Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội...

Tài liệu Thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

.PDF
78
331
80

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ NHIÊN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TẠI QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ NHIÊN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TẠI QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Chính sách công Mã số : 8 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Đề tài này do cá nhân tôi tự nghiên cứu, không vi phạm đạo đức trong nghiên cứu, các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, bố cục, phông chữ của luận văn đúng với quy định và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, ngày 27 tháng 02 năm 2019 Tác giả luận văn Trần Thị Nhiên MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Ở CẤP HUYỆN ................................................ 8 1.1. Lý luận về thực hiện chính sách công ........................................................ 8 1.2. Lý luận về thực hiện chính sách phát triển giáo dục................................ 13 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TẠI QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............. 25 2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội quận Thanh Xuân ....... 25 2.2. Tình hình thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân ................................................................................................................ 27 2.3. Đánh giá chung ........................................................................................ 49 Chương 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TẠI QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......... 53 3.1 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo .......... 53 3.2. Mục tiêu phát triển giáo dục của quận Thanh Xuân ................................ 54 3.3. Một số giải pháp thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân trong những năm tới ................................................................... 57 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 71 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa XHCN : Xã hội chủ nghĩa GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo KT - XH : Kinh tế - xã hội CB : Cán bộ GV : Giáo viên NV : Nhân viên HS : Học sinh MN : Mầm non TH : Tiểu học THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông UBND : Ủy ban nhân dân DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Quy mô trường, lớp, số học sinh .................................................... 29 Bảng 2.2: Kết quả đánh giá toàn diện các trường - cấp Mầm non ................. 31 Bảng 2.3: Kết quả khen thưởng học sinh cuối năm học - cấp Tiểu học ......... 32 Bảng 2.4: Kết quả xếp loại các mặt giáo dục cuối năm học - cấp THCS ....... 34 Bảng 2.5: Số trường công lập đạt chuẩn quốc gia .......................................... 43 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão tạo ra những bước tiến nhảy vọt, đặc biệt trong các lĩnh vực điện tử - viễn thông, tin học và công nghệ thông tin. Những thành tựu của sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Để diễn đạt bước ngoặt trong tiến trình phát triển của nhân loại người ta đã nói đến một thời đại tin học với sự bùng nổ thông tin và công nghệ đổi mới nhanh đến mức chóng mặt. Đó chính là nền tảng khoa học - công nghệ của quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của kinh tế tri thức. Những chuyển biến hết sức mạnh mẽ này đã làm thay đổi, nếu không nói là đảo lộn nhiều triết lý, quan niệm, phương thức tổ chức và hoạt động của hầu hết các lĩnh vực mà trước hết và chủ yếu chính là giáo dục và đào tạo. Giáo dục và chính sách phát triển giáo dục có vị trí đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia trên thế giới. Tri thức, khoa học - công nghệ đang trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) trong giai đoạn hiện nay. Phát triển giáo dục là phát triển khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực của thế hệ hiện nay và mai sau Sau hơn 30 năm, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn. Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mạnh với vị thế về diện mạo mới. Kinh tế liên tục phát triển đạt tốc độ tăng trưởng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Hội nhập kinh tế quốc tế từng bước đưa Việt Nam khẳng định được vị thế trên trường quốc tế và thu hút các nhà đầu tư. Tuy vậy, nền kinh tế nước ta vẫn ở mức thấp so với nhiều nước khu vực và trên thế giới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) chưa đồng bộ, đòi hỏi ngày càng cao với nguồn nhân lực và chất lượng nguồn nhân lực trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất 1 nước và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Xây dựng một thế hệ người Việt Nam đáp ứng yêu cầu tình hình mới, yêu cầu phát triển KT-XH là đòi hỏi không thể thiếu của ngành giáo dục. Đảng ta đã xác định: Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) là quốc sách hàng đầu; tư tưởng, quan điểm của Đảng được thể chế hoá, hoạch định thông qua các chính sách của Nhà nước, của ngành GD&ĐT và gần đây nhất là Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (viết tắt là Nghị quyết 29-NQ/TW). Thực trạng phát triển giáo dục, hoạch định chính sách và việc triển khai tổ chức thực hiện chính sách giáo dục của nước ta đang đứng trước những thuận lợi, khó khăn, đòi hỏi phải có những giải pháp để đổi mới giáo dục, trong đó, đặc biệt quan tâm đến đến xây dựng hệ thống chính sách. Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội là một quận có nhiều thay đổi lớn do quá tình đô thị hóa nhanh sau khi Hà Tây sáp nhập vào thành phố Hà Nội theo tinh thần Nghị quyết 15 của Quốc hội khoá XII về mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội. Quận Thanh Xuân đã năng động, sáng tạo thực hiện các nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước và có các chính sách để xây dựng, phát triển giáo dục Quận nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, từng bước vươn lên trở thành Quận phát triển giáo dục hàng đầu của Thủ đô. Quá trình triển khai, tổ chức thực hiện chính sách phát triển giáo dục đang rất cần một hướng nghiên cứu mới, một cái nhìn mới. Từ hướng tiếp cận chính sách công về quá trình thực hiện chính sách phát triển giáo dục của ngành GD&ĐT quận Thanh Xuân, tác giả chọn: “Thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” làm đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Tiếp cận dưới góc độ lý thuyết chính sách công 2 Tác giả Nguyễn Đăng Thành (Chủ nhiệm đề tài, 2004), “Chính sách công: Cơ sở lý luận” đã đưa ra một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách công như: Lý thuyết chính sách công; các công cụ nghiên cứu chính sách công; các cách tiếp cận khi nghiên cứu chính sách công [28]. Tác giả Chu Văn Thành (Chủ biên, 2004) cuốn sách “Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Cuốn sách là tập hợp các bài viết về dịch vụ công, trong đó có giáo dục với tư cách là những dịch vụ công chủ yếu mà Nhà nước có nghĩa vụ cung cấp. Trong cuốn sách này, vấn đề nghiên cứu được đề cập đến dưới góc độ vĩ mô, mang tầm quốc gia, đó là việc hoạch định và thực thi chính sách giáo dục dưới góc độ chung [29]. Nguyễn Hữu Hải (Chủ biên, 2006), Giáo trình hoạch định và phân tích chính sách công, NXB Giáo dục. Cuốn sách đã đề cập đến chính sách công dưới góc độ chung nhất, bao gồm các vấn đề như: Nhận thức về chính sách công; hoạch định chính sách công; tổ chức thực thi chính sách công; phân tích chính sách công [15]. 2.2. Tiếp cận dưới góc độ lý luận về chính sách giáo dục Đề tài “Luận cứ khoa học cho việc đề xuất chủ trương, chính sách phát triển giáo dục phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và đầy đủ” của “Quỹ Hoà bình và phát triển” của tác giả Nguyễn Thị Bình (nguyên Phó Chủ tịch nước) làm Chủ tịch đề tài. Các tác giả cho rằng, đây là công trình lớn của quốc gia, đề xuất việc đầu tiên cần làm là lập Uỷ ban cải cách giáo dục, Uỷ ban có nhiệm vụ soạn thảo chiến lược giáo dục và phát triển giáo dục giai đoạn 2011- 2020 với tầm nhìn 2030 và xa hơn. Tác giả Trần Văn Hùng với Đề tài “Tác động của các chính sách đổi mới giáo dục đại học đối với sự phát triển quy mô của hệ thống giáo dục đại học” đã nêu và phân tích thực trạng về sự tác động của các chính sách đổi mới giáo dục đại học đối với sự phát triển quy mô của hệ thống giáo dục đại học Việt 3 Nam trong giai đoạn vừa qua ở nước ta và đề xuất những định hướng cho việc xây dựng chính sách phát triển giáo dục đại học đến năm 2010. Trong Đề án “Cải cách giáo dục Việt Nam - phân tích và đề nghị” của nhóm nghiên cứu giáo dục Việt Nam (người Việt ở nước ngoài và trong nước) đã xem xét một cách tương đối toàn diện tính hợp lý của chiến lược thị trường hoá nền giáo dục Việt Nam (ở nước ta được gọi bằng “xã hội hoá”), phân tích và rút ra những vấn đề rất hữu ích cho giáo dục Việt Nam: Mục tiêu của giáo dục và trách nhiệm xã hội; giáo dục và vấn đề ngân sách nhà nước; kế hoạch cho hệ thống giáo dục. Nghiên cúu về Thực hiện chính sách xã hội hóa trong giáo dục của tác giả Trần Khánh Đức đã đề cập đến những thành tựu và bất cập trong việc thực hiện chính sách xã hội hóa trong giáo dục phổ thông ở nước ta trong thời kỳ hội nhập. Tác giả Nguyễn Khắc Bình (2007) đã có công trình nghiên cứu về “Chính sách giáo dục suốt đời ở Việt Nam từ 1945 đến nay) đã tổng kết đánh giá việc hoạch định, tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách phát triển giáo dục suốt đời ở Việt Nam kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến những năm đầu của thế kỷ 21 [4]. Tác giả Trần Thị Hà và Nguyễn Khắc Bình trong nghiên cứu “Những thành tựu và bất cập trong việc thực hiện chính sách đổi mới phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ sở đào tạo” đã nêu trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giáo dục đại học Việt Nam đã có những đổi mới trong hoạch định chính sách giáo dục đại học theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, theo xu thế hội nhập. Trong nghiên cứu, các tác giả cũng đã đề cập đến những bất cập trong thực hiện chính sách phát triển giáo dục nói chung và phát triển giáo dục đại 4 học nói riêng và những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở nước ta hiện nay. Để thực hiện công cuộc phát triển đất nước, chính sách phát triển GD&ĐT có tầm quan trọng và gắn liền với yêu cầu đáp ứng nhân lực chất lượng cao để phục vụ phát triển KT-XH của đất nước. Với ý nghĩa to lớn đó, từ năm 2010 đến nay, công tác thực hiện chính sách phát triển giáo dục đã có nhiều cuộc hội thảo về đánh giá việc tổ chức thực hiện các chính sách đổi mới giáo dục ở nước ta. Các nghiên cứu trong các hội thảo đã nêu lên tầm quan trọng của khâu thực hiện chính sách phát triển giáo dục trong quy trình chính sách giáo dục. Bên cạnh đó các nghiên cứu cũng đã nêu những bất cập trong việc tổ chức thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở nước ta hiện nay. Vì vậy, hy vọng nghiên cứu này sẽ góp phần nhỏ bé đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại một quận của Thủ đô để làm tài liệu, kinh nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách, các cán bộ quản lý trong các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục tham khảo. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở cấp huyện, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội để đưa ra một số giải pháp thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở Quận trong những năm tới; góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT phục vụ cho việc phát triển KT-XH ở Quận và Thủ đô Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác lập cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển giáo dục cấp huyện. - Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trong thời gian 2016-2018. - Đề xuất một số giải pháp thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Thực hiện chính sách phát triển giáo dục (giáo dục mầm non (MN), giáo dục tiểu học (TH), giáo dục trung học cơ sở (THCS); không bao gồm giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên) tại quận Thanh xuân, thành phố Hà Nội. 4.3. Hướng tiếp cận nghiên cứu: Luận văn tiếp cận theo hướng kết quả thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 4.4 Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2016 đến năm 2018 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách công, các giai đoạn trong quy trình chính sách công, thực hiện chính sách công và đặc biệt là lý luận về thực hiện chính sách phát triển giáo dục với những nội dung thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở cấp huyện. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: * Phương pháp thống kê - phân tích + Thu thập tài liệu thứ cấp: Thu thập số liệu từ các tài liệu, báo cáo đã ban hành và công khai trên Cổng thông tin điện tử quận Thanh Xuân. + Thu thập tài liệu sơ cấp: Toàn bộ số liệu phục vụ cho nghiên cứu luận văn tác giả thu thập qua thống kê, phân tích số liệu từ các tài liệu có sẵn. * Phương pháp tổng hợp - so sánh - Phương pháp phân tích: Phân tích các báo cáo, tài liệu liên quan đến tình hình thực hiện chính sách phát triển giáo dục của các đơn vị thuộc Quận. 6 - Phương pháp so sánh: Sử dụng so sánh để đối chiếu giữa các kỳ và năm thực hiện chính sách phát triển giáo dục của các đơn vị thuộc Quận. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận: Luận văn hệ thống hóa và làm rõ các khái niệm, các vấn đề lý luận cơ bản liên quan thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở cấp huyện; phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở cấp huyện. Về thực tiễn: Dựa trên kết quả nghiên cứu thực tế về thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở cấp huyện tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, Luận văn nêu lên thực trạng thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại một Quận của thành phố Hà Nội; một số giải pháp thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở Quận trong những năm tới. Đây là những tư liệu kinh nghiệm cho các nhà quản lý ở các cơ quan hành chính nhà nước, địa phương tham khảo trong việc thực hiện chính sách phát triển giáo dục của đơn vị, địa phương mình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương như sau: Chương I: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển giáo dục ở cấp huyện Chương II: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội Chương III: Giải pháp thực hiện chính sách phát triển giáo dục tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Ở CẤP HUYỆN 1.1. Lý luận về thực hiện chính sách công 1.1.1. Khái niệm chính sách công Chính sách công là một trong những công cụ quan trọng của quản lý Nhà nước, thông qua việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được hiện thực hóa. Chủ thể ban hành chính sách công chính là Nhà nước thông qua các cơ quan quyền lực và các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Cho đến nay có khá nhiều định nghĩa về chính sách công được các học giả đưa ra. Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả các định nghĩa đều thống nhất ở hai điểm cơ bản, đó là chính sách công bắt nguồn từ các quyết định của Nhà nước và dùng để giải quyết những vấn đề chung vì lợi ích của đời sống cộng đồng. Tác giả Nguyễn Văn Thọ dẫn giải định nghĩa về chính sách công của Thomas Dye đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công là: “bất kỳ những gì mà Nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm”. Khái niệm về chính sách công của William Jenkins cụ thể thơn so với định nghĩa trên. Theo ông, chính sách công là: “một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau được ban hành bởi một nhà hoạt động chính trị hoặc một nhóm các nhà hoạt động chính trị liên quan đến lựa chọn các mục tiêu và các phương tiện để đạt mục tiêu trong một tình huống cụ thể thuộc phạm vi thẩm quyền của họ”. Còn James Anderson đưa ra một định nghĩa chung hơn, mô tả chính sách như là: “một đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một nhà hoạt động hoặc một nhóm các nhà hoạt động để giải quyết một vấn đề phát sinh, hoặc vấn đề quan tâm” [30, tr.15]. 8 Tác giả Nguyễn Khắc Bình cho rằng: Chính sách công là hoạt động mà chính phủ chọn thực hiện hoặc không thực hiện để điều hòa các xung đột trong xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định [5, tr.13]. Tôi sử dụng khái niệm của tác giả Nguyễn Khắc Bình trong nghiên cứu này. 1.1.2. Vai trò của chính sách công Vai trò cơ bản của chính sách công thể hiện ở chỗ là công cụ hữu hiệu chủ yếu để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, duy trì sự tồn tại và phát triển của nhà nước, phát triển KT-XH và phục vụ người dân. Dưới góc độ quản lý, quản trị quốc gia, nhà nước sử dụng chính sách công như một công cụ quan trọng tác động vào các lĩnh vực đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng của nhà nước. Các thay đổi xã hội lớn đều có nguồn gốc từ sự thay đổi chính sách, mở đường cho những thể chế mới đi vào cuộc sống. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 là một minh chứng cho sự đi trước của chính sách trong phát triển KT-XH tại Việt Nam, khắc phục được cuộc khủng hoảng KT-XH, huy động được lực lượng sản xuất từ đó nâng cao mức sống, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Chính sách công đóng vai trò quan trọng, thể hiện dưới một số hướng tiếp cận cụ thể sau: Thứ nhất, định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế - xã hội. Do chính sách phản ánh thái độ, cách xử sự của nhà nước đối với một vấn đề công, nên nó thể hiện rõ những xu thế tác động của nhà nước lên các chủ thể trong xã hội, giúp họ vận động đạt được những giá trị tương lai mà nhà nước mong muốn. Giá trị đó chính là mục tiêu phát triển phù hợp với những nhu cầu cơ bản của đời sống xã hội. Nếu các chủ thể kinh tế, xã hội hoạt động theo định hướng tác động của chính sách thì không những dễ dàng đạt được mục tiêu phát triển mà còn nhận được những ưu đãi từ phía nhà nước hay xã hội. Điểu đó có nghĩa là, cùng với mục tiêu định hướng, cách thức tác động của CSC cũng có vai trò định hướng cho các chủ thể hành động. 9 Thứ hai, tạo động lực cho các đối tượng tham gia hoạt động kinh tế xã hội theo mục tiêu chung. Muốn đạt được các mục tiêu phát triển KT-XH chung, nhà nước phải ban hành nhiều chính sách, trong đó mỗi chính sách lại có những cách thức tác động mang tính khuyến khích đối với các chủ thể thuộc mọi thành phần. Sự tác động của chính sách công không mang tính bắt buộc, mà chỉ khuyến khích các chủ thể hành động theo ý chí của nhà nước. Thứ ba, phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh và các quy luật thị trường khác đã thúc đẩy mỗi chủ thể trong xã hội đầu tư vào sảnxuất kinh doanh, không ngừng đổi mới công nghệ nâng cao năng suất lao động, chất ượng sản phẩm, hạ giá thành hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho xã hội. Nhờ đó mà cả xã hội và từng người dân, tổ chức đều được hưởng lợi. Nhưng, sự vận hành của thị trường cũng gây ra những tác động tiêu cực gây ảnh hưởng không tốt lên toàn xã hội và mỗi người dân. Trong tình hình đó, nhà nước phải sử dụng hệ thống chính sách công để giải quyết những vấn đề bất cập về kinh tế, khắc phục những thất bại của thị trường thông qua trợ cấp, cung ứng dịch vụ công cho người dân do các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công hay hội, tổ chức phi chính phủ thực hiện. Thứ tư, tạo lập các cân đối trong phát triển. Để KT-XH phát triển một cách ổn định bền vững, nhà nước phải dùng chính sách để tạo lập các cân đối vĩ mô cơ bản, đồng thời, nhà nước còn dùng chính sách để điều tiết đảm bảo cho sự phát triển cân đối giữa các vùng miền của đất nước Thứ năm, kiểm soát và phân bổ các nguồn lực trong xã hội. Nhà nước luôn luôn quan tâm đến quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn lực cho phát triển. Mục tiêu phát triển bền vững bao gồm cả gia tăng về lượng và cải thiện về chất trong hiện tại và tương lai. Để sử dụng có hiệu quả tài nguyên theo hướng bền vững, nhà nước thông qua các chính sách thực hiện kiểm soát quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên và phân bổ hợp lý các nguồn lực trong xã hội. 10 Thứ sáu, tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội. Thông qua các chính sách, nhà nước tạo những điều kiện cần thiết để hình thành môi trường thuận lợi cho các chủ thể xã hội hoạt động như: chính sách phát triển thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường bất động sản, phát triển cơ sở hạ tầng... Thứ bảy, thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành. Việc thực hiện các giai đoạn trong chu trình chính sách không chỉ và không thể do một cơ quan nhà nước đảm nhiệm, mà cần có sự tham gia của nhiều cơ quan thuộc các cấp, các ngành khác nhau hay của nhiều tổ chức, cá mân. Vì vậy, thông qua quá trình chính sách sẽ thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân, góp phần tạo nên sự nhịp nhàng, đồng bộ trong hoạt động thực thi chính sách công. 1.1.3. Các giai đoạn trong quy trình chính sách công Quy trình chính sách công gồm 3 giai đoạn cơ bản: - Hoạch định chính sách: Trong giai đoạn này, các chính sách được nghiên cứu đề xuất để Nhà nước phê chuẩn và ban hành công khai. Quá trình đề xuất chính sách bao gồm việc xác định vấn đề cần ra chính sách, xác định các mục tiêu mà chính sách cần đạt được và xác định các giải pháp cần thiết để đạt tới các mục tiêu đó. Muốn xác định được vấn đề chính sách, cần phải thường xuyên quan sát và phân tích tình hình thực tế để dự báo được những mâu thuẫn cơ bản cần giải quyết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. - Tổ chức thực thi chính sách: Đây là giai đoạn thực hiện các mục tiêu chính sách công trên thực tế. Nói cách khác, đây là giai đoạn vận dụng những giải pháp định trước để đạt được các mục tiêu chính sách. Chính trong giai đoạn này, chính sách được biến thành kết quả thực tế. Giai đoạn này bao gồm các hoạt động triển khai, 11 phối hợp thực hiện, kiểm tra đôn đốc và hiệu quả chính sách cùng các biện pháp tổ chức thực thi để chính sách phát huy tác dụng trong cuộc sống. - Đánh giá chính sách: Đây là một giai đoạn quan trọng trong quy trình chính sách. Trong giai đoạn này, người ta tiến hành so sánh các kết quả của chính sách công với các mục tiêu đề ra, phân tích hiệu quả KT-XH đạt được thông qua việc thực thi chính sách trên thực tế. 1.1.4. Khái niệm về thực thi chính sách công Chính sách được hoạch định ra xuất phát từ yêu cầu khách quan của thực tế, từ những nhu cầu của xã hội. Trải qua rất nhiều thời kỳ, từ năm 1930 đến 1960, các nhà nghiên cứu quy trình chính sách hầu như chỉ tập trung tìm tòi về việc hoạch định chính sách công. Song cho đến tận ngày nay, người ta vẫn khó có thể khẳng định rằng, một chính sách đề ra là tốt hay xấu, điều đó chỉ có thể được đánh giá bằng thực tế là chính sách đó được xã hội chấp nhận hay không. Chỉ có thực tiễn mới phán xét chính xác nhất chính sách nào là tích cực và chính sách nào là tiêu cực. Trong thập kỷ 70, các nhà nghiên cứu đã chuyển trọng tâm sang giai đoạn thực thi chính sách. Theo nguyên lý triết học, chính sách là một dạng thức vật chất đặc biệt nên nó cũng cần thực hiện những chức năng để tồn tại. Song muốn thực hiện được chức năng, chính sách phải tham gia vào quá trình vận động như các vật chất khác. Nghĩa là sau khi ban hành, chính sách phải được triển khai trong đời sống xã hội. Do vậy, tổ chức thực thi chính sách là tất yếu khách quan để duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý Nhà nước và cũng là để đạt mục tiêu đề ra của chính sách. Với cách tư duy này có thể đi đến khái niệm về tổ chức thực thi chính sách như sau: “Tổ chức thực thi chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu định hướng của Nhà nước” [30, tr.1]. 12 Trong quá trình thực thi chính sách, các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học công nghệ và con người được đưa vào các hoạt động có tính định hướng để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nói cách khác, đây là quá trình kết hợp giữa con người với các nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học công nghệ nhằm sử dụng các nguồn lực này một cách có hiệu quả theo những mục tiêu đề ra. Chủ thể thực thi chính sách trước hết là quan trọng nhất là các cơ quan hành chính nhà nước, bởi vì đây chính là các cơ quan có nhiệm vụ quản lý và tổ chức triển khai các công việc hàng ngày của Nhà nước. Tuy nhiên, các cơ quan lập pháp và tư pháp cũng như các tổ chức Đảng, đoàn thể cũng có vai trò quan trọng trong việc huy động và tổ chức lực lượng tham gia triển khai chính sách. 1.2. Lý luận về thực hiện chính sách phát triển giáo dục 1.2.1. Khái niệm về giáo dục và chính sách phát triển giáo dục Theo Từ điển Bách khoa: Giáo dục là quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho con người tham gia đời sống xã hội, tham gia lao động sản xuất, nó được thực hiện bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người. Thực hiện chính sách phát triển giáo dục là một khâu quan trọng trong chu trình chính sách công. Trong thực tiễn có nhiều loại chính sách khác nhau, xuất phát từ tầm quan trọng của GD&ĐT, chính sách phát triển giáo dục là một trong những chính sách quan trọng, nhằm phát triển giáo dục với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển xã hội và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Qua những nghiên cứu, phân tích khái niệm ở trên tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “Chính sách phát triển giáo dục là hệ thống những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương về hoạt động giáo dục nhằm phát triển và hoàn thiện 13 công tác GD&ĐT với mục đích nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [16, tr.20]. Dựa vào các quan điểm trên về chính sách giáo dục, tác giả cho rằng: Chính sách phát triển giáo dục là các hoạt động của Nhà nước để điều tiết các hoạt động GD&ĐT thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm mục đích phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước. Từ quan niệm về chính sách phát triển giáo dục như trên, theo tác giả, thực hiện chính sách phát triển giáo dục là quá trình biến các chính sách giáo dục thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước nhằm hiện thực hoá các chính sách giáo dục đã đề ra. 1.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về giáo dục Cơ cấu tổ chức: Xem trang bên 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan