Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi​...

Tài liệu Thực hiện hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi​

.PDF
102
383
141

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN KIM NGÂN THùC HIÖN HîP §åNG DO HOµN C¶NH THAY §æI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN KIM NGÂN THùC HIÖN HîP §åNG DO HOµN C¶NH THAY §æI Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN KIÊN HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Kim Ngân MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN ....................................................................................... 8 1.1. Hợp đồng, đặc điểm của hợp đồng ..............................................................8 1.1.1. Định nghĩa hợp đồng .......................................................................................8 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng.................................................................................12 1.2. Thực hiện hợp đồng ....................................................................................15 1.2.1. Thực hiện hợp đồng, các nguyên tắc thực hiện hợp đồng ............................15 1.2.2. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng ....................................................................16 1.2.3. Chế tài khi vi phạm hợp đồng .......................................................................23 1.3. Khái quát về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ......................30 1.3.1. Khái niệm thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ................................30 1.3.2. Ý nghĩa của quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi...............34 1.3.3. Nguyên tắc của thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ........................36 1.3.4. Phân biệt điều khoản thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản và một số chế định tƣơng tự ...................................................................39 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1..........................................................................................46 CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN ................................. 47 2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trƣớc BLDS năm 2015 ........................................................47 2.2. Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản từ thời điểm BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành.......................................54 2.2.1. Điều kiện áp dụng quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ...........54 2.2.2. Cơ chế thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ......................................63 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2..........................................................................................74 CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN .............75 3.1. Nhận định, đánh giá chung về quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật Việt Nam .........................................75 3.1.1. Thực trạng quy định pháp luật của Việt Nam về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản.......................................................................75 3.1.2. Thực tiễn thực thi quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong pháp luật Việt Nam ............................................................78 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật Việt Nam...................................................81 3.2.1. Cần phải đề cao nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng khi áp dụng điều khoản về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi...................................81 3.2.2. Về điều kiện để công nhận hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay đổi ............82 3.2.3. Về yêu cầu đàm phán lại hợp đồng của một bên ..........................................83 3.2.4. Về sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền đến việc các bên thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi ..................................................................85 3.2.5. Về sự bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật .....................88 3.2.6. Cần nâng cao nhận thức của ngƣời dân, doanh nghiệp và cơ quan xét xử khi áp dụng điều khoản về việc thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi .............89 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3..........................................................................................91 KẾT LUẬN ..............................................................................................................92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................95 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT KÝ HIỆU NGUYÊN NGHĨA 1 BLDS BLDS 2 PECL Bộ Nguyên tắc Luật Hợp đồng Châu Âu 3 PICC Bộ Nguyên tắc Hợp đồng Thƣơng mại quốc tế MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia nhằm phát sinh một hậu quả pháp lý nhất định. Việc thực hiện hợp đồng là một quá trình, quá trình này hàm chứa nhiều rủi ro có thể đến từ môi trƣờng thiên nhiên, môi trƣờng kinh doanh hoặc môi trƣờng xã hội khiến điều kiện thực hiện hợp đồng bị thay đổi căn bản, do vậy nội dung các bên đã thỏa thuận tại thời điểm giao kết có thể không còn là ý chí của các bên tại thời điểm thực hiện hợp đồng. Bởi vậy, "lý thuyết về hợp đồng đã tìm ra muôn vàn lý do để xử lý một cách công bằng nếu điều kiện thực hiện hợp đồng đã đổi thay căn bản. Các ngoại lệ này trải rộng từ việc vô hiệu hóa hợp đồng do nhầm lẫn, quyền đƣợc hủy hợp đồng, các lý do bất khả kháng, các lý do làm cho hợp đồng không thể thực hiện đƣợc, cho đến các lý do hủy nghĩa vụ hợp đồng do một bên vi phạm nghĩa vụ trung thành, vi phạm truyền thống tốt đẹp" [8]. Khi soạn thảo, ban hành BLDS năm 2015, Quốc hội đã đƣa thêm một giải pháp nữa để các bên có thể phân bổ rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng, đó chính là điều khoản về "Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" (Điều 420 BLDS). Điều khoản này cho phép một bên có quyền yêu cầu đàm phán lại hợp đồng khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng có sự đổi thay căn bản khiến bên này có thể bị thiệt hại nghiêm trọng nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, Pháp luật dân sự Việt Nam cho phép Tòa án bên cạnh thẩm quyền chấm dứt hợp đồng thì còn có quyền điều chỉnh nội dung hợp đồng nhằm đảm bảo sự công bằng cho các bên tham gia khi hoàn cảnh thực hiện có sự đổi thay căn bản. Phải đánh giá đây là một sự thay đổi tiến bộ trong quá trình lập pháp của nƣớc ta, thể hiện một tƣ duy mới về hợp đồng, rằng hợp đồng không thể "đóng kín và đầy đủ" [8] mà "hợp đồng suy cho cùng là một công cụ để phản ánh ý chí của các bên trong việc ứng xử đối với môi trƣờng kinh doanh luôn đổi thay" [8]. Khi 1 môi trƣờng thực hiện hợp đồng thay đổi, nội dung trong hợp đồng không còn phù hợp, không phản ánh đúng ý chí của các bên tham gia giao kết; khi những rủi ro từ môi trƣờng kinh doanh gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng đến một hoặc các bên tham gia giao kết thì việc các bên ngồi lại, cùng đàm phán tìm ra giải pháp để giải quyết khắc phục, ngăn chặn thiệt hại là yêu cầu cần thiết. Mặc dù trƣớc đây, pháp luật Việt Nam có quy định về ngoại lệ ứng xử của các bên khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng có sự thay đổi nhƣng điều khoản về "thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" cho đến BLDS năm 2015 mới đƣợc ghi nhận để áp dụng chung cho mọi loại hợp đồng. Tuy nhiên, cách quy định của BLDS hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, mâu thuẫn với một số văn bản pháp luật khác và thậm chí là mâu thuẫn với quy định khác trong chính BLDS. Cùng với đó, trƣớc khi BLDS năm 2015 ra đời, một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác đã khá tiến bộ khi đƣa nội dung về điều chỉnh hợp đồng khi xuất hiện những yếu tố khách quan tác động đến việc thực hiện hợp đồng. Nhƣng đến nay, khi điều khoản về "thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" đã đƣợc ghi nhận trong BLDS (vốn đƣợc coi là luật chung của hệ thống luật tƣ) thì những quy định đó có nhiều điểm không tƣơng thích, không phù hợp. Đồng thời, do đây là quy định mới nên mức độ nhận thức, hiểu biết của ngƣời dân, doanh nghiệp chƣa cao, kinh nghiệm của Tòa án trong việc giải quyết vụ việc liên quan cũng chƣa nhiều khiến việc áp dụng quy định này chƣa thật sự hiệu quả, và đạt đƣợc đúng, đủ ý nghĩa, vai trò của nó. Bởi vậy, việc nghiên cứu quy định này là một vấn đề cấp bách và cần thiết, để một mặt giúp cá nhân, doanh nghiệp có thể tìm hiểu kỹ hơn về quy định mới này, từ đó có thể áp dụng trong thực tế giao dịch, kinh doanh, mặt khác có thể tìm ra những tồn tại, hạn chế có thể xuất hiện trong thực tiễn áp dụng pháp luật sau này. Trên cơ sở phân tích những vấn đề cấp thiết trên, tác giả đã lựa chọn đề tài "Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" cho luận văn thạc sĩ luật học của mình, góp phần bổ sung kiến thức lý luận và thực tiễn, hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam về vấn đề này. 2 1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản không còn mới mẻ với pháp luật của nhiều nƣớc trên thế giới. Tuy nhiên, đến khi BLDS năm 2015 đƣợc soạn thảo và ban hành, quy định này mới đƣợc công nhận một cách chính thức. Bởi vậy, tại thời điểm BLDS năm 2015 đƣợc soạn thảo, trƣng cầu ý kiến, và thời điểm sau khi bộ luật này có hiệu lực thi hành, có tƣơng đối nhiều các bài nghiên cứu dƣới mức độ và phạm vi khác nhau. Dƣới cấp độ bài nghiên cứu, tạp chí, có thể kể đến các bài nghiên cứu sau đây: bài "Điều khoản điều chỉnh hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi trong pháp luật nước ngoài và kinh nghiệm cho Việt Nam" của tác giả Lê Minh Hùng trong Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6 tháng 3/2009; bài “Mối liên hệ giữa thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản với giao dịch bảo đảm” của tác giả Nguyễn Văn Duy trong tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề 5/2017; bài “Đề xuất diễn giải và áp dụng điều 420 BLDS 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản” của TS. Nguyễn Thị Minh Hằng và ThS Trần Thị Giang Thu đƣợc đăng tải trên website https://thongtinphapluatdansu.edu.vn, bài "Điều khoản “harship” trong thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” của tác giả Trần Thanh Tâm và Nguyễn Minh Hiển đƣợc đăng tải trên website https://thongtinphapluatdansu.edu.vn, bài "Một số vấn đề về thực hiện hợp đồng khi có hoàn cảnh thay đổi quy định trong BLDS 2015 dưới góc nhìn so sánh với pháp luật quốc tế" của Ths Lê Đinh Bảo Trâm đƣợc đăng tải trên website http://tkshcm.edu.vn ngày 20/09/2017, bài "Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" của Ngô Thu Trang, Nguyễn Thế Đức Tâm đƣợc đăng tải trên website https://rule.vn, bài "Mối liên hệ giữa thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản với giao dịch bảo đảm" của Ths Nguyễn Văn Huy đƣợc đăng tải trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật điện tử (website www.tcdcpl.moj.gov.vn), bài “Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi trong BLDS 2015” của TS Dƣơng Quỳnh Hoa đƣợc đăng tải trên Tạp chí Luật sƣ Việt Nam số 9/2016, bài “Một số bình luận về Điều 420 BLDS năm 2015: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" của Đàm Thị Diễm Hạnh, Lê Thị Kim Oanh đƣợc đăng tải trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, Số 7/2018… 3 Dƣới cấp độ luận văn, luận án, hiện nay mới có luận văn thạc sĩ “Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản” của Thái Thị Hải Yến, đƣợc nghiên cứu tại trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Tuy nhiên, dƣới dạng bài nghiên cứu, tạp chí, các bài viết trên cũng chỉ mang tính khái quát, sơ lƣợc giới thiệu quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Dƣới cấp độ luận văn, số lƣợng luận văn nghiên cứu nội dung này còn hạn chế, do vậy cũng chƣa đủ để làm rõ, đầy đủ đƣợc những điểm hợp lý và những tồn tại của điều khoản này. Trên thế giới, đây là đề tài đƣợc khá nhiều học giả quan tâm, là chủ đề hấp dẫn, tạo ra nhiều tranh luận giữa các học giả từ hơn 200 năm trƣớc. Dƣới dạng bài nghiên cứu, có thể kể đến bài "The effect of change in circumstances on the performance of contract" của Egidijus Baranauskas and Paulius Zapolskis, viết năm 2009 tại trƣờng Đại học Wroclaw, bài "Force Majeur and Hardship International Sales Contract" của Ingeborg Schwenzer tại Trƣờng Đại học Basel, Sƣitzerland. Dƣới dạng sách, có thể kể đến cuốn "Force Majeur and Hardship under General Contract Principles: Exemption for Non-Perforrmance in International Arbitration" của Christoph Bunne, Nhà xuất bản Wolters Kluwer law&Business. Đặc biệt, một trong những tác phẩm đƣợc đánh giá là chi tiết, dễ hiểu, dễ tiếp cận để tham khảo có thể đƣợc kể đến là cuốn sách "The effect of change of circumtances on the binding force of contracts – Comparative perspectives", độ dày khoản 300 trang của nhà nghiên cứu ngƣời Chi Lê Rodrigo Momberg Uribe phát hành năm 2011 [1]… Tuy nhiên, phần lớn các tài liệu về "thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản" trên thế giới chƣa đƣợc dịch ra tiếng Việt, do vậy sẽ hạn chế số ngƣời tiếp cận những tài liệu này để tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng quy định pháp luật. 2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu 2.1. Về đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu mà luận văn hƣớng tới là một số vấn đề lý luận chung về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, pháp luật thực định về thực 4 hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản và phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi. Phạm vi nghiên cứu: trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả nghiên cứu quy định về quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Trong đó, tập trung làm rõ các nội dung sau: - Lý luận chung về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản: bao gồm định nghĩa thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, ý nghĩa, nguyên tắc của quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản; - Quy định pháp luật hiện hành về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản: Điều kiện để công nhận hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay đổi cơ bản và cơ chế để thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản; - Dựa trên cơ sở lý luận và pháp luật thực định đã phân tích, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. 2.2. Về mục đích nghiên cứu Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản có ý nghĩa quan trọng nhằm duy trì hiệu lực của hợp đồng, đảm bảo công bằng giữa các bên khi tham gia giao dịch. Tuy nhiên, đây là quy định còn khá mới mẻ, chƣa nhiều cá nhân, doanh nghiệp biết đến. Bởi vậy, thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi đã đƣợc nêu trên, tác giả mong muốn cung cấp cho ngƣời đọc hiểu biết cơ bản về cơ sở lý luận, ý nghĩa của quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản; Hiểu rõ về quy định này trên cơ sở phân tích, đánh giá, so sánh với quy định của một số nƣớc trên thế giới. Đồng thời, dựa trên những đánh giá đó, đƣa ra đƣợc những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để có thể đạt đƣợc mục đích đề ra, khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã đặt ra những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, cung cấp những lý luận cơ bản về quy định thực hiện hợp đồng khi 5 hoàn cảnh thay đổi cơ bản; Lý giải vì sao quy định này là quan trọng, cần thiết trong quá trình hoàn thiện pháp luật về hợp đồng. Thứ hai, đề tài khái quát, phân tích, bình luận về quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản đƣợc quy định trong BLDS năm 2015. Đồng thời, có đối chiếu, so sánh với pháp luật của một số nƣớc trên thế giới. Từ đó, đánh giá những thành tựu, hạn chế của quy định này trong thực tiễn thực thi. Thứ ba, từ những phân tích mặt tích cực và hạn chế, đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện quy định pháp luật. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Với đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu là quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, để đạt đƣợc mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn đã đƣợc sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp diễn giải: Phƣơng pháp này đƣợc áp dụng để để giải thích, lảm rõ quy định của pháp luật hiện hành về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi; - Phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp so sánh: Đƣợc sử dụng để đối chiếu quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, quy định của pháp luật Việt Nam với thế giới; - Phƣơng pháp quy nạp: Đƣợc dùng để đƣa ra những nhận định, đánh giá sau khi đã phân tích, làm rõ các vấn đề pháp lý đã đề ra. Việc sử dụng kết hợp các phƣơng pháp này giúp đề tài đƣợc xem xét từ nhiều góc độ, phƣơng diện khác nhau, trên cơ sở đó có cách nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện và sâu sắc. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là kết quả của quá trình nghiên cứu công phu của tác giả, dựa trên cơ sở phân tích lý luận, pháp luật thực định, thực tiễn thực thi pháp luật. Cụ thể: Làm sáng tỏ phƣơng diện lý luận về quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, làm rõ đƣợc những nội dung của pháp luật hiện hành, và đƣa ra đƣợc những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật. 6 Do vậy, luận văn một mặt có thể đƣợc sử dụng nhƣ một tài liệu tham khảo hữu ích để ngƣời dân, doanh nghiệp muốn tìm hiểu về quy định pháp luật hiện hành, hay cho sinh viên, giảng viên, những ngƣời nghiên cứu chuyên sâu… khi thực hiện nghiên cứu về đề tài liên quan. Mặt khác, luận văn cũng là một cơ sở để các cơ quan chức năng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tham khảo để bổ sung, hoàn thiện quy định pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài nghiên cứu gồm ba chƣơng: Chương 1: Lý luận chung về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. 7 CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KHI HOÀN CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN 1.1. Hợp đồng, đặc điểm của hợp đồng 1.1.1. Định nghĩa hợp đồng Cùng với sự phát triển của xã hội, con ngƣời càng có nhiều hơn nhu cầu về sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, bản thân họ không thể tự mình thực hiện, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu ấy. Do vậy, việc hợp tác, hỗ trợ, trao đổi lẫn nhau về tài sản, hàng hóa hay thực hiện công việc là yêu cầu tất yếu để mỗi cá nhân, tổ chức đáp ứng nhu cầu tồn tại, phát triển của chính mình. Để thực hiện điều này, các bên thiết lập với nhau các cam kết, khế ƣớc, thỏa thuận, hay nói cách khác là các hợp đồng. “Hợp đồng cho phép con ngƣời gánh chịu những trách nhiệm và sự tận tụy trên cơ sở có đi có lại, đƣa ra những lời hứa mà ngƣời khác có thể tin tƣởng, loại bỏ một số thứ không chắc chắn, và tạo lập những ƣớc vọng hợp lý cho các công việc trong tƣơng lai” [2]. Có nhiều thuật ngữ khác nhau đƣợc dùng để chỉ về hợp đồng nhƣ cam kết, khế ƣớc, giao kèo hay luật riêng của các bên … Là một trong những nội dung nền tảng của luật dân sự, đƣợc hình thành từ rất sớm, định nghĩa về hợp đồng cũng dần đƣợc hoàn thiện. Theo BLDS Bắc kỳ năm 1931, “Khế ƣớc là một hiệp ƣớc của một ngƣời hay nhiều ngƣời cam đoan với một hay nhiều ngƣời khác để tặng cho để làm hay không làm cái gì” (Điều 644). BLDS Trung kỳ năm 1936 định nghĩa “Khế ƣớc là hiệp ƣớc của một hay nhiều ngƣời cam đoan với một hay nhiều ngƣời khác để chuyển giao, làm hay không làm cái gì” (Điều 680). Phần nào thừa kế, phát triển định nghĩa trên, Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 quy định “Hợp đồng dây sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mƣợn, tặng, cho tài sản, làm một việc hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm 8 đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”. Nhƣ vậy, so với BLDS Bắc kỳ và BLDS Trung kỳ nêu trên thì cách định nghĩa của Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 khái quát, đầy đủ hơn về mặt chủ thể tham gia hợp đồng, đồng thời cũng liệt kê cụ thể hơn các giao dịch, thỏa thuận giữa các bên khi tham gia giao kết. Tuy nhiên, cách liệt kê của Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 nhƣ trên sẽ dẫn đến trƣờng hợp không thể “quét” đƣợc hết các giao dịch, tình huống phát sinh trên thực tế, từ đó có thể gây khó khăn cho các chủ thể áp dụng, thực hiện pháp luật. Khắc phục nhƣợc điểm này, BLDS 2005, tiếp đến là BLDS 2015 đã định nghĩa lại một cách đầy đủ hơn, nhƣng ngắn gọn hơn, tập trung vào các đặc điểm, bản chất pháp lý của hợp đồng, cụ thể: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 388, BLDS 2005), hay “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (BLDS 2015). Nhƣ vậy, dù cách định nghĩa có sự thay đổi qua các thời kỳ thì hợp đồng luôn đƣợc xác định qua hai yếu tố cơ bản: 1 - sự trao đổi, thống nhất ý chí và 2 - tạo ra một hậu quả pháp lý. Trong đó, thống nhất ý chí là thống nhất trong mỗi chủ thể (giữa ý chí, mong muốn nội tại và hành động đƣợc thể hiện qua việc thỏa thuận đàm phán hợp đồng); và thống nhất ý chí giữa các bên tham gia giao kết. Hậu quả pháp lý chính là việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về hợp đồng của các nƣớc nói riêng đều tôn trọng, đề cao sự tự do ý chí của các chủ thể tham gia hợp đồng. Điều đó có nghĩa, các bên có thể tự do lựa chọn đối tác tham gia hợp đồng, đối tƣợng của hợp đồng, và tự thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng – hậu quả pháp lý sau khi ký kết hợp đồng là do các bên cùng thỏa thuận, xây dựng nên. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, để bảo đảm trật tự xã hội, bảo vệ quyền của các bên yếu thế hơn, đảm bảo lợi ích công cộng và thực hiện mục tiêu phát triển xã hội, nhà nƣớc hạn chế tự do ý chí của các bên tham gia hợp đồng bằng cách can thiệp vào việc giao kết, thực hiện hợp đồng. Sự hạn chế này đƣợc biểu hiện ở những khía cạnh sau: 9 Một là nhà nƣớc hạn chế tự do lựa chọn đối tác ký kết hợp đồng. Một trong những biểu hiện của tự do ý chí là mỗi bên đƣợc tự do lựa chọn ngƣời ký kết hợp đồng với mình. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, pháp luật hạn chế việc lựa chọn ngƣời giao kết hợp đồng hoặc phải ƣu tiên giao kết hợp đồng với một số ngƣời nhất định. Tại Khoản 1 Điều 127 Luật Nhà ở năm 2014 quy định: Trƣờng hợp chủ sở hữu bán nhà ở đang cho thuê thì phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê nhà ở biết về việc bán và các điều kiện bán nhà ở; bên thuê nhà ở đƣợc quyền ƣu tiên mua nếu đã thanh toán đầy đủ tiền thuê nhà cho bên cho thuê tính đến thời điểm bên cho thuê có thông báo về việc bán nhà cho thuê, trừ trƣờng hợp nhà ở thuộc sở hữu chung; trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bên thuê nhà ở nhận đƣợc thông báo mà không mua thì chủ sở hữu nhà ở đƣợc quyền bán nhà ở đó cho ngƣời khác, trừ trƣờng hợp các bên có thỏa thuận khác về thời hạn. Quy định này hạn chế quyền tự do lựa chọn ngƣời giao kết hợp đồng của chủ sở hữu nhà, buộc chủ sở hữu có nghĩa vụ ƣu tiên bán nhà cho ngƣời đang thuê nhà, trƣờng hợp ngƣời thuê không mua nhà thì chủ sở hữu mới đƣợc bán nhà cho ngƣời khác. Bên cạnh việc hạn chế tự do giao kết hợp đồng, pháp luật còn có những quy định nhằm hạn chế tự do không giao kết hợp đồng. Điều này có thể thấy ở nhiều lĩnh vực, nhƣng nhiều nhất có thể thấy là trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ công cộng. "Đối với ngƣời cung cấp dịch vụ công cộng không đƣợc từ chối giao kết hợp đồng nếu còn khả năng cung cấp dich vụ và phải mở ra cho tất cả mọi ngƣời đều có cơ hội nhƣ nhau trong việc mua và sử dụng dịch vụ. Ngƣời giao kết hợp đồng không đƣợc từ chối giao kết hợp đồng vì lý do sắc tộc, tôn giáo hay quốc tịch…" [9] Hai là nhà nƣớc hạn chế tự do ấn định nội dung hợp đồng. Khi giao kết hợp đồng, mặc dù các bên có quyền tự do thỏa thuận các nội dung hợp đồng nhƣng sự tự do này vẫn phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức xã hội. Mọi thỏa thuận trái với pháp luật và đạo đức đều không có hiệu lực thi hành. 10 Bên cạnh đó, về nguyên tắc các bên tham gia hợp đồng đều tự nguyện, bình đẳng. Tuy nhiên, trong thực tế, có rất nhiều trƣờng hợp một bên trong hợp đồng yếu thế hơn nhiều so với bên còn lại về kinh tế, về cơ hội lựa chọn đối tác ký kết…, nên họ buộc phải chấp thuận những hợp đồng mẫu hoặc những điều khoản bất lợi đƣợc đƣa ra bởi bên có lợi thế hơn. Bởi vậy, để bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế hơn, pháp luật đƣa ra những giới hạn cơ bản buộc các bên phải tuân thủ khi giao kết. Nội dung nào của hợp đồng trái với những nội dung bắt buộc này của pháp luật thì không có hiệu lực. Ví dụ, tại Điều 31 Luật Điện lực năm 2004 quy định về giá điện và các loại phí thì: 1. Biểu giá bán lẻ điện do Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt. Cơ quan điều tiết điện lực giúp Bộ trƣởng Bộ Công nghiệp xây dựng biểu giá bán lẻ điện trình Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt. 2. Khung giá phát điện, bán buôn điện và các loại phí truyền tải điện, phân phối điện, điều độ hệ thống điện, điều hành giao dịch thị trƣờng điện lực, các phí dịch vụ phụ trợ do đơn vị điện lực có liên quan xây dựng, cơ quan điều tiết điện lực thẩm định trình Bộ trƣởng Bộ Công nghiệp phê duyệt. 3. Giá phát điện, giá bán buôn điện, giá bán lẻ điện theo hợp đồng mua bán điện có thời hạn do các đơn vị điện lực quyết định nhƣng không đƣợc vƣợt quá khung giá, biểu giá đã đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền phê duyệt. 4. Giá mua bán điện giao ngay đƣợc hình thành theo thời điểm giao dịch trên thị trƣờng điện lực và do đơn vị điều hành giao dịch thị trƣờng điện lực công bố phù hợp với quy định tại điểm e và điểm h khoản 1 Điều 21 của Luật này. Nhƣ vậy, mặc dù hợp đồng cung ứng điện đƣợc giao kết giữa khách hàng sử dụng điện, hoặc đơn vị bán buôn, bán lẻ điện, đơn vị phát điện với đơn vị điện lực nhƣng giá điện bán buôn, giá điện bán lẻ, giá phát điện không phải do các bên tùy ý thỏa thuận mà buộc phải tuân theo biểu giá điện đã đƣợc phê duyệt bởi cơ quan có 11 thẩm quyền. Điều này là hợp lý, bởi lẽ điện năng là sản phẩm có vai trò quan trọng đối với sinh hoạt, sản xuất trên cả nƣớc, sản xuất điện là một ngành kinh doanh độc quyền. Nếu nhƣ giá điện đƣợc "thả trôi", không có sự kiểm soát của nhà nƣớc thì sẽ dẫn đến việc đơn vị điện lực tăng giá tùy ý, làm "lũng đoạn" thị trƣờng điện năng, ảnh hƣởng nghiêm trọng đến đời sống sản xuất và sinh hoạt trong nƣớc. 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng Hợp đồng có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng. Hợp đồng chỉ đƣợc hình thành khi có sự tham gia của hai hay nhiều bên. Nếu nhƣ trong hành vi pháp lý đơn phƣơng chỉ cần một chủ thể thể hiện ý chí của mình cũng có thể làm phát sinh hậu quả pháp lý thì hợp đồng chỉ đƣợc hình thành khi có sự gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên. “Sự gặp gỡ này đƣợc xét tới ở hai thành tố là “đề nghị” và “chấp thuận” [2]. Nếu nhƣ một bên đề nghị nhƣng không đƣợc bên kia chấp thuận thì hợp đồng không thể đƣợc xác lập. Theo quy định của BLDS năm 2015 thì các bên tham gia hợp đồng chỉ có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Trong khi đó, tại BLDS năm 2005, chủ thể tham gia hợp đồng có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác – không có tƣ cách pháp nhân nhƣ tổ hợp tác, hộ gia đình… Nhƣ vậy, so với quy định tại BLDS năm 2005 thì chủ thể tham gia hợp đồng theo BLDS năm 2015 có sự thu hẹp lại. Tuy nhiên, không phải cho đến BLDS năm 2015, chủ thể tham gia hợp đồng mới thu hẹp nhƣ vậy. Dù đƣợc sử dụng bằng các thuật ngữ pháp lý khác nhau nhƣng chủ thể tham gia hợp đồng trong BLDS Bắc Kỳ, BLDS Nam Kỳ và Pháp lệnh hợp đồng dân sự cũng chỉ bao gồm cá nhân và pháp nhân. Tuy vậy, điều kiện để một tổ chức đƣợc coi là pháp nhân và năng lực tham gia giao kết khế ƣớc, giao kết hợp đồng của cá nhân có sự thay đổi qua từng thời kỳ. Về năng lực giao kết khế ƣớc, BLDS Bắc Kỳ quy định: "phàm ngƣời vị thành niên chƣa đƣợc thoát quyền thì không có tƣ cách quản trị tài sản cùng tự do tự xử về mình". Nhƣ vậy, theo pháp luật thời kỳ này, một ngƣời chỉ đƣợc tự do tham gia giao dịch dân sự khi ngƣời này đủ hai mốt tuổi (Điều 221 BLDS Bắc Kỳ) và đƣợc "thoát 12 quyền". Trong đó, đƣợc coi là đƣợc thoát quyền khi đã "giá thú" và có nhà ở riêng khác nhà cha mẹ, hoặc khi đã đủ mƣời tám tuổi và đƣợc cha, mẹ cho phép "thoát quyền". Đến Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, quyền tự do của con ngƣời đƣợc đảm bảo hơn. Điều 3 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định; 1- Cá nhân từ đủ mƣời tám tuổi trở lên, có khả năng nhận thức, thực hiện quyền, nghĩa vụ hợp đồng và tự chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ đó, thì có quyền giao kết hợp đồng dân sự. 2- Cá nhân dƣới mƣời tám tuổi đƣợc giao kết hợp đồng dân sự, nếu đƣợc cha, mẹ hoặc ngƣời đỡ đầu đồng ý, trừ hợp đồng có giá trị nhỏ phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày. 3- Cá nhân từ đủ mƣời sáu tuổi đến dƣới mƣời tám tuổi đƣợc giao kết hợp đồng dân sự, nếu họ có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thanh toán, trừ trƣờng hợp pháp luật quy định phải từ đủ mƣời tám tuổi trở lên. Đến BLDS năm 2015, năng lực hành vi dân sự của cá nhân đƣợc quy định tại Điều 21 nhƣ sau: 1. Ngƣời chƣa thành niên là ngƣời chƣa đủ mƣời tám tuổi. 2. Giao dịch dân sự của ngƣời chƣa đủ sáu tuổi do ngƣời đại diện theo pháp luật của ngƣời đó xác lập, thực hiện. 3. Ngƣời từ đủ sáu tuổi đến chƣa đủ mƣời lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải đƣợc ngƣời đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. 4. Ngƣời từ đủ mƣời lăm tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải đƣợc ngƣời đại diện theo pháp luật đồng ý. Nhƣ vậy có thể thấy, qua các thời kỳ, pháp luật càng mở rộng hơn quyền tự do cá nhân, đảm bảo tốt hơn quyền tự do tham gia hợp đồng của mỗi cá nhân, phù hợp với năng lực nhận thức và điều chỉnh hành vi của chủ thể. 13 Thứ hai, về ý chí của các bên trong hợp đồng Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là “cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải đƣợc chủ thể khác tôn trọng” (Khoản 2 Điều 3 BLDS 2015). Là một trong những chế định đặc thù của luật dân sự, các quy định về hợp đồng cũng không nằm ngoài nguyên tắc trên. Hợp đồng là “một thỏa thuận”, có nghĩa nó phải chứa đựng yếu tố tự nguyện. Trong thực tiễn xã hội, mỗi bên chủ thể tham gia giao kết hợp đồng thƣờng để theo đuổi những mục đích, lợi ích riêng của mình. Và thực chất, quá trình đàm phán, thƣơng thảo hợp đồng là quá trình các bên trao đổi các mong muốn, mục đích của mình với đối tác, từ đó, hai bên thống nhất, tìm ra đƣợc tiếng nói chung, hợp tác vì lợi ích chung. Quá trình giao kết này, các bên phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do, nhƣng không đƣợc trái pháp luật và đạo đức xã hội. Hợp đồng chính là kết quả của quá trình giao kết đó, là sự tuyên bố và thống nhất ý của các chủ thể nhằm phát sinh một hậu quả pháp lý nhất định. Thứ ba, hậu quả pháp lý của hợp đồng. Hợp đồng đƣợc ví nhƣ “luật giữa các bên”. Tức khi tham gia hợp đồng, các bên đã thỏa thuận, thiết lập các quyền và nghĩa vụ của mình thông qua các điều khoản của hợp đồng. Các điều khoản này có thể là điều khoản cơ bản, điều khoản thông thƣờng hoặc điều khoản tùy nghi. Điều khoản cơ bản là điều khoản xác định quyền, nghĩa vụ cơ bản của mỗi bên, nếu không thỏa thuận đƣợc những điều khoản này thì hợp đồng không thể giao kết đƣợc. Điều khoản thông thƣờng là những điều khoản mà nội dung đã đƣợc xác định trong văn bản pháp luật. Nếu nhƣ các bên không thỏa thuận những điều khoản này thì đƣợc coi là các bên đồng ý thực hiện những nội dung pháp luật đã quy định. Điều khoản tùy nghi là các điều khoản mà các bên tham gia giao kết đồng ý lựa chọn và thỏa thuận với nhau để xác định cụ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan