Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận nông nghiệp bến tre tìm năng và hướng phát triển...

Tài liệu Tiểu luận nông nghiệp bến tre tìm năng và hướng phát triển

.PDF
29
42
79

Mô tả:

MỞ ĐẦU Bến Tre là tỉnh thuần nông, từ xưa đến nay người dân chủ yếu sống bằng sản xuất nông nghiệp. Xác định rõ nông nghiệp là thế mạnh, nhất là trong thời điểm hội nhập hiện nay phát triển nông nghiệp được các cấp các ngành quan tâm sâu sắc. Tìm năng, điều kiện phát triển nông nghiệp đã trở thành một đề tài nghiên cứu hấp dẫn, lôi cuốn nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên toàn thế giới. Việc nghiên cứu về điều kiện phát triển nông nghiệp là một công việc hết sức quan trọng tạo tiền đề cho sự phát triển nông nghiệp của địa phương và cả nước. Chính vì thế mà không chỉ các nhà nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam mà các nhà nghiên cứu nông nghiệp quốc tế đều rất quan tâm đến vấn đề này. Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm tất cả các điều kiện liên quan đến sự phát triển nông nghiệp. Bài tiểu luận “Nông nghiệp Bến Tre tìm năng và hướng phát triển” nhằm tìm ra thực trạng về tình hình phát triển nông nghiệp ở Bến Tre hiện nay để tìm hướng phát triển trong thời gian tới, trong đó nhóm nghiên cứu tập trung vào hai ngành trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy hải sản để làm cơ sở cho tiểu luận. Trên cơ sở các tài liệu thu thập được qua sách, báo, nguồn tài liệu chủ yếu mà nhóm nghiên cứu chủ yếu được trích dẫn từ Internet, trong đó có một số hình ảnh tiêu biểu, những đánh giá khách quan ở một số trang web đáng tin cậy, chủ yếu là chuyên trang báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Sở Nông nghiệp tỉnh Bến Tre và một số bài khảo cứu của các tác giả có uy tín. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn tìm hiểu thêm về những tác động, hiệu quả của ngành nông nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có so sánh các chỉ tiêu với các vùng, miền phát triển mạnh về nông nghiệp và các vùng miền chậm phát triển nông nghiệp. Nhóm nghiên cứu còn tìm hiểu thêm về sự quản lý nhà nước đối với nông nghiệp cũng như những định hướng nhằm phát triển ngành nông nghiệp tỉnh nhà trong thời gian tới, qua đó có đề xuất, kiến nghị thêm đối với chính sách quản lý. Xin chân thành cảm ơn! Trang 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH THỨC SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TỈNH BẾN TRE 1.1 Điều kiện tự nhiên 1.1.1 Vị trí địa lý – lịch sử hình thành Vị trí địa lý: Bến Tre là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là 2.360 km2, được hợp thành bởi cù lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ thành (sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên). Bến Tre cách thành phố Hồ Chí Minh 86 km, cách thành phố Cần Thơ 120 km, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía Tây và phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, phía Đông giáp biển Đông. Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Bến Tre (Nguồn: http://www.uc24h.com/ben-tre/,2013) Lịch sử hình thành: Đời vua Minh Mạng, miền Nam Việt Nam chia làm sáu tỉnh Vĩnh Long, Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Đất Bến Tre bây giờ là phủ Hoàng Trị gồm các huyện Tân Ninh, Bảo An, Bảo Hậu và trực thuộc tỉnh Vĩnh Long. Tỉnh Bến Tre vốn là một phần của dinh Hoằng Trấn lập ra năm 1803, năm sau đổi là dinh Vĩnh Trấn. Năm 1808 dinh này lại đổi là trấn Vĩnh Thanh. Tỉnh Trang 2 Bến Tre chính là vùng đất thuộc huyện Tân An (được nâng cấp từ tổng Tân An lên năm 1808), thuộc phủ Định Viễn (cũng được nâng cấp từ châu Định Viễn trong cùng năm), nằm trong trấn Vĩnh Thanh. Năm 1823, huyện Tân An chia thành hai huyện Tân An và Bảo An, đặt dưới phủ Hoằng An (Bến Tre ngày nay). Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ trấn lập tỉnh, trấn Vĩnh Thanh chia thành hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long. Tỉnh Vĩnh Long lúc bấy giờ gồm 3 phủ Hoằng An (Bến Tre ngày nay), Định Viễn (Vĩnh Long ngày nay) và Lạc Hóa (Trà Vinh ngày nay). Năm 1837, đặt thêm phủ Hoằng Trị, rồi đến năm 1851, bỏ phủ Hoằng An, các huyện trực thuộc nhập cả vào phủ Hoằng Trị. Khi người Pháp đến xâm chiếm Bến Tre, có nhiều cuộc kháng cự của nhân dân địa phương. Năm 1862, Phan Ngọc Tòng (người làng An Bình Đông, quận Ba Tri) bỏ nghề dạy học, chiêu tập người yêu nước vùng lên đánh Pháp. Ông tử trận vào đêm ngày 6 rạng ngày 7 tháng Giêng (30 tháng 1 năm 1868). Cuối năm 1867, quân Pháp đem binh chiếm ba tỉnh miền Tây là Hà Tiên, An Giang và Vĩnh Long. Phan Thanh Giản (người làng Bảo Thạnh, quận Ba Tri )giữ ba thành không nổi. Do không làm tròn mệnh vua, ông dặn dò con cháu không được làm tay sai cho Pháp, rồi uống thuốc độc tự vận. Từ năm 1867 đến 1870, các cuộc khởi nghĩa do các con của Phan Thanh Giản là Phan Liêm, Phan Tôn và Phan Ngữ vẫn diễn ra không chỉ ở Bến Tre mà còn ở Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh, được nhiều người dân hưởng ứng. Pháp sai Tôn Thọ Tường và Tổng đốc Phương nhiều lần chiêu hàng không được. Năm 1870, trong một cuộc giao chiến ở Giồng Gạch, Phan Tôn và Phan Ngữ tử trận. Phan Liêm phải lui ra miền bắc. Sau khi Pháp chiếm xong Nam Kỳ, sáu tỉnh lớn được chia thành 20 tỉnh (về sau đặt thêm tỉnh thứ 21 là Vũng Tàu). Một phần đất của Vĩnh Long được tách ra để lập tỉnh Bến Tre. Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif) thì Bến Tre là hạt tham biện thuộc khu vực hành chính Vĩnh Long. Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Bến Tre trở thành tỉnh Bến Tre. Từ đó, bỏ cấp huyện mà chia thành quận. Tỉnh có 4 quận: Ba Tri, Sốc Sãi, Mỏ Cày, Thạnh Phú, với 21 tổng và 144 xã. Diện tích của tỉnh là 1501 km². Dân số năm 1910: 223.405 người, năm 1930: 286.000 người, năm 1943: 346.500 người, năm 1955: 339.000 người. Thời Việt Nam Cộng Hòa, từ ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Bến Tre đổi tên thành tỉnh Kiến Hòa và gồm 9 quận: Ba Tri, Bình Đại, Đôn Nhơn, Giồng Trôm, Mỏ Trang 3 Cày, Thạnh Phú, Hàm Long, Hương Mỹ, Trúc Giang, với 115 xã, 793 ấp (năm 1965), năm 1970 có 119 xã. Tỉnh lị gọi là Trúc Giang. Diện tích của tỉnh là 2085 km². Dân số năm 1965 là 547.819 người, năm 1970 là 582.900 người. Từ năm 1975 tỉnh Bến Tre lấy lại tên cũ và chia thành các huyện. Bến Tre cũng là quê hương của Đạo Dừa. Trong thời Chiến tranh Việt Nam, Bến Tre được coi là quê hương "Đồng Khởi", mở đầu cho cao trào đấu tranh vũ trang của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam chống chế độ Ngô Đình Diệm, khốc liệt nhất là trong năm 1960. Hình 1.2 Biểu tượng Đồng Khởi Bến Tre (Nguồn:http://baobaclieu.vn/newsdetails/2ECC9C0500/Ky_su_dong_bang_Goi_lo ng_theo_khoi_huong_bay.aspx,2013) 1.1.2 Khí hậu: tỉnh Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 đến 2.300 mm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 260C – 270C. Với vị trí nằm tiếp giáp biển Đông, nhưng Bến Tre ít chịu ảnh hưởng của bão lũ, khí hậu ôn hòa, mát mẻ quanh năm… Đây là điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư, sản xuất, kinh doanh và du lịch của tỉnh Bến Tre là tỉnh được hợp thành bởi 3 dãy cù lao, gồm cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hoá; địa hình bằng phẳng, được phù sa bồi đắp quanh năm, đất đai màu mỡ, thuận lợi cho việc hình thành các khu vực sản xuất nông nghiệp, thủy sản tập trung theo hướng hàng hoá, với thế mạnh chủ yếu là kinh tế vườn và kinh tế biển. Trong đó, đặc biệt với nhiều loại trái cây đặc sản như chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, xoài, bưởi...(Nguyễn Văn Hiếu,2011) Trang 4 1.2 Tình hình sản xuất nông nghiệp tỉnh Bến Tre Năm 2013, diện tích gieo sạ lúa đạt 72.237 ha, đạt 99,1% kế hoạch, giảm 4,8% so cùng kỳ, sản lượng ước 335.382 tấn, đạt 104,1% kế hoạch, giảm 10,6% so cùng kỳ, diện tích và sản lượng giảm so kế hoạch và năm 2012 do người dân tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng và thời tiết không thuận lợi, xâm nhập mặn trong vụ Đông Xuân. Bên cạnh đó, mô hình “cánh đồng mẫu” tiếp tục được triển khai thực hiện và nhân rộng ở một số địa phương thuộc các huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại bước đầu đạt kết quả khá, người dân tích cực tham gia, tổng diện tích đạt 605 ha, năng suất bình quân khoảng 55 tạ/ha. Năm nay, rau, đậu các loại tăng cả về diện tích lẫn sản lượng so năm 2012 và mang lại hiệu quả kinh tế cao nên người dân tích cực tham gia đưa cây màu xuống ruộng với hình thức chuyên canh hoặc luân canh lúa màu. Diện tích dừa toàn tỉnh 61.252ha, đạt 101,2% kế hoạch tăng 4,8% so cùng kỳ, sản lượng đạt 480,2 triệu trái, đạt 103% kế hoạch, tăng 2,1% so cùng kỳ. Diện tích và sản lượng dừa tăng so kế hoạch và năm 2012 là do nông dân chuyển đổi từ diện tích lúa, mía năng suất thấp và một số diện tích cây có múi, cây nhãn bị ảnh hưởng dịch bệnh sang trồng dừa; ngoài ra, do giá dừa tăng đã cải thiện thu nhập cho người trồng dừa, cùng với chính sách hỗ trợ phân bón cho người trồng dừa nên nông dân đã quan tâm hơn trong việc chăm sóc vườn dừa; bên cạnh đó, tình hình bọ cánh cứng hại dừa đã giảm rõ rệt, nhưng bọ vòi voi, sâu đục trái dừa đang là dịch hại mới. Mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm dừa tại xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm bước đầu có hiệu quả được người dân đồng tình ủng hộ và địa phương đang nhân rộng trên địa bàn toàn xã; hiện nay tổng diện tích được nhân rộng đạt 1.195 ha, với 29 tổ liên kết sản xuất và có 1.755 hộ dân tham gia. Diện tích mía tiếp tục giảm do người dân chuyển sang trồng dừa và các loại cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn; để đảm bảo nguồn nguyên liệu sản xuất đường, Công ty CP mía đường Bến Tre đã hỗ trợ nông dân xây dựng vùng nguyên liệu 430 ha ở Bình Đại và Thạnh Phú để đầu tư giống mới có năng suất, chữ đường cao và bao tiêu sản phẩm để người dân an tâm sản xuất. Diện tích mía trong năm ước đạt 4.468ha, bằng 88,8% so cùng kỳ Diện tích cacao trồng xen trong vườn dừa giảm do giá bán thấp và ảnh hưởng của nước mặn xâm nhập, ước còn khoảng 6.000ha, trong đó khoảng 4.000 ha đang cho trái; sản lượng thu hoạch giảm so năm 2012. Mặc dù có biến động về diện tích và giá cả nhưng cây ca cao trồng xen trong vườn dừa vẫn là mô hình có tính bền vững góp phần gia tăng thu nhập cho người trồng dừa. Đến nay, có 79 CLB sản xuất cacao chứng nhận UTZ, 1.800 hộ tham gia với khoảng 1.000 ha. Cây ăn trái phát triển thuận lợi, diện tích và sản lượng tăng nhẹ so với năm trước. Toàn tỉnh hiện có 28.917ha diện tích cây ăn quả, tăng 1,7% so cùng kỳ, sản lượng đạt 303.387 tấn, tăng 2% so cùng kỳ. Giá bán sản phẩm cũng tăng nên người dân có thu nhập khá; diện tích các loại cây đặc sản có năng suất và chất lượng cao như: bưởi da xanh, chôm chôm, sầu riêng được mở rộng; cây ăn trái sản xuất theo tiêu chuẩn GAP được tiếp tục nhân rộng; đến nay toàn tỉnh có 9 mô hình sản xuất được cấp giấy chứng nhận GAP và đang tiếp tục hỗ trợ chứng nhận cho 4 tổ liên kết sản xuất bưởi da xanh, chôm chôm, sầu riêng tại huyện Chợ Lách và Châu Thành. Chăn nuôi heo với quy mô trang trại, gia trại có tăng nhưng chưa nhiều, trong 6 tháng đầu năm tổng đàn heo bị sụt giảm do giá giảm, hiện nay giá đã tăng trở lại nên khả năng tổng đàn sẽ phát triển hơn; đàn gia cầm phát triển khá; chăn nuôi bò phát triển thuận lợi, giá đầu ra cao, ổn định nên nông dân mạnh dạn đầu tư nâng chất Trang 5 đàn bò. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, kiểm soát giết mổ, vận chuyển, kinh doanh sản phẩm động vật và thuốc thú y được tăng cường; công tác tiêm phòng và vệ sinh tiêu độc, khử trùng trong chăn nuôi được thực hiện tốt nên không xảy ra các dịch bệnh nguy hiểm; đến nay có 02 trang trại và khoảng 50 hộ nuôi ứng dụng mô hình nuôi heo trên đệm lót sinh học, đây là mô hình chăn nuôi giúp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, mở ra hướng phát triển chăn nuôi bền vững. Hiện trên địa bàn tỉnh có khoảng 152.000 con bò, tương đương so cùng kỳ; 425.611 con heo, giảm 1,2%; 6,2 triệu con gia cầm, tăng 4,8% so cùng kỳ. Hình 1.3: Trang trại chăn nuôi heo (Nguồn: http://tuoitre.vn/kinh-te/488446/thi-diem-mo-hinh-chan-nuoi-heosach.html,2013) Tình hình nuôi và khai thác thuỷ sản trên địa bàn tỉnh trong những tháng đầu năm gặp khó khăn, do xảy ra dịch bệnh đốm trắng, bệnh hoại tử gan tụy cấp tính trên tôm biển nuôi, đã gây thiệt hại khoảng 1.342 ha, chiếm 17,7% diện tích thả nuôi. Tuy nhiên trong quí 3/2013 tình hình dịch bệnh trên tôm đã giảm đáng kể, nên diện tích nuôi thủy sản các loại đạt 43.861 ha, tăng 1,9% so cùng kỳ; sản lượng nuôi thủy sản ước 194.764 tấn, tăng 1,7% so cùng kỳ. Diện tích nuôi tôm biển ước đạt 32.068 ha, trong đó tôm nuôi thâm canh, bán thâm canh 5.480 ha, giảm 3,9% so cùng kỳ. Đến nay, diện tích nuôi tôm biển đã thu hoạch ước khoảng 31.675 ha, trong đó diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng ước 4.264 ha tăng 67,74% tăng 1.722 ha so cùng kỳ; diện tích nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh 1.102 ha, giảm 21,1% so cùng kỳ do người dân có xu hướng chuyển từ nuôi tôm sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng, vì có thời gian nuôi ngắn ngày, năng suất cao. Diện tích nuôi cá tra thâm canh ước 665 ha, giảm 2,9% so cùng kỳ, sản lượng thu hoạch ước 129.853tấn, giảm 4,3% so cùng kỳ. Nguyên nhân là do người nuôi thiếu vốn đầu tư, chi phí đầu vào tăng cao, giá bán cá tra thương phẩm không ổn định luôn ở mức thấp dao động từ 21.000 đến 22.000 đồng/kg. Nhìn chung cá nuôi phát triển tốt, nhưng giá cá nguyên liệu vẫn ở mức thấp, đa số người nuôi bị lỗ, nên tiến độ thả giống chậm. Tình hình dịch bệnh vẫn còn xuất hiện rải rác, một số bệnh xảy ra như: gan thận có mủ, xuất huyết, trắng mang tập trung ở cá có trọng lượng dưới 200 gram/con. Hiện tại, trên địa ab2n tỉnh có 08 công ty nuôi cá tra thương phẩm được chứng nhận GlobalGAP, 02 khu nuôi đạt chứng nhận ASC và 01 khu nuôi đạt chứng nhập VietGAP. Nuôi cá rô đồng, cá điêu hồng, cá sặc rằn, cá rô phi,...tiếp tục được người dân đầu tư phát triển, do giá bán tương đối ổn định Trang 6 Diện tích nuôi nhuyễn thể ước 4.695 ha, sản lượng thu hoạch ước 9.380 tấn, giảm 10,7% so cùng kỳ; đã xảy ra nghêu chết cục bộ khoảng 290 ha, đến nay, tình hình nuôi đã ổn định trở lại; các HTX đã thực hiện san thưa và theo dõi các chỉ số môi trường nhằm phát hiện các biến động bất lợi để có giải pháp xử lý kịp thời. Hoạt động khai thác thuỷ sản không thuận lợi, số phương tiện tạm ngừng hoạt động tăng do thua lỗ kéo dài, nhất là nghề cào đơn ở Ba Tri. Tuy nhiên, lượng tàu có công suất lớn đang có sự chuyển biến theo hướng phát triển, giảm tàu công suất nhỏ. Hiện toàn tỉnh có 3.717tàu hoạt động khai thác thủy sản, công suất bình quân 206 CV/chiếc, trong đó 1.759 tàu khai thác xa bờ, công suất bình quân 377 CV/chiếc; sản lượng khai thác ước đạt 106.147 tấn, so cùng kỳ giảm 2,5%. Hiện đã xây dựng được 103 tổ đội khai thác trên biển với 831 tàu tham gia.Hoạt động của các cảng cá ổn định, lượng hàng qua cảng trong 9 tháng đầu năm ước 23.374 tấn. Hình 1.4: Đánh bắt thủy hải sản (Nguồn: http://vccinews.vn/?page=detail&folder=121&Id=4907,2013) 1.3 Tiềm năng phát triển sản xuất nông nghiệp 1.3.1 Về tài nguyên thiên nhiên: - Tài nguyên đất: Bến Tre là tỉnh có nguồn tài nguyên đất phong phú, với nhiều loại đất như: đất cát, đất phù sa, đất phèn, đất mặn. Sản xuất nông nghiệp của tỉnh ngày càng mở rộng, nhu cầu thâm canh, tăng vụ ngày càng được chú trọng. Hơn 20 năm qua, bằng những nổ lực của mình, nhân dân Bến Tre cũng như cả vùng đồng bằng Nam Bộ đã tiến hành nhiều công trình tháu chua rửa mặn, cải tạo đất đai nhằm khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này có hiệu quả hơn. - Tài nguyên nước: tỉnh Bến Tre có 4 con sông lớn chảy qua là: Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên. Những con sông này giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân trong tỉnh như: cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và nông nghiệp, góp phần làm tươi đẹp cảnh quan, điều hòa khí hậu. Hệ thống sông, rạch trong tỉnh còn là điều kiện thuận lợi cho Bến Tre phát triển mạng lưới giao thông đường thủy và thủy lợi. 1.3.2 Về tài nguyên động vật, thực vật: Nằm ở giữa môi trường sông và biển, chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa nhiệt đới nên cảnh quan tự nhiên của Bến Tre mang đặc trưng của miền địa lý động vật, thực Trang 7 vật miền Tây Nam Bộ. Những con sông lớn và vùng biển Đông ở Bến Tre có nhiều loại thủy sản như: cá vược, cá dứa, cá bạc má, cá thiều, cá mối, cá cơm, nghêu, cua biển và tôm,…đây là nguồn nguyên liệu vô cùng phong phú cho ngành công nghiệp chế biến thủy sản của tỉnh phát triển. Là tỉnh có 3 huyện giáp biển: Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú, rừng phòng hộ ở các huyện đang được bảo vệ nhằm ổn định vành đai rừng phòng hộ ven biển, thông qua việc trồng mới và quản lý lâm sản xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh. Năm 2010, Bến Tre đã trồng mới 72 ha rừng, chăm sóc 336 ha và bảo vệ 3.461 ha. Hình 1.5: Sầu riêng Bến Tre (Nguồn: http://dacsanonline.blogspot.com/2013/01/cho-lach-ben-tre-iem-dulich-he-thu-vi.html,2013) Bến Tre có nhiều loại cây ăn trái như cam, quít, sầu riêng, chuối, chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, xoài cát, bòn bon, khóm, vú sữa,bưởi da xanh, ... trồng nhiều ở huyện chợ lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày và Châu Thành. Ngoài ra huyện chợ lách còn là nơi trồng các loại hoa kiểng, Bonsai nổi tiếng Trong thời gian gần đây cây táo hồng đang được phát triển rất mạnh tại một số huyện như Mỏ Cày, Chợ Lách,... Thời gian đầu, loại cây này mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho các nhà vườn. Tuy nhiên trong thời gian một năm nay thì thị trường tiêu thụ bắt đầu gặp khó khăn. Nguyên nhân chính là do thị trường tiêu thụ chính (chủ yếu tiêu thụ quả tươi) đã bão hòa nhưng không tìm được hướng thị trường mới và chứa chế biến để có thể bảo quản lâu dài. Nằm bên bờ sông Tiền thuộc xã Tiên Thuỷ, huyện Châu Thành, là quê hương của Trương Vĩnh Ký. Có thể nói đây là cái nôi cây ăn trái vùng Nam Bộ. Trang 8 Ðến đây mùa nào cũng có các loại trái cây để ăn. Làng nghề Cái Mơn hàng năm còn cung ứng cho thị trường nhiều triệu cây giống các lọai như sầu riêng, măng cụt, xoài cát, nhãn tiêu, bòn bon và các loại cây có múi. Cái Mơn cũng là nơi có nhiều nghệ nhân, nhân giống triết cành tạo nên các loại cây cảnh và hình bó nai hình con hươu, nai, rồng, phượng... rất đẹp mắt. Sản phẩm được bán nhiều ở Thủ Ðức, Biên Hòa ...và xuất sang các nước khu vực Đông Nam Á. Hình 1.6: Tạo hình hoa kiểng ở làng nghề Cái Mơn (Nguồn: http://epress.motthegioi.vn/mien-tay-ron-rang-hoa-kiengtet/20140113081318976p137c148.htm,2013) 1.3.3 Về kinh tế, cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội: - Kinh tế: + Bến Tre là tỉnh có nhiều lợi thế về nguồn lợi thủy sản, với 65 km chiều dài bờ biển nên thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, tạo ra nguồn tài nguyên biển phong phú với các loại tôm, cua, cá, mực, nhuyễn thể…Đây còn là vùng đất phù sa trù phú, sản sinh ra vựa lúa lớn của đồng bằng sông Cửu Long và nhiều loại nông sản mang lại hiệu quả kinh tế cao.Ngoài kẹo dừa, Bến Tre có các sản phẩm nổi tiếng như bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc. Làng nghề Cái Mơn, huyện Chợ Lách, hàng năm cung ứng cho thị trường hàng triệu giống cây ăn quả và cây cảnh nổi tiếng khắp nơi. Nơi đây cũng có nghề rang trầu và làm "cau tầm vung" (cau để chín khô trên cây, không xắt ra) rất nổi tiếng. + Những vườn hoa kiểng, cây trái nổi tiếng ở vùng Cái Mơn- Chợ Lách hàng năm cung ứng cho thị trường nhiều loại trái cây và hàng triệu giống cây trồng, cây cảnh nổi tiếng. Đặc biệt, Bến Tre- xứ sở dừa Việt Nam, nơi có diện tích trồng dừa lớn nhất cả nước khoảng 51.560 ha. Cây dừa đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế của tỉnh, có thể nói là cây xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động, giúp nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, đồng thời góp một phần đáng kể vào ngân sách địa phương. Trang 9 - Đường bộ: hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh có vị trí đặc biệt trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Bến Tre nối liền thành phố Hồ Chí Minh (qua Tiền Giang, Long An) dài 86 km. Quốc lộ 60 nối liền các tỉnh miền Tây đang được đầu tư nâng cấp, cầu Rạch Miễu đã khánh thành và đưa vào sử dụng, rút ngắn đáng kể thời gian đến Bến Tre bằng đường bộ. Cầu Hàm Luông hoàn thành nối liền cù lao Bảo và cù lao Minh, cầu Cổ Chiên nối Bến Tre với Trà Vinh đang được xây dựng khi hoàn thành sẽ là động lực phát triển kinh tế của địa phương, gắn kết kinh tế của tỉnh với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, để tiềm năng kinh tế- văn hóa- xã hội của Bến Tre được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ. - Đường thủy: Bến Tre là tỉnh có hệ thống sông ngòi khá phát triển, với 4 con sông lớn chảy qua. Các con sông có một vị trí quan trọng trong hệ thống giao thông đường thủy không chỉ của tỉnh mà còn của cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, mạng lưới kênh rạch chằng chịt nối liền nhau đã tạo thành một mạng lưới giao thông và thủy lợi rất thuận tiện. - Bưu chính viễn thông: thời gian qua, Bưu chính viễn thông Bến Tre đã xây dựng cơ sở hạ tầng, lắp đặt thêm nhiều trạm BTS 2G và 3G; đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng nhiều dự án hiện đại về công nghệ, mở rộng về dung lượng đảm bảo phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm tới, Bưu chính viễn thông Bến Tre sẽ tiếp tục có những sách lược, hướng đi phù hợp để phát triển sản xuất, kinh doanh bền vững, phát triển nguồn nhân lực, tập trung xây dựng lực lượng cán bộ khoa học có trình độ và năng lực quản lý, quyết giữ vững vai trò chủ lực trong lĩnh vực bưu chính viễn thông trên địa bàn tỉnh… - Cấp thoát nước: Hệ thống xử lý và cấp nước tập trung đủ cho nhu cầu sinh hoạt của người dân thành phố và trung tâm các huyện. Hiện tại, Công ty cấp thoát nước Bến Tre có hai nhà máy ở xã Sơn Đông (thành phố Bến Tre) và xã Hữu Định (huyện Châu Thành), công suất 32.000 m3/ngày đêm và nhà máy cấp nước Chợ Lách, công suất 1.000 m3/ngày đêm. Với công suất này, hàng năm Công ty cung cấp trên 7 triệu m3 nước cho những hộ dân vùng đô thị và lân cận. - Điện lực: những năm gần đây, ngành điện đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng nhiều công trình trọng điểm như: trạm 220 kV Bến Tre – 2 x 125 MVA đường dây 220 kV Mỹ Tho – Bến Tre, đường dây 110 kV Mỏ Cày – Chợ Lách, đường dây 110 kV Vĩnh Long – Chợ Lách, trạm 110 kV Chợ Lách và dự kiến công trình trạm 110 kV Bình Đại, trạm 110 kV Thạnh Phú, đường dây 110 kV Giồng Trôm – Bình Đại, Mỏ Cày – Thạnh Phú đưa vào vận hành trong các năm 2012 và 2013. Hình 1.7: Bưu điện Bến Tre (Nguồn:http://vccinews.vn/?page=DetailProvinces&folder=0&Id=57&NewsID=55 6,2013) Trang 10 CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TỪ NGÀNH NÔNG NGHIỆP TỈNH BẾN TRE. 2.1 Tình hình sản xuất nông nghiệp Nguồn tài nguyên chủ yếu và quan trọng của tỉnh là tài nguyên đất nông nghiệp. Năm 2010, diện tích đất nông nghiệp của tỉnh là 179.672ha, chiếm 76,11% diện tích đất tự nhiên, trong đó diên tích trồng cây ăn trái là 32.023ha, sản lượng là 318.469 tấn, diện tích trồng mía là 5.865ha, sản lượng đạt 460.056 tấn, diện tích trồng cây dừa là 51.560 ha, sản lượng đạt 420 triệu trái/năm và lớn nhất nước. Từ dừa có thể làm ra nhiều sản phẩm hết sức đa dạng và phong phú, được thị trường trong nước và quốc tế ưa chuộng. Bến Tre có thế mạnh về kinh tế thủy sản, với 65km chiều dài bờ biển và diện tích các huyện ven biển nên thuận lợi cho đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản, tạo ra nguồn tài nguyên biển phong phú với các loại tôm, cua, cá, mực, nhuyễn thể hai mảnh vỏ tự nhiên. Ngoài ra, Bến Tre còn nổi tiếng với các làng nghề sản xuất cây giống, hoa kiểng, với nhiều chủng loại cây cảnh, hoa kiểng đặc sắc, hàng năm tung ra thị trường trên 3 triệu sản phẩm hoa kiểng các loại. Hình 2.1 Cây giống, hoa kiểng, trái cây Cái Mơn, Chợ Lách (Nguồn: phathuytiemnangthemanhtinhbentredephattrienkinhte,2011) Trang 11 Năm 2013, diện tích gieo sạ lúa đạt 72.237 ha, đạt 99,1% kế hoạch, giảm 4,8% so cùng kỳ, sản lượng ước 335.382 tấn, đạt 104,1% kế hoạch, giảm 10,6% so cùng kỳ, diện tích và sản lượng giảm so kế hoạch và năm 2012 do người dân tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng và thời tiết không thuận lợi, xâm nhập mặn trong vụ Đông Xuân. Bên cạnh đó, mô hình “cánh đồng mẫu” tiếp tục được triển khai thực hiện và nhân rộng ở một số địa phương thuộc các huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại bước đầu đạt kết quả khá, người dân tích cực tham gia, tổng diện tích đạt 605 ha, năng suất bình quân khoảng 55 tạ/ha. Năm nay, rau, đậu các loại tăng cả về diện tích lẫn sản lượng so năm 2012 và mang lại hiệu quả kinh tế cao nên người dân tích cực tham gia đưa cây màu xuống ruộng với hình thức chuyên canh hoặc luân canh lúa màu. Hình 2.2: Cánh đồng dừa mẫu Bến Tre (Nguồn: http://phanbonhiepthanh.vn/canh-dong-mau-dua-o-ben-tre/,2013) Nhắc đến làng nghề sản xuất cây giống, hoa kiểng ở Bến Tre là người ta lại nghĩ ngay đến HTX sản xuất cây giống, hoa kiểng Cái Mơn, huyện Chợ Lách. HTX được thành lập vào năm 1996, lúc đó chỉ có 53 xã viên nhưng đến nay đã tăng gần 200 xã viên. Các sản phẩm cây giống, hoa kiểng của HTX trước đây chỉ bán cho thị trường trong tỉnh và khu vực đồng bằng sông Cửu Long thì nay đã bán khắp các tỉnh miền Đông Nam bộ, miền Trung và cả miền Bắc. Bến Tre được xem là đảo quốc của xứ dừa và cây dừa cũng là cây công nghiệp chủ yếu của tỉnh, cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến trong tỉnh. Đến nay, diện tích dừa trên toàn tỉnh khoảng 51.814ha, hàng năm cung cấp trên 400 triệu trái dừa và trong thời gian tới, tỉnh sẽ quan tâm phát triển vườn dừa theo hướng chuyên canh, lai tạo giống mới cho năng suất, sản lượng cao. Trang 12 Năm 2010, sản lượng dừa trái của Bến Tre không đủ cung cấp theo nhu cầu của thị trường, giá dừa trái tăng cao kỷ lục, gần 100.000 đồng/chục nên người trồng dừa thu được lợi nhuận cao, góp phần cải thiện cuộc sống của người dân Bến Tre. Trước nhu cầu của thị trường ngày càng cao, lãnh đạo tỉnh yêu cầu ngành chức năng hướng dẫn người dân tích cực chăm sóc vườn dừa hiện hữu, ứng dụng tiến bộ khoa học trong canh tác, kích thích dừa cho trái và mở rộng diện tích trồng dừa trên địa bàn, nhằm cung cấp đủ nguyên liệu cho nhu cầu sản xuất trong tỉnh và xuất khẩu, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng cao trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Bến Tre cũng sở hữu đường bờ biển dài trên 65km, là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển đa dạng, bao gồm cả nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản, xây dựng cảng biển, phát triển du lịch, dịch vụ vận tải biển,… Hình 2.3: Dừa – cây công nghiệp chủ lực của Bến Tre. (Nguồn: http://dlbentre.blogspot.com/2011/09/huong-vi-que-dua.html,2013) Trang 13 Tuy nhiên, trong những năm qua, tiềm năng về biển chưa được khai thác đúng mức, chưa phát huy được những thế mạnh vốn có của tỉnh. Trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn tới, tỉnh sẽ tập trung đầu tư, phát triển mạnh hai mũi nhọn của nền kinh tế là kinh tế vườn và kinh tế biển gắn với phát triển mạnh công nghiệp chế biến, xem đây là thế mạnh tạo bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế tỉnh nhà. Ngoài ra, Bến Tre cũng có tiềm năng lớn về nguồn lao động, với hơn 57% dân số trong độ tuổi lao động, sức lao động trẻ, có tính cần cù, sáng tạo và chăm chỉ làm việc. Đây cũng được xem là lợi thế khá mạnh đẩy nhanh phát triển kinh tế và đi lên công nghiệp hoá tỉnh nhà. Để phát huy thế mạnh của tỉnh đã nêu, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 đến 10 năm tới, Tỉnh ủy, UBND tỉnh sẽ tập trung chỉ đạo triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp, mục tiêu nhằm khai thác triệt để và có hiệu quả các tiềm năng. Đó là huy động mọi nguồn lực để đẩy mạnh phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, thâm dụng lao động. Đồng thời, từng bước xây dựng thương hiệu các sản phẩm chủ lực của tỉnh, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Lĩnh vực nông nghiệp sẽ được quan tâm phát triển theo hướng toàn diện, chất lượng cao và hiệu quả, thông qua các giải pháp từng bước hình thành rõ nét các vùng sản xuất nông nghiệp chuyên canh, tập trung và ứng dụng kỹ thuật cao, chuyên sản xuất các mặt hàng nông nghiệp đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế để xuất khẩu. Nuôi thuỷ sản cũng được khuyến khích đầu tư phát triển, tỉnh ưu tiên đầu tư kinh phí cho lĩnh vực tuyển chọn giống và nhân rộng đối tượng nuôi mới, có hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở đảm bảo quy hoạch phát triển bền vững. Hình 2.4 : Khai thác đánh bắt thủy sản. (Nguồn: www.bentre.gov.vn,2011) Trang 14 Tiềm năng biển được khai thác thông qua nghề đánh bắt thuỷ sản xa bờ gắn với xây dựng, mở rộng và vận hành tốt hoạt động cảng cá, tích cực kêu gọi đầu tư cảng biển, cảng sông, phát triển du lịch biển và dịch vụ vận tải biển. Việc tận dụng sức gió kêu gọi đầu tư xây dựng các trạm phong điện, góp phần cung cấp điện năng phục vụ sản xuất và sinh hoạt cũng được xem là định hướng ưu tiên trong quy hoạch phát triển kinh tế. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của tỉnh nhằm tạo lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, tay nghề thành thạo, cung ứng kịp thời cho nhu cầu lao động của tỉnh khi nền công nghiệp tỉnh phát triển mạnh trong những năm tới. Đồng thời, tỉnh sẽ chỉ đạo đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong khu vực công, tạo môi trường thông thoáng, tiếp tục hoàn thiện việc xây dựng và ban hành những cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương, đây cũng là giải pháp ưu tiên triển khai mạnh trong thời gian tới. Những năm qua, phong trào trồng xen ca cao trong vườn dừa ở tỉnh Bến Tre được rất nhiều nông dân hưởng ứng, đã góp phần tăng thu nhập cho người dân trên cùng diện tích đất. Tuy nhiên, đối với những vùng đất nhiễm phèn, mặn, nông dân còn ngán ngại, không dám đầu tư trồng cacao vì sợ cây không phát triển. Mô hình trồng cacao xen trong vườn dừa ở vùng nước lợ đạt hiệu quả kinh tế cao của ông Phan Văn Xê ở ấp Xương Thạnh A, xã Thới Thạnh, huyện Thạnh Phú cho thấy cây cacao vẫn phát triển tốt ở vùng bị ảnh hưởng nước mặn nếu nông dân có cách đầu tư chăm sóc phù hợp. Ông Phan Văn Xê (thường gọi là Tám Xê) được xem là người đầu tiên đem cây cacao về trồng thành công ở vùng đất nhiễm phèn, mặn huyện Thạnh Phú cách đây 9 năm. (CaoDương,2012) Hình 2.5 : Ca cao đúng kỹ thuật cho trĩu quả (Nguồn: http://snnptnt.daknong.gov.vn/pages/hoat-dong-anh.aspx,2013) Trang 15 Hình 2.6: Ông Phan văn Xê trồng xen cacao trên vùng nước lợ đạt năng suất cao. (Nguồn: www.bentre.gov.vn,2011) Năm 2003, thông qua các phương tiện truyền thông, ông Tám Xê biết được cây cacao trồng phát triển phù hợp ở độ mặn từ 8‰ trở xuống. Vậy là ông tìm đến cơ sở bán giống cacao ở xã An Hiệp, huyện Châu Thành mua 100 cây cacao giống về trồng thử nghiệm trong vườn dừa, cây cacao phát triển rất tốt. Sau đó, ông tiếp tục đầu tư trồng xen cacao vào 1 hecta dừa của gia đình. 3 năm sau, số cacao trồng đầu tiên của ông Tám Xê có trái, năng suất so sánh không thua gì cây cacao được trồng xen ở các nơi nước ngọt, canh tác thuận lợi. Không dừng lại ở diện tích trên, sau khi được dự các buổi tập huấn kỹ thuật trồng cacao xen trong vườn dừa, năm 2007, ông Tám Xê lên bờ 5 công đất lúa chuyển sang đầu tư trồng dừa kết hợp xen cây cacao một cách bài bản. Một bên bờ ông trồng dừa, một bên ông trồng ca cao. Hiện nay, số dừa và cacao này đều cho trái và đem về nguồn thu nhập đáng kể cho ông. Cây dừa, mùa thuận ông thu hoạch khoảng 2 thiên trái, mùa nghịch khoảng 1 thiên trái. Năm 2011 ông thu họach trên 6 tấn trái cacao. Nhờ đầu tư sơ chế hạt cacao tạinhà nên ông Tám Xê chủ động trữ hạt cacao bán khi có giá. Năm 2011 ông bán 600 kg hạt cacao giá 63.000 đồng/kg, đạt thu nhập gần 40 triệu đồng. Ông Tám Xê cho biết: “Để cây cacao phát triển tốt trên vùng đất nhiễm phèn, mặn, phải quan tâm chăm sóc cây ngay từ lúc mới trồng và cần áp dụng cách chăm sóc theo hướng dẫn từ tài liệu về kỹ thuật trồng cacao. Đồng thời để cây dừa và cacao đạt Trang 16 năng suất ổn định cũng cần cách chăm sóc, bón phân đều đặn trong năm. Trung bình một cây dừa tôi bón 4kg, cacao bón 2kg phân các loại như urê, lân, kali theo tỷ lệ 2 – 1 – 1 và chia đều các tháng trong năm. Mùa mưa thì tôi rải phân sau khi mưa kết thúc cho phân thấm xuống đất, không bị những đám mưa sau làm trôi phân. Mùa nắng, sau khi rải phân tôi tưới nước nhiều lần để phân tan cây trồng dễ hấp thụ. Ngoài ra, vào mùa nắng, bình quân 10 ngày là tôi tưới phân cho mảnh vườn 1 lần”. Thời gian qua, vườn dừa trồng xen cacao của ông Tám Xê được xem là mô hình điểm để cho nông dân trồng cacao các vùng nhiễm phèn, mặn trong tỉnh Bến Tre đến tham quan, học hỏi kỹ thuật trồng. Là người tiên phong đem cây cacao về trồng hiệu quả góp phần nhân rộng mô hình trồng xen cacao trên địa bàn huyện Thạnh Phú, năm 2009 ông Phan Văn Xê được Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre tặng bằng khen với thành tích thi đua lao động sản xuất, là nông dân tiêu biểu sáng tạo của tỉnh. Năm 2011, tổng kết mô hình sáng tạo nông nghiệp 3 năm 2008 – 2010, ông Tám Xê được Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Bến Tre tặng giấy khen với mô hình “Trồng cacao xen trong vườn dừa vùng nước lợ” đạt hiệu quả kinh tế cao.( Mai Hưng Thịnh,2012) Anh Nguyễn Văn Bảy, một nông dân nhiều kinh nghiệm trồng và xử lý chôm chôm ra hoa trái vụ đang trúng lớn với vườn chôm chôm hơn 10 công đất (10.000m2) của mình. Vườn chôm chôm của anh (ấp Chợ, xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách) đã được công nhận đạt tiêu chuẩn GlobalGAP và đang chín rộ trong thời điểm khoảng 90% diện tích chôm chôm trong huyện đã thu hoạch xong hoặc đang ra hoa, trái mới. Anh cho biết, chôm chôm trong vườn gồm hai loại là chôm chôm Java và chôm chôm nhãn, giá hiện tại của hai loại này lần lượt là 17.000 đồng/kg và 35.000 đồng/kg. Năng suất bình quân vào khoảng 25 tấn/ha. Ước tính, năm nay anh Bảy có thể kiếm khoảng 600 triệu đồng, tức khoảng 60 triệu đồng/công, một mức lợi nhuận đáng mơ ước đối với người trồng chôm chôm của huyện Chợ Lách. Bưởi Da xanh là loại cây trồng dễ ăn nhưng khó tính, không phải chỗ nào cũng đặt xuống trồng được, dù có chăm sóc nhiều vẫn không phải phát triển tốt. Khi trồng nên tránh đất sét nặng, đất nhiễm phèn mặn, đất bạc màu, đất cát rời rạc, đất thấp ngập úng, đất cao “hóc” nước, đất mới lên bờ, đất có cỏ tranh, cỏ song chằn bao phủ. Nhìn chung là đất không thuận lợi thì không nên trồng bưởi Da xanh. Bởi vì trồng bưởi đâu phải ngắn ngày, phải mất năm mười năm, nếu không cho trái theo mong muốn thì nó chỉ đứng đó trông chờ diễn vọng. Trang 17 Hình 2.7: Vườn bưởi có hệ thống tưới, rải mụn dừa giữ ẩm, bao trái. (Nguồn: http://thanhphobentre.bentre.gov.vn/v-2/t-7/n/377,2013) Trồng bưởi chuyên hoặc trồng xen cùng một cây khác thì cũng cần trong ánh nắng 7080%. Mùa nắng phải đậy ủ gốc, giữ ẩm, tưới nước để cây không bị hóc; thiếu nước cây không hấp thu dinh dưỡng tốt, khi nước mặn 0,3% không nên tưới lên gốc. Đất trồng phải cao hơn hoặc bằng mực nước cao nhất hàng năm so vào rằm tháng 10, rằm tháng Chạp âm lịch; đất tơi xốp, không bị phèn. Đất ít cát pha sét, pha thịt; đất bờ dừa lâu năm; đất có Trùn cư trú tức là có cả vi sinh vật tồn tại. Đất có cỏ hôi, cỏ lồng vực, cỏ đuôi chồn, rau trai mọc lấp sấp thì dễ trồng bưởi. Trồng bưởi Da xanh phải chọn giống kỹ: ăn ngọt, giống có tép đỏ hồng, ráo nước nhưng không khô, lột vỏ và tép tróc hoàn toàn, rất ít hạt hoặc không hạt, vỏ mõng, trái tròn; đặc biệt không mua giống trôi nổi, không rõ nguồn gốc, mắt thấy cây bưởi vừa ý để chiết nhánh trồng. Trang 18 Hình 2.8: Làm khô vỏ trái bưởi sau khi rửa bằng dung dịch diệt mầm bệnh tại cơ sở Hương Miền Tây, ấp Phước Trung, xã Phước Mỹ Trung (Mỏ Cày Bắc) (Nguồn: http://www.baodongkhoi.com.vn/?act=detail&id=23479,2013) Muốn vậy, chúng ta lưu ý những điều tránh không chọn cây giống của bưởi Da xanh khi cho trái có tép múi không ngọt, chua lẫn đắng, quá khô nước nhất là ở hai đầu múi bưởi, màu quá đỏ hoặc hơi trắng, vỏ quá dày, hình trái lê, lột tép bưởi khó tróc.. Nguyên nhân, vì giống bưởi Da xanh hiện nay có những dòng chưa được thuần; có trái hình quả lê, trái hình cầu, có cây hai dạng trái, khi bán trái chọn ra phân loại cũng khó; mắt thường không thể phân biệt rõ sự khác nhau giữa dòng nầy với dòng khác. Ngoài ra, trồng từ cây chiết nhánh, cây gốc ghép; kỹ thuật canh tác, chăm sóc, bón phân khác nhau cũng làm cho các đặc tính về năng suất, phẩm chất, hình dáng bị ảnh hưởng. Vì thế thời gian qua trong tỉnh đã có những nghiên cứu để tìm ra dòng vô tính, chọn giống bưởi Da xanh ngon đó là đề tài “Tuyển chọn, xác định dòng vô tính đặc trưng phục vụ xây dựng thương hiệu bưởi da xanh của tỉnh Bến Tre” do Thạc sỹ Võ Hoài Chân, Trung tâm Giống nông nghiệp Bến Tre chủ nhiệm. Đề tài được nghiên cứu độ prix, tỷ lệ nẩy mầm, điện di protein, điện di DNA, đánh giá độ tróc vỏ, tróc tép, bề dày vỏ trái, sự có hạt và không hạt. Kết quả nghiên cứu cho thấy các cây bưởi Da xanh của 5 hộ nhà vườn: ông Phạm Nguyễn Trãi, Anh Trường, ông Hai Hoa, ông Thầy giáo Phúc, Thầy giáo Hiệp thì cây bưởi của ông Hai Hoa (Sơn Định-Chợ Lách), Thầy giáo Phúc (Mỹ Thạnh An-Thị Xã) hạt phấn hoa bưởi không nẩy mầm chiếm tỷ lệ 80-83% nên trái bưởi các vườn này ta thấy luôn luôn ít hạt hoặc không hạt. Vì vậy, cây bưởi Da xanh của ông Hai Hoa và Trang 19 Thầy giáo Phúc đã trên 20 năm tuổi, năng suất cao, chất lượng ngon, gần như không hạt. Do hạt phấn hoa bưởi Da xanh tự bất dung hợp khi thụ phấn sẽ cho ra trái bưởi không hạt hoặc ít hạt với điều kiện không có thụ phấn chéo với các cây cùng họ. Nếu không thì hạt nhiều, không còn tính đặc trưng của bưởi Da xanh. Vì thế bà con nông dân nên bao từng hoa bưởi trước khi thụ phấn, hoặc chỉ trồng chuyên bưởi Da xanh, không trồng xen cam, chanh, quýt, bưởi khác trên một vườn. Mặt khác, nên xới gốc bón phân hữu cơ, vô cơ đan xen 3-4 lần/năm. Khoảng tháng 2-3 dương lịch, bón phân xong, bồi bùn nhưng không bồi lúc nước mặn. Cây trên 3 tuổi nên bón phân hữu cơ vi sinh trộn với phân chuồng 3-4 lần/năm, mỗi lần 5-10 kg, bón riêng mỗi gốc 1 kg vôi để dễ đậu trái và ngọt. Mỗi cây bón từ 0,8-2,0 kg ure, 1,5-3,5 kg lân; 0,6-1,5 kg clorua kali chia 3-4 lần/năm. Vì bưởi mang trái thường xuyên trên cây nên có thể sau thu hoạch rộ bón: 25% đạm, 25% lân; thấy khi trái ít cần thúc ra hoa bón: 25% đạm, 50% lân, 30% clorua kali; khi đậu trái bón 50% đạm, 25% lân, 50% clorua kali; trước thu hoạch bón 20% clorua kali còn lại. Khi nhìn thấy cây bưởi cành nhánh sum suê, lá xanh tốt mượt mà nhưng không trái thì phải giảm lượng đạm, tăng clorua kali để cây ra hoa. Chú ý cây bưởi nhánh trồng nghiên, lúc nhỏ khi mọc tượt non có thể cắt bỏ cành cũ (già), để tượt non mọc lên khoảng 0,5-0,7 m cắt ngọn để thân mọc các chồi mới, sau đó dùng dây nhựa kéo đọt uốn ra “tứ diện”. Cây bưởi sẽ phát triển cho trái đồng đều, cao khoảng 2-2,5 m dễ dàng chăm sóc và thu hoạch. Hiện nay, người trồng bưởi đã phải “đau đầu” vì sâu đục trái, chúng gây thiệt hại lớn cho nhà vườn. Đây là mối nguy khi chúng ta trồng bưởi Da xanh. Trong sắp đến xem như trồng bưởi Da xanh phải “sống chung” cùng sâu đục trái bưởi, phải bao từng trái từ nhỏ là biện pháp hữu hiệu nhất. Phải thường xuyên hái, lượm các trái bị sâu đục cho vào lu chứa nước vôi để diệt sâu. Gần đây, sâu đục trái bưởi có giảm, bà con thấy vậy không bao trái, vô tình chúng ta giúp để sâu đẻ trứng, hóa nhộng và có cơ hội tái xuất trở lại. Tóm lại, phải đầu tư công sức, thường xuyên chăm sóc, xới gốc, bón phân, tỉa cành tạo tán, bao trái mới đạt kết quả cao.(Đỗ Văn Công,2011). Trong chăn nuôi toàn tỉnh Bến Tre có đàn heo trên 400.000 con. Từ việc nuôi heo dạng gia đình (mỗi hộ chỉ vài con), trong những năm gần đây, người chăn nuôi chuyển dần sang nuôi qui mô theo hình thức trang trại. Từ những con heo giống địa phương, nay người chăn nuôi đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học trong chăn nuôi, nhất là khâu lai tạo con giống. Điều đó ngày càng được Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan