệm và định nghĩa về chính sách công như sau: + Theo James Anderson: “Chính sách công là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm”. + Thomas R. Dye thì cho rằng “Chính sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm”. Đây là định nghĩa ngắn gọn, được nhiều học giả tán thành, nó phản ánh được nội hàm cơ bản của chính sách công. + PGS.TS. Lê Chi Mai cho rằng “Chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định; chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau”. + Theo PGS.TS. Đỗ Phú Hải nêu ra định nghĩa một cách chung nhất về chính sách công như sau: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan để “lựa chọn” mục tiêu và những giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề chính sách theo mục tiêu tổng thể đã xác định của đảng chính trị cầm quyền”. 8 Khái niệm chính sách công được sử dụng chính thức hiện nay được xác định tại Nghị định của Chính phủ số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, là “định hướng, giải pháp của Nhà nước để giải quyết vấn đề của thực tiễn nhằm đạt được mục tiêu nhất định” (Điều 3). Từ những khái niệm trên ta thấy rằng bản chất của chính sách là công cụ để Nhà nước tác động, điều chỉnh các hoạt động và hành vi của các tổ chức, cá nhân trong xã hội hướng tới các mục tiêu phát triển. - Thực hiện chính sách công là một khâu hợp thành chu trình chính sách công, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng. Tổ chức thực hiện chính sách là để thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực nên không thể cùng một lúc giải quyết hết tất cả mà phải lần lượt và việc thực hiện chính sách công giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ biện chứng với mục tiêu chung, từ đó có thể giải quyết các vấn đề đặt ra. Thực hiện chính sách công có nghĩa là chính sách công được thực thi triển khai rộng rãi trong đời sống xã hội và đem lại kết quả mong muốn. Kết quả này càng nhiều thì chính sách và thực hiện chính sách càng có hiệu quả và ngược lại. 1.1.2. Đô thị và phát triển đô thị bền vững - Đô thị là một hình thức quần cư đặc biệt của xã hội loài người. Đô thị được hình thành là điểm tập trung dân cư, tài sản và có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của một vùng nhất định [26]. Từ hoàn cảnh, cuộc sống thực tế, phong tục tập quán, nhận thức về xã hội khác nhau ở mỗi quốc gia trên thế giới mà định nghĩa, quan niệm về đô thị ở các nước cũng có những điểm khác biệt. 9 Các quốc gia Châu Âu định nghĩa đô thị dựa trên cơ bản việc sử dụng đất thuộc đô thị, dùng ảnh chụp từ vệ tinh thay vì dùng thống kê từng khu phố để quyết định ranh giới của đô thị. Tại Pháp, một đô thị là một khu vực bao gồm một vùng phát triển do xây cất. Ngoài tiêu chí sử dụng đất thì đô thị còn có điều kiện là mật độ dân số nhất định nào đó và đa phần dân số không hành nghề nông nghiệp hay đánh cá. Tại Ba Lan thì định nghĩa chính thức về “đô thị” khá đơn giản, nó được hiểu là các địa phương có danh xưng là thị trấn, thành phố; vùng “nông thôn” là những vùng nằm ngoài ranh giới của các thị trấn này.[30] Ở Châu Mỹ mà cụ thể là nước Mỹ thì lại có khái niệm về khu đô thị, cụ thể là có hai loại khu đô thị: một loại để chỉ các khu có trên 50.000 dân trở lên là urbanized area và một loại có dân số dưới 50.000 gọi là urban cluster. Cục Điều tra dân số Hoa Kỳ định nghĩa một khu đô thị như “những cụm thống kê cốt lõi có mật độ dân số ít nhất là 1.000 người trên một dặm vuông Anh và những cụm thống kê xung quanh nó có tổng mật độ dân số ít nhất là 500 người trên một dặm vuông”. Tại Nhật Bản, đô thị được định nghĩa là các vùng cận kề nhau gồm các khu dân cư đông đúc, trong đó mật độ dân số phải trên 4.000 người trên một cây số vuông.[30] Tại Việt Nam hiện nay, khái niệm đô thị đã được luật hóa trong Luật Quy hoạch đô thị năm 2015. Theo đó, đô thị được định nghĩa: “Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn”. Ngày nay, đô thị không chỉ đơn thuần là nơi tập trung dân cư đông đúc với các hoạt động mang tính chất phi nông nghiệp; các trung tâm đơn chức 10 năng về hành chính hoặc thương mại,...mà đô thị đã trở thành một không gian cư trú của dân cư, là kết quả tất yếu của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đóng vai trò là trung tâm tổng hợp hoặc về một số mặt: hành chính, kinh tế - xã hội... của một vùng hoặc quốc gia, biểu hiện của nó là sự tập trung dân cư với mật độ cao với lối sống đô thị và các hoạt động phi nông nghiệp chiếm ưu thế, có cơ sở hạ tầng phát triển ngày càng hiện đại. - Phát triển bền vững: Lần đầu tiên, năm 1987, trong báo cáo “Tương lai của chúng ta” Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (WCED) do cựu thủ tướng Na Uy, Gro Harlem Brundtland làm chủ tịch đã đưa ra ý tưởng và khái niệm về phát triển bền vững. Đó là“Những thế hệ hiện tại cần đáp ứng các nhu cầu của mình, mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ” [38]. Tiếp theo sau đó, nhiều định nghĩa khác nhau lần lượt ra đời như: + Chương trình môi trường của Liên hiệp quốc (UNEP) có đưa ra định nghĩa:“Phát triển bền vững là quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân loại trong phạm vi đáp ứng được của các hệ sinh thái” [38]. + Ngân hàng thế giới –WB cho rằng:“Phát triển bền vững chính là sự duy trì và nâng cao chất lượng cuộc sống của con người về mặt xã hội, kinh tế, môi trường trong giới hạn khả năng chịu tải của các hệ sinh thái dịch vụ và cơ sở tài nguyên của môi trường, nghĩa là vẫn đảm bảo tính bền vững của môi trường” [38]. + Theo H.Barton, International Institute for environmental and development – IIED:“Phát triển bền vững là một quá trình dàn xếp, thỏa hiệp giữa các hệ thống kinh tế, tự nhiên và xã hội”, tức là phát triển bền vững phải đảm bảo 3 mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường hài hòa với nhau” [38]. + Và theo Luật Bảo vệ môi trường 2014 của nước ta:“Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại 11 đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Từ những khái niệm trên có thể thấy rằng, về bản chất, phát triển bền vững là một quá trình biến đổi mạnh mẽ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm tạo ra sự tối ưu nhất trong tăng trưởng để đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người mà không làm tổn hại đến hệ các sinh thái và môi trường trong hiện tại cũng như trong tương lai. Tổng quát hơn, phát triển bền vững chính là một quá trình liên tục cân bằng và hòa nhập các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Nó đảm bảo sự trường tồn của nhân loại. Chính vì vậy, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến lược cho toàn cầu, cho từng quốc gia, cho từng khu vực, vùng đô thị, cũng như cho từng đô thị. - Phát triển đô thị bền vững: khái niệm về phát triển đô thị bền vững phải xuất phát từ quan điểm tổng hòa phát triển các lĩnh vực trụ cột của đô thị (kinh tế, xã hội, môi trường), cân bằng các hệ sinh thái và bảo đảm cho mọi tổ chức liên kết hữu cơ về không gian các chức năng hoạt động của đô thị, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội; có mối quan hệ chặt chẽ giữa đô thị - nông thôn, nhất là với khu vực ven đô. Trên cơ sở nguyên lý phát triển bền vững, các nhà nghiên cứu và quản lý về phát triển đô thị đều cho rằng khái niệm phát triển đô thị bền vững có thể được hiểu là mối quan hệ hữu cơ, mật thiết giữa các nhân tố cấu thành đô thị như một chỉnh thể, là: kinh tế đô thị, văn hóa - xã hội đô thị, môi trường sinh thái đô thị, cơ sở hạ tầng đô thị và quản lý đô thị. Hiện nay dưới tác động của biến đổi khí hậu và cách mạng công nghiệp thế hệ mới 4.0, các nhà nghiên cứu và quản lý về phát triển đô thị còn đưa ra khái niệm phát triển đô thị/thành phố xanh (green city) và đô thị/thành phố 12 thông minh (smart city). Thực chất đô thị/thành phố xanh cũng là đô thị/thành phố bền vững được gắn với ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu; còn thực chất đô thị/thành phố thông minh cũng là đô thị/thành phố bền vững được gắn với ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo để quản lý, nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống đô thị, cải thiện chất lượng phục vụ của chính quyền thành phố và sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên. 1.1.3. Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững: là toàn bộ quá trình hoạt động của các chủ thể bằng nhiều cách thức khác nhau tác động vào đối tượng quản lý nhằm hiện thực hóa các quyết định có liên quan của Nhà nước về phát triển đô thị bền vững, với các mục tiêu cụ thể, giải pháp và công cụ chính sách theo định hướng của Đảng và Nhà nước. 1.2. Tiêu chí đô thị bền vững 1.2.1. Tiêu chí đô thị bền vững của thế giới Tùy thuộc vào bối cảnh phát triển quốc gia, khu vực mà các nước xác định cho mình các tiêu chí đô thị bền vững. Trong dự án đô thị bền vững ở châu Âu do Viện Môi trường Đô thị Quốc tế điều phối với sự tham gia của 12 thành phố: Aalborg (Đan Mạch), Amsterdam, Breda và DenHaag hay Hague (Hà Lan), Angers (Pháp), Brussels (Bỉ), Freiburg và Hannover, Leipzig (Đức), Leicester (Anh), Temi (Italia), Valencia (Tây Ban Nha). Dự án được thực hiện bởi sự tài trợ của ủy ban châu Âu với mục đích là phát triển một hệ thống các chỉ tiêu có thể đo được chung cho các thành phố toàn châu Âu [52]. Kết quả của 5 năm thực hiện khảo sát và đánh giá (1985-1990), đã xây dựng được 10 chỉ tiêu cốt lõi bao hàm các nội dung bền vững sau đây cho hệ thống đô thị châu Âu: (1) Môi trường trong lành, được đánh giá bằng số ngày trong năm có chất lượng không khí không vượt quá tiêu chuẩn địa phương. 13 (2) Không gian xanh, được đánh giá bằng tỷ lệ phần trăm số người đến được với vườn cây xanh ở khoảng cách nhất định. (3) Sử dụng hiệu quả tài nguyên, được đánh giá bằng toàn bộ năng lượng; nước tiêu thụ; phế thải đem loại bỏ (không kể số phế thải được tái chế hay sử dụng lại) tính theo đầu người trong một năm. Tỷ lệ giữa các nguồn năng lượng có thể tái sinh và không tái sinh. (4) Chất lượng môi trường tin cậy, được tính bằng tỷ lệ không gian mở cho diện tích được dùng ô tô. (5) Khả năng đi lại, được tính bằng số kilomét đi bằng phương tiện giao thông (ô tô, xe đạp, vận tải công cộng…) tính theo đầu người trong một năm. (6) Nền kinh tế xanh, được đánh giá bằng tỷ lệ phần trăm số công ty đã kết hợp các phương pháp kiểm toán và quản lý sinh thái (EMAS) hoặc các phương pháp tương tự. (7) Độ trường tồn, được đánh giá bằng số các hoạt động hoặc phương tiện văn hoá và xã hội (danh mục này còn đang được bổ sung). (8) Sự tham gia của cộng đồng, được xác định thông qua số các nhóm hoặc tổ chức tình nguyện tính trên 1.000 dân và ước chừng số thành viên. (9) Công bằng xã hội, được phản ánh qua tỷ lệ phần trăm số người sống dưới mức nghèo khổ, và tỷ lệ số người không được tiếp cận tới những dịch vụ cơ bản của đô thị như nhà ở, việc làm, độ ổn định của thu nhập, hưởng chăm sóc y tế, giáo dục chính quy… (10) Phúc lợi, được đánh giá thông qua việc khảo sát sự thoả mãn của các công dân về chất lượng đời sống (nội dung khảo sát được địa phương quyết định). Trên cơ sở những chỉ tiêu cốt lõi, các thành phố dựa vào đặc điểm địa phương của mình mà bổ sung thêm những chỉ tiêu cơ bản, dựa vào điều kiện 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan