LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chúng ta chƣa đánh giá hết đƣợc
vai trò thiết yếu của việc sử dụng vốn nên dẫn đến hiện tƣợng sử dụng vốn còn
nhiều hạn chế, các doanh nghiệp nhà nƣớc hoạt động trong cơ chế này đƣợc bao
tiêu cung ứng, chính vì thế hiệu quả sử dụng vốn không đƣợc chú ý đến, do đó
không mang lại hiệu quả, lãng phí nguồn nhân lực. Hiện nay, đất nƣớc ta bƣớc vào
thời kỳ đổi mới, cùng với việc chuyển dịch cơ chế quản lý kinh doanh đó là việc
mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng theo
hƣớng lời ăn lỗ thì chịu. Bên cạnh đó, nƣớc ta đang trong quá trình hội nhập kinh
tế, các doanh nghiệp đang đối mặt với cạnh tranh gay gắt và điều này đã tạo cơ
hội, thách thức cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Đối với
những doanh nghiệp năng động, sớm bắt nhịp cơ chế thị trƣờng đã sử dụng vốn có
hiệu quả còn những doanh nghiệp khó khăn trong tình trạng sử dụng vốn. Và có
thể nói, vốn là một yếu tố quan trọng quyết định đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vốn là chìa khóa, là điều kiện tiền đề cho các doanh
nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh tế là lợi nhuận, lợi thế và an toàn. Vì vậy, việc
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh không còn là khái niệm mới mẻ nhƣng
nó luôn đặt ra trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Công ty xây dựng công trình hàng không (ACC) thuộc Tổng công ty bay dịch
vụ Việt Nam- Bộ Quốc phòng, là một trong những doanh nghiệp thành công trong
ngành xây dựng. Vài năm trở lại đây trên công trƣờng xây dựng mở rộng thêm
nhiều công trình mang tầm cỡ quốc gia nhƣ: đƣờng hầm xuyên đèo Hải Vân, Cảng
hàng không Liên Khƣơng ở Đà Lạt, Công trƣờng 1B Nội Bài... Đây chính là
những cơ hội phát triển thuận lợi cho ngành công nghiệp xây dựngViệt Nam. Tuy
nhiên, thị trƣờng xây dựng to lớn nhƣ trên nếu không tận dụng đƣợc sẽ có thể trở
thành khó khăn, thử thách đối với nhiều doanh nghiệp xây dựng trong nƣớc mà đặc
biệt là các công ty, xí nghiệp xây dựng quốc doanh vốn cần giải quyết những vấn
đề còn vƣớng mắc: Trang thiết bị lạc hậu, trình độ công nghiệp, trình độ quản lý...
Ngoài ra với phƣơng pháp và cách thức điều hành doanh nghiệp trong lĩnh vực tài
chính, đặc biệt hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp xây dựng nói riêng
Trang 1
cũng nhƣ các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế nói chung ngày càng trở nên
cấp thiết.
Nhận thấy vấn đề quan trọng đó, sau một thời gian thực tập ở công ty ACC,
đƣợc sự giúp đỡ trực tiếp của kế toán tổng hợp - thƣợng úy Cao Văn Kế và các cán
bộ khác trong công ty đã cung cấp một tài liệu cần thiết cùng với sự hƣớng dẫn của
Ths. Phan Thị Hạnh tôi đã tiến hành phân tích những mặt mạnh cũng nhƣ mặt hạn
chế cần đƣợc khắc phục trong công việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của
công ty trong những năm gần đây.
Bài chuyên đề đã đƣợc hoàn thành, song còn có gặp một số vấn đề mà thời
gian nghiên cứu lại có hạn, nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong sự
góp ý của giáo viên hƣớng dẫn và ban lãnh đạo Công ty ACC.
Trang 2
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1.1. VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm về vốn
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào
muốn tồn tại và phát triển đƣợc đều cần phải có nguồn tài chính đủ mạnh, đây là
một trong ba yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp có thể duy trì hoạt động của
mình. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn mà còn phải biết vận động không
ngừng phát triển đồng vốn đó.
Vốn là một khối lƣợng tiền tệ nào đó đƣợc đƣa vào lƣu thông nhằm mục
đích kiếm lời. Nhƣng suy cho cùng là để mua sắm tƣ liệu sản xuất và trả công cho
ngƣời lao động, nhằm hoàn thành công việc sản xuất kinh doanh hay dịch vụ nào
đó với mục đích là thu về số tiền lớn hơn ban đầu. Do đó vốn mang lại giá trị thặng
dƣ cho doanh nghiệp.
Nếu gạt bỏ nguồn gốc bóc lột của Tƣ bản chủ nghĩa trong công thức T – H –
SX - - H’ – T’ của C.Mác thì có thể xem đây là một công thức kinh doanh, chủ thể
kinh doanh dùng vốn của mình dƣới hình thức tiền tệ mua những TLSX để tiến
hành quá trình sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá theo nhu cầu của thị trƣờng rồi đem
những thành phẩm hàng hoá này bán cho khách hàng trên thị trƣờng để thu đƣợc
một lƣợng tiền tệ lớn hơn số ban đầu bỏ ra.
Theo quan điểm của Mác, vốn (tƣ bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dƣ, là
một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này mang một tầm khái quát lớn,
nhƣng do bị hạn chế bởi điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên Mác đã quan niệm
chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dƣ cho nền kinh tế. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế, các nhà khoa học đại diện cho các trƣờng phái
khác nhau đã có bổ sung thêm các yếu tố mới cũng đƣợc coi là vốn.
Trang 3
Theo Paul.A.Samuelson- nhà kinh tế học của trƣờng phái “Tân cổ điển” đã
thừa kế các quan niệm của trƣờng phái “cổ điển” về yếu tố sản xuất để phân chia
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thành ba bộ phận là: đất đai – lao động –
vốn. Theo ông vốn là các hàng hoá đƣợc sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản
xuất mới.
Sau này David Begg có bổ sung thêm về định nghĩa của vốn, theo ông: vốn
bao gồm có vốn hiện vật (tiền, các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp). Nhìn
chung cả Samuelson và Begg đều có chung một thống nhất cơ bản về vốn là các
yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy, quan điểm này cho thấy vốn vẫn bị đồng nhất với Tài sản của doanh
nghiệp. Thực chất vốn là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ Tài sản của doanh nghiệp
huy động vào quá trình sản xuất nhằm mục đích sinh lời.
Trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, vốn đƣợc quan niệm là toàn bộ những
giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Khái
niệm này không những chỉ ra vai trò là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
mà còn đề cập tới sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong một quá trình sản
xuất và tái sản xuất liên tục, suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu
quá trình sản xuất đầu tiên cho tới chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Nhƣ vậy, muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nào
cũng cần phải có một lƣợng vốn nhất định. Trong nền kinh tế thị trƣờng vốn là
điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình sản xuất
kinh doanh. Vốn kinh doanh là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới thiết bị công
nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lƣợng sản phẩm, tăng việc làm và
thu nhập cho ngƣời lao động.
Ta cũng cần phân biệt giữa tiền và vốn. Muốn có vốn thì thƣờng phải có tiền,
nhƣng có tiền thì chƣa hẳn đƣợc gọi là vốn. Tiền muốn đƣợc coi là vốn phải thoả
mãn những điều kiện sau:
- Tiền phải đại diện cho một lƣợng hàng hoá nhất định tức phải đƣợc đảm
bảo bằng một lƣợng hàng hoá có thực.
Trang 4
- Tiền phải đƣợc tích tụ và tập trung đến một lƣợng nhất định. Sự tích tụ và
tập trung của tiền phải đạt một mức độ tối thiểu nào đó thì mới đủ sức để đầu tƣ
cho một dự án kinh doanh nào đó dù là nhỏ nhất. Nếu tiền nằm rải rác khắp nơi,
không đƣợc gom thành khoản thì cũng không làm đƣợc việc gì.
- Khi đã đủ về lƣợng, tiền phải đƣợc vận động nhằm mục đích sinh lợi. Cách
vận động và phƣơng thức vận động của tiền tuỳ thuộc vào phƣơng thức đầu tƣ
kinh doanh.
1.1.2. Cơ cấu của vốn
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ… hay hoạt
động bất cứ ngành nghề gì khác các doanh nghiệp cần phải có một lƣợng vốn nhất
định. Số vốn kinh doanh đó đƣợc biểu hiện dƣới dạng tài sản. trong hoạt động tài
chính của doanh nghiệp, quản lý vốn kinh doanh và sử dụng vốn kinh doanh có
hiệu quả là yếu tố quan trọng nhất có tính chất quyết định đến mức độ tăng trƣởng
hay suy thoái của doanh nghiệp. Do vậy để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh ta cần phải nắm rõ về vốn, đặc điểm của nó ra sao.
1.1.2.1. Vốn cố định
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của vốn cố định đƣợc gắn
liền với hình thái biểu hiện vật chất của nó là Tài sản cố định. Vì vậy khi nghiên
cứu về vốn cố định trƣớc hết phải dựa trên cơ sở tìm hiểu về tài sản cố định. Tƣ
liệu sản xuất đƣợc chia thành hai bộ phận là đối tƣợng lao động và tƣ liệu lao
động.
Điểm nổi bật của tƣ liệu lao động là chúng có thể tham gia một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó mặc dù tƣ liệu lao
động bị hao mòn nhƣng chúng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Chỉ khi
nào chúng bị hƣ hỏng hoàn toàn hoặc không còn lợi ích kinh tế thì khi đó chúng
mới bị thay thế. Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tƣ liệu lao động
có giá trị lớn tham gia một cách trực tiếp vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp
qua nhiều chu kỳ sản xuất. Một tƣ liệu lao động để thoả mãn là tài sản cố định phải
có đồng thời hai tiêu chuẩn cơ bản sau:
Trang 5
- Phải có thời gian sử dụng tối thiểu từ một năm trở lên
- Phải đạt một mức tối thiểu nhất định nào đó về giá trị (tiêu chuẩn này
thƣờng xuyên đƣợc điều chỉnh cho phù hợp với từng thời kỳ). Hiện nay ở nƣớc ta
quy định là > 5 triệu đồng.
Nếu phân loại theo hình thái vật chất thì tài sản cố định có hai loại: tài sản cố
định hữu hình và tài sản cố định vô hình
+ Tài sản cố định hữu hình là những tài sản có hình thái biểu hiện vật chất cụ
thể nhƣ: Nhà xƣởng, máy móc, thiết bị, đất đai, vật tƣ…
+ Tài sản cố định vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể
nhƣ: bằng phát minh sáng chế, bí quyết, bản quyền, chi phí sáng lập doanh nghiệp,
lợi thế thƣơng mại… Trong nền kinh tế thị trƣờng để nâng cao khả năng cạnh
tranh thì việc đầu tƣ tài sản cố định vô hình là rất quan trọng. Những chi phí đó
cũng đƣợc quan niệm nhƣ giá trị ccủa một số tài sản cố định và phải đƣợc thu hồi
dần để mua sắm tài sản cố định mới.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động của tài sản cố
định có những đặc điểm sau:
- Về mặt hiện vật: tài sản cố định tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất
kinh doanh và nó bị hao mòn dần, bao gồm cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô
hình. Nói cách khác, giá trị sử dụng sẽ giảm dần cho đến khi tài sản cố định bị loại
ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh.
- Về mặt giá trị: giá trị của tài sản cố định đƣợc chuyển dịch dần từng phần
vào giá trị sản phẩm mà nó tạo ra trong quá trình sản xuất.
Đặc điểm về mặt hiện vật và giá trị của tài sản cố định đã quyết định đến đặc
điểm chu chuyển của vốn cố định. Song quy mô của vốn cố định lại đƣợc quyết
định bằng quy mô tài sản cố định. Qua mối liên hệ đó ta có thể khái quát những nét
đặc thù về sự vân động của vốn cố định trong sản xuất kinh doanh nhƣ sau:
Trang 6
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Có đặc điểm này là do tài
sản cố định có thể phát huy trong nhiều kỳ sản xuất, vì vậy hình thái biểu hiện
bằng tiền của nó cũng đƣợc tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất tƣơng ứng.
- Vốn cố định luân chuyển dần dần, từng phần khi tham gia vào quá trình sản
xuất, giá trị của tài sản giảm dần. Theo đó vốn cố định cũng tách thành 2 phần:
Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm (dƣới hình thức chi phí khấu
hao) tƣơng ứng với giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Phần còn lại của
vốn cố định đƣợc cố định trong các chu kỳ sản xuất kế tiếp, nếu nhƣ phần vốn luân
chuyển dần dần đƣợc tăng lên thì phần vốn cố định giảm tƣơng ứng với mức suy
giảm dần về giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết
thúc sự biến thiên nghịch
chiều đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng và vốn cố định cũng
hoàn thành một vòng luân chuyển.
1.1.2.2. Vốn lưu động
Trong quá trình sản xuất kinh doanh bên cạnh tài sản cố định, doanh nghiệp
luôn có một tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu của quá trình tái sản xuất:
Dự trữ thiết bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm. đây chính
là tài sản lƣu động của doanh nghiệp. Tài sản lƣu động chủ yếu nằm trong quá
trình sản xuất của doanh nghiệp là các đối tƣợng lao động. Đối tƣợng lao động khi
tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ
phận chủ yếu của đối tƣợng lao động sẽ tham gia quá trình sản xuất tạo nên thực
thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất. Đối
tƣợng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất do đó toàn bộ giá trị của
chúng đƣợc dịch chuyển một lần vào giá trị sản phẩm và đƣợc thực hiện khi sản
phẩm trở thành hàng hoá.
Bên cạnh một số tài sản lƣu động nằm trong quá trình lƣu thông, thanh toán,
sản xuất… thì doanh nghiệp còn có một số tƣ liệu khác nhƣ vật tƣ phục vụ quá
trình tiêu thụ, các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu…
Từ đó, ta có thể rút ra, vốn lƣu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trƣớc về
tài sản lƣu động sản xuất và tài sản lƣu động lƣu thông nhằm đảm bảo cho quá
Trang 7
trình tái sản xuất của doanh nghiệp đƣợc thực hiện một cách thƣờng xuyên liên
tục.
Nhƣ vậy, dƣới góc độ tài sản thì vốn lƣu động đƣợc sử dụng để chỉ các tài
sản lƣu động. Vốn lƣu động chịu sự chi phối bởi tính luân chuyển của tài sản lƣu
động, vốn lƣu động luôn đƣợc chuyển hoá qua nhiều hình thái vật chất khác nhau
và chuyển hoá phần lớn vào giá trị sản phẩm, phần còn lại chuyển hoá trong lƣu
thông. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thƣờng
xuyên liên tục nên vốn lƣu động cũng tuần hoàn không ngừng và mang tính chu
kỳ. Vốn lƣu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh
doanh.
Vốn lƣu động là điều kiện vật chất không thể thiếu đƣợc của quá trình tái sản
xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất đƣợc liên tục thì yêu cầu đặt ra đối với doanh
nghiệp là phải có đủ vốn lƣu động để đầu tƣ vào các tƣ liệu lao động khác nhau,
đảm bảo cho tƣ liệu lao động tồn tại một cách hợp lý, đồng bộ với nhau trong một
cơ cấu. Do đặc điểm của vốn lƣu động là trong quá trình sản xuất kinh doanh luân
chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, sự vận động tuần hoàn liên tục đã quyết
định sự vận động của vốn lƣu động.
+ Khởi đầu vòng tuần hoàn, vốn lƣu động đƣợc dùng để mua sắm các đối
tƣợng lao động trong khâu dự trữ sản xuất. ở giai đoạn này vốn đã thay đổi hình
thái, từ vốn tiền tệ sang vốn vật tƣ (T- H)
+ Tiếp theo là giai đoạn sản xuất, các vật tƣ đƣợc chế tạo thành bán thành
phẩm, thành phẩm. ở giai đoạn này vốn vật tƣ chuyển hóa thành thành phẩm (HSX- - H’)
+ Kết thúc vòng tuần hoàn, sau khi sản phẩm đƣợc tiêu thụ vốn lƣu động lại
đƣợc chuyển hoá sang hình thái vón tiền tệ nhƣ điểm xuất phát ban đầu (H’ - T’);
(T’> T).
Trong thực tế, sự vận động của vốn lƣu động không diễn ra một cách tuần tự
nhƣ mô hình lý thuyết trên mà các giai đoạn vận động của vốn đƣợc đan xen vào
Trang 8
nhau, các chu kỳ sản xuất đƣợc tiếp tục lặp lại, vốn lƣu động đƣợc tiếp tục tuần
hoàn và chu chuyển.
Trong doanh nghiệp, việc quản lý tốt vốn lƣu động có vai trò rất qaun trọng.
Muốn quản lý tốt vốn lƣu động các doanh nghiệp phải phân biệt đƣợc các bộ cấu
thành của vốn lƣu động để trên cơ sở đó đề ra đƣợc các biện pháp quản lý với từng
loại. Trên thực tế vốn lƣu động của doanh nghiệp bao gồm những bộ phận sau:
+ Tiền mặt và chứng khoán có thể bán đƣợc: tiền trong quỹ của doanh
nghiệp, các khoản tiền gửi không có lãi, chứng khoán bán đƣợc thƣờng là các
thƣơng phiếu…
+ Các khoản phải thu: trong nền kinh tế thị trƣờng, việc mua bán chịu là
không thể tránh khỏi, và đây cũng là một chiến lƣợc trong cạnh tranh của doanh
nghiệp. Các hoá đơn chƣa đƣợc trả tiền thể hiện qua tín dụng thwong mại và hình
thành nên các khoản phải thu. Tín dụng thƣơng mại có thể tạo nên uy tín, vị thế
của doanh nghiệp trên thị trƣờng đồng thời cũng có thể dẫn tới rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Khoản dự trữ: việc tồn tại vật tƣ, hàng hoá dự trữ, tồn kho là bƣớc đệm cần
thiết cho quá trình hoạt động thƣờng xuyên của doanh nghiệp. Sự tồn tại này trong
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoàn toàn khách quan.
Từ những đặc điểm trên ta có thể phân biệt đƣợc sự khác nhau cơ bản giữa
vốn lƣu động và vốn cố định:
Tên vốn
Chức năng
Vốn cố định
Tƣ liệu lao động
Tính chất tham gia
Hình thức chuyển
vào Q.trình SX
hoá giá trị
Nhiều lần
Chuyển dần
nhiều lần
Vốn lƣu động
Đối tƣợng lao động
Một lần
Chuyển toàn bộ
một lần
Trang 9
1.1.3. Vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Vốn là điều kiện tiên đề quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Vốn là cơ sở xác lập địa vị pháp lý của doanh nghiệp, vốn đảm bảo cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp theo mục tiêu đã định.
Về mặt pháp lý
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện đầu tiên của doanh
nghiệp đó phải có 1 lƣợng vốn nhất định, lƣợng vốn đó tối thiểu phải bằng lƣợng
vốn pháp định, khi đó địa vị pháp lý mới đƣợc công nhận. Ngƣợc lại việc thành lập
doanh nghiệp không thể thực hiện đƣợc ở trƣờng hợp trong quá trình hoạt động
kinh doanh, vốn của doanh nghiệp không đạt điều kiện mà pháp luật quy định,
doanh nghiệp sẽ chấm dứt hoạt động nhƣ phá sản, sát nhập vào doanh nghiệp
khác…
Nhƣ vậy, vốn đƣợc xem là một trong những cơ sở qua trong nhất để đảm bảo
sự tồn tại tƣ cách pháp nhân của một doanh nghiệp trƣớc pháp luật.
Về mặt kinh tế
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là mạch máu của doanh nghiệp
quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vốn không những đảm bảo
khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ phục vụ cho quá trình
sản xuất mà còn đảm bảo cho hoạt động kinh doanh diễn ra một cách liên tục,
thƣờng xuyên.
Vốn là yếu tố quyết định đến mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp.
Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh vốn của
doanh nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo cho
doanh nghiệp đƣợc bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục
đầu tƣ sản xuất, thâm nhập vào thị trƣờng tiềm năng từ đó mở rộng thị trƣờng tiêu
thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thƣơng trƣờng.
Trang 10
Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng của vốn nhƣ vậy thì doanh nghiệp mới có
thể sử dụng tiết kiệm có hiệu quả hơn và luôn tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn.
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Trƣớc đây, trong cơ chế quản lý hành chính bao cấp, quan hệ giữa Nhà nƣớc
với doanh nghiệp dựa trên nguyên tắc chi đủ, thu đủ. Nhà nƣớc giao kế hoạch
mang tính pháp định cần chú ý về nguồn cung cấp, tiêu thụ, doanh thu… Vì vậy
các doanh nghiệp không có tính sáng tạo, chủ động trong sản xuất kinh doanh. Do
đó, quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh đƣợc xác định dựa trên cơ sở:
Mức độ thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh, sự tiết kiệm trong giá thành sản phẩm,
khối lƣợng giá trị sử dụng mà doanh nghiệp cung cấp cho nền kinh tế. Đây chính
là sự lẫn lộn giữa chỉ tiêu kết quả và chỉ tiêu hiệu quả. Điều này đã làm cho các
nhà đầu tƣ, quản lý đánh giá sai về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Đây
cũng chính là nguyên nhân làm tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp bị lãng
phí không hiệu quả dẫn đến tình trạng “mất” dần vốn và không còn có khả năng
duy trì sản xuất kinh doanh.
Chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
tuân theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh “đầu vào” và “đầu ra” đƣợc quyết định
bởi thị trƣờng. Xuất phát từ nhu cầu thị trƣờng, từ lợi ích của doanh nghiệp do đó
đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải tính đến các yếu tố sản xuất là sản xuất cái gì? sản
xuất cho ai? Và sản xuất nhƣ thế nào? Vậy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
diễn ra ngày càng gay gắt để khẳng định đƣợc vị trí của mình trên thị trƣờng.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, các doanh nghiệp đều lấy hiệu quả kinh doanh
làm thƣớc đo cho hoạt động kinh doanh. Nhƣ vậy hiệu quả kinh doanh là một
phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế chiều sâu, thể hiện
trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ về chi phí các khôngản nguồn lực đó
trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh.
Qua công thức:
Trang 11
Hiệu quả
kinh doanh
Kết quả(DT)
=
Chi phí
Ta thấy hiệu quả chịu ảnh hƣởng của hai nhân tó đó là doanh thu và chi phí.
Hiệu quả tăng lên khi:
- Doanh thu tăng, chi phí không đổi
- Chi phí giảm, doanh thu không đổi
- Doanh thu và chi phí cùng tăng nhƣng tốc độ tăng của doanh thu lớn hơn
chi phí.
Điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh khốc liệt
của nền kinh tế thị trƣờng là phải sử dụng vốn kinh doanh sao cho có hiệu quả. Sử
dụng vốn kinh doanh có hiệu quả là phải bảo toàn và không ngừng phát triển vốn,
tức là phải tạo ra sức sinh lời của đồng vốn ngày càng cao.
Nhƣ vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tức là phải sử dụng và tìm các biện
pháp làm sao cho chi phí vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh là ít nhất mà đem
lại hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu phản ánh kết quả tổng hợp nhất quá trình sử
dụng các loại vốn sao cho tối đa hoá kết quả lợi ích, tối thiểu lƣợng vốn và thời
gian sử dụng sao cho phù hợp với mục tiêu kinh doanh.
Trang 12
1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
- Vòng quay toàn bộ vốn: Chỉ tiêu này cho biết vốn của doanh nghiệp trong
một kỳ quay đƣợc bao nhiêu vòng.
Vòng quay toàn bộ vốn =
Doanh thu thuần về tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Số dƣ bình quân toàn bộ vốn
Đây là hệ số phản ánh hiệu suất sử dụng vốn, vòng quay càng lớn thì hiệu
suất sử dụng càng cao.
- Mức sinh lời vốn kinh doanh =
Lợi nhuận thuần
Vốn sản xuất bình quân
Chỉ tiêu đo mức sinh lời của vốn kinh doanh. Chỉ tiêu này phản ánh kết quả
cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cho thấy một đồng
vốn bỏ ra sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
1.2.1.1. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn cố định phản ánh 1 đồng vốn tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu hoặc giá trị sản lƣợng.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Lỗi!
Mức doanh lợi vốn cố định: phản ánh 1 đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận ròng.
Mức doanh lợi vốn cố định = Lỗi!x100%
Chỉ tiêu hệ số hao mòn tài sản cố định phản ánh: cứ 1 đồng vốn bỏ ra trong
gía trị tài sản cố định thì số vốn thu hồi trong việc sử dụng tài sản cố định đó là bao
nhiêu
Hệ số hao mòn tài sản cố định =
Số tiền khấu hao luỹ kế
Nguyên giá TSCĐ
Trang 13
Chỉ tiêu hệ số sử dụng tài sản cố định phản ánh: cứ 1 đồng vốn bỏ ra để đầu
tƣ vào tài sản cố định thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu
Hệ số sử dụng tài sản cố định =
Doanh thu (Doanh thu thuần)
Nguyên giá Tài sản cố định
1.2.1.2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn lƣu động cho biết 1 đồng vốn lƣu động của
doanh nghiệp làm ra bao nhiêu đồng giá trị sản lƣợng hoặc doanh thu trong kỳ.
Hiệu suất sử dụng VLĐ = Lỗi!
Mức sinh lời của vốn lƣu động hay còn gọi tỷ suất lợi nhuận của vốn lƣu
động , chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn lƣu động tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
trong kỳ.
Mức doanh lợi của vốn lƣu động = Lỗi!
Số vòng quay của vốn lƣu động, chỉ tiêu này đánh giá tốc độ luân chuyển vốn
lƣu động cho biết trong kỳ phân tích, vốn lƣu động của doanh nghiệp quay đƣợc
bao nhiêu vòng. Hoặc cứ 1 đồng vốn lƣu động bình quân dùng vào sản xuất kinh
doanh trong kỳ tạo ra đƣợc bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
Số vòng quay vốn lƣu động = Lỗi!
Độ dài bình quân 1 lần luân chuyển, chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 vòng quay
của vốn lƣu động trong kỳ phân tích hết bao nhiêu ngày, chỉ tiêu này càng thấp, số
ngày của 1 vòng quay vốn lƣu động càng ít, hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
Thời gian một vòng luân chuyển = Lỗi!
Hệ số đảm nhiệm vốn lƣu động (K), chỉ tiêu này cho biết tạo ra 1 đồng vốn
doanh thu thuần trong kỳ phân tích cần bao nhiêu đồng vốn lƣu động bình quân
dùng vào sản xuất kinh doanh trong kỳ.
K = Lỗi!
Hệ số luân chuyển =
Doanh thu thuần
VLĐ bình quân
Trang 14
Thời gian một kỳ luân chuyển =
360
Hệ số luân chuyển
1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trƣờng, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp luôn hƣớng tới 3 mục tiêu cơ bản là:
- Lợi nhuận
- Tăng trƣởng thế lực
- Đảm bảo an toàn
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp đƣợc thực hiện phải đảm bảo đầy đủ
3 yếu tố này. Nếu doanh nghiệp sử dụng vốn không hiệu quả, không bảo toàn
không làm cho nó sinh lời thì doanh nghiệp sẽ không tồn tại đƣợc trong nền kinh tế
thị trƣờng.
Do vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề cấp bách đặt ra cho các
doanh nghiệp vì nó là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, nó quyết định yếu tố
đầu ra, quyết định đến giá thành sản phẩm.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh vận động liên tục và có
những đặc điểm khác nhau giữa từng loại vốn. Sau mỗi quá trình số vốn bỏ ra
không đƣợc để hao hụt, mất mát mà phải sinh sôi nảy nở. Đồng vốn phải có khả
năng sinh lời, đây là vấn đề cốt lõi liên quan chặt chẽ tới sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Vì vậy sử dụng vốn có hiệu quả là một yêu cầu khách quan đối
với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế thị trƣờng đều phải
tính đến mục tiêu quan trọng nhất đó là lợi nhuận, lợi nhuận là chỉ tiêu chất lƣợng
tổng hợp liên quan đến tất cả các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng, thúc đẩy sự tăng trƣởng
ngày một lớn của doanh nghiệp.
Trang 15
Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là tất yếu trong điều kiện hiện
nay. Nó góp phần nâng cao khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, đẩy nhanh tốc độ hoạt động và khả
năng sinh lời của đồng vốn nhằm đem lại hiệu quả cao hơn cho doanh nghiệp và
góp phần tăng trƣởng, ổn định nền kinh tế xã hội.
1.2.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công
ty xây dựng công trình hàng không
Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định trong doanh nghiệp.
Quy mô và trình độ trang bị máy móc, dây chuyền sản xuất là nhân tố rất quan
trọng có ảnh hƣởng khả năng cạnh tranh cũng nhƣ hƣớng phát triển lâu dài của
doanh nghiệp.
- Thời gian chu kỳ vận động của vốn cố định thƣờng kéo dài, sau nhiều năm
mới có thể hoàn đủ vốn đã ứng ra ban đầu cho việc đầu tƣ tài sản cố định.
Trong quá trình lâu dài đó, đồng vốn luôn bị đe dọa bởi những rủi ro cả chủ
quan lẫn khách quan làm thất thoát vốn.
- Vốn cố định chuyển dịch giá trị từng phần và chia làm nhiều lần vào giá trị
sản phẩm và vì vậy cũng đƣợc hoàn vốn từng phần. Trong khi có một bộ phận của
vốn cố định đƣợc chuyển hoá thành tiền tệ nằm trong quỹ khấu hao cơ bản thì
phần còn lại vẫn năm trong giá trị còn lại của tài sản cố định. Nếu loại trừ sự ảnh
hƣởng của các yếu tố khác (cả chủ quan lẫn khách quan) thì phần giá trị còn lại
này cần đƣợc chuyển hoá đầy đủ và kịp thời sang dạng tiền tệ. Tuy nhiên, trên thực
tế, đây là quá trình rất khó khăn và phức tạp dễ xảy ra thất thoát vốn.
1.2.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại
Công ty xây dựng công trình hàng không
Sử dụng vốn lƣu động hiệu quả gắn liền với lợi ích và hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Đây là vấn đề có tính cấp thiết đối với sự tồn tại của
doanh nghiệp và là một tất yếu khách quan mà doanh nghiệp cần đạt đƣợc. Việc
quản lý và sử dụng vốn lƣu động kém hiệu quả sẽ làm tốc độ luân chuyển vốn
Trang 16
chậm, hiệu quả sử dụng vốn thấp. ở mức độ nghiêm trọng hơn hiện tƣợng này rất
dễ dẫn đến thất thoát vốn và ảnh hƣởng đến quá trình tái sản xuất: quy mô vốn
giảm khiến cho chu kỳ sản xuất sau thu hẹp hơn so với chu kỳ trƣớc. Tình trạng
trên nếu kéo dài liên tục thì chắc chắn doanh nghiệp không thể đứng vững trên thị
trƣờng.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn cố định tại doanh
nghiệp
Vốn cố định có chu kỳ vận động dài. Trong khoảng thời gian này, hiệu suất
sử dụng vốn cố định bị ảnh hƣởng bởi nhiều yếu tố khác nhau. Có 2 nhóm nhân tố
tác động đến vốn cố định : Các nhân tố lƣợng hoá đƣợc và các nhân tố phi lƣợng
hoá.
Vốn cố định đƣợc biểu hiện bằng tiền dƣới dạng là các tài sản cố định.
Trong các nhân tố lượng hoá được, thì tài sản cố định có thể chịu tác động
bởi các nhân tố nhƣ là: Nguyên giá tài sản cố định bình quân, doanh thu thuần, lợi
nhuận thuần, hao mòn vô hình, rủi ro…
- Nguyên giá tài sản cố định bình quân trong kỳ là nhân tố có quan hệ ngƣợc
chiều với hiệu suất sử dụng tài sản cố định trong điều kiện các nhân tố khác không
đổi: Nguyên giá bình quân tài sản cố định tăng thì sức sản xuất, sức sinh lợi của tài
sản cố định giảm (doanh thu, lợi nhuận thuần không đổi) và ngƣợc lại.
- Trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, doanh thu thuần (hoặc lợi nhuận
thuần) tăng lên hoặc giảm đi thì sẽ làm sức sản xuất ( hoặc sức sinh lợi) của tài sản
cố định tăng lên (hoặc giảm đi).
- Hao mòn vô hình: Đây là một nguyên nhân đáng kể tạo nên sự chênh lệch
giữa giá trị thực tế và giá trị ghi trên sổ sách. Nhất là trong điều kiện hiện nay, với
sự phát triển nhanh chóng của các tiến bộ khoa học kỹ thuật khiến cho tài sản cố
định thƣờng xuyên phải đối mặt với nguy cơ hao mòn vô hình nhanh chóng.
Trang 17
- Rủi ro: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ có thể gặp
phải những rủi ro gây thiệt hại, hƣ hỏng … làm suy giảm khả năng sản xuất của tài
sản cố định. Đó có thể là khủng hoảng, thiên tai, động đất, bão lụt…
Các nhân tố phi lượng hoá chủ yếu liên quan đến trình độ quản lý và sử
dụng vốn cố định:
- Phƣơng pháp tính khấu hao: Theo quy định thì có rất nhiều phƣơng pháp
tính khấu hao tài sản cố định để doanh nghiệp có thể lựa chọn: Phƣơng pháp tuyến
tính cố định, phƣơng pháp lũy tiến, phƣơng pháp luỹ thoái… và trong mỗi loại có
nhiều cách tính khác nhau. Sự phức tạp trên khiến doanh nghiệp phải lúng túng:
Nếu sử dụng phƣơng pháp khấu hao nhanh thì tuy có thể nhanh chóng thu hồi vốn
nhƣng sẽ đẩy giá thành sản phẩm lên cao. Còn nếu áp dụng hình thức khấu hao
chậm thì đồng vốn sẽ thu hồi chậm, bị ứ đọng và khó tránh khỏi thất thoát…
- Trình độ sử dụng tài sản cố định : Đƣợc thể hiện trong việc bố trí dây
chuyền sản xuất, tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị, đảm bảo thực
hiện nghiêm ngặt và chế độ duy tu bảo dƣỡng máy móc, áp dụng các chế độ
khuyến khích vật chất đối với ngƣời quản lý và sử dụng tài sản cố định.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại doanh
nghiệp
Hiệu quả sử dụng vốn lƣu động là 1 phạm trù rất rộng đƣợc thể hiện trên
nhiều khía cạnh, góc độ của quá trình sản xuất kinh doanh nên nó chịu ảnh hƣởng
của nhiều nhân tố khác nhau. Vốn lƣu động đƣợc biểu hiện bằng tiền dƣới dạng là
các tài sản lƣu động và chúng chịu tác động bởi các nhân tố, có thể chia chúng ra
thành 2 nhóm: Các nhân tố lƣợng hoá đƣợc và các nhân tố phi lƣợng hoá.
Các nhân tố có thể lượng hoá được bao gồm: vốn lƣu động bình quân trong
kỳ, doanh thu thuần đạt đƣợc trong kỳ, lạm phát…
- Vốn lƣu động bình quân tham gia luân chuyển trong kỳ là nhân tố có quan
hệ ngƣợc chiều với tốc độ luân chuyển vốn lƣu động trong điều kiện các nhân tố
khác không đổi. Nếu số vốn lƣu động bình quân tham gia luân chuyển tăng lên sẽ
Trang 18
kéo dài thời gian của vòng luân chuyển, tốc độ luân chuyể của vốn lƣu động giảm
và ngƣợc lại.
- Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, nếu doanh thu thuần trong kỳ
tăng lên sẽ làm cho thời gian 1 vòng luân chuyển vốn lƣu động giảm đi, tốc độ
luân chuyển vốn lƣu động tăng lên và ngƣợc lại.
- Lạm phát: Nền kinh tế có lạm phát sẽ làm cho sức mua của đồng tiền giảm
sút. Nếu doanh nghiệp không có những biện pháp quản lý kịp thời thì vốn lƣu
động rất dễ bị hao hụt dần theo sự trƣợt giá của tiền tệ.
Các nhân tố phi lượng hoá có thể là:
- Sự thay đổi trong chính sách vĩ mô của Nhà nƣớc: bao gồm những sự thay
đổi trong hệ thống pháp luật, hệ thống thuế.
- Trình độ quản lý và sử dụng vốn lƣu động: khả năng này có thể đƣợc thể
hiện trên nhiều phƣơng diện khác nhau.
1. Việc xác định nhu cầu vốn lƣu động: Việc xác định nhu cầu vốn lƣu động
thiếu chính xác sẽ dẫn tới tình trạng thừa hoặc thiếu vốn lƣu động trong sản xuất
kinh doanh, ảnh hƣởng không tốt đến quá trình sản xuất kinh doanh cũng nhƣ hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
2. Việc lựa chọn phƣơng án đầu tƣ. Đây là một nhân tố cơ bản ảnh hƣởng rất
lớn đến hiệu quả sử dụng vốn lƣu động. Nếu doanh nghiệp đầu tƣ sản xuất những
sản phẩm đáp ứng đƣợc nhu cầu thị trƣờng, giá thành hạ thì quá trình tiêu thụ sẽ
diễn ra dễ dàng, tăng nhanh vòng quay vốn lƣu động và ngƣợc lại.
Trang 19
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN TẠI
CÔNG TY XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH HÀNG KHÔNG
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH HÀNG
KHÔNG
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Công ty
Trong cuộc chiến tranh chống xâm lƣợc, Quân đội nhân dân Việt nam đã
cùng nhân dân làm nên những chiến công lịch sử. Ngày nay, trong thời bình, quân
đội ta còn góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nƣớc.
Xuất phát từ chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc, một số lực lƣợng
trong quân đội đã đƣợc tách ra làm kinh tế.
Năm 1990, Bộ quốc phòng ra quyết định số 269/QĐ-QP ngày 06/11/1990 về
việc thành lập Xí nghiệp khảo sát thiết kế và xây dựng công trình hàng không –
trực thuộc bộ tƣ lệnh Không quân.
Năm 1991, Xí nghiệp khảo sát thiết kế và xây dựng công trình hàng không
đƣợc tách ra làm hai đơn vị là Công ty xây dựng công trình hàng không (ACC)
và Công ty thiết kế tư vấn xây dựng công trình hàng không (ADCC) để thực
hiện các nhiệm vụ chuyên ngành.
Năm 1993, theo Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng bộ
trƣởng (nay là Chính phủ), Công ty xây dựng công trình hàng không (ACC)
đƣợc thành lập theo quyết định số 359/QĐ-QP ngày 27/10/1993 của Bộ trƣởng Bộ
quốc phòng. Công ty có trụ sở đặt tại 178 Đƣờng Trƣờng Chinh- Quận Đống ĐaThành phố Hà Nội.
Năm 1996, Công ty xây dựng công trình hàng không sát nhập với Tổng công
ty bay dịch vụ Việt nam (SFC) với tƣ cách là một đơn vị thành viên hoạt động
độc lập trực thuộc Tổng công ty.
Trang 20
- Xem thêm -