Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu thuyết việt nam thập niên đầu thế kỷ xxi từ góc nhìn phân tâm học...

Tài liệu Tiểu thuyết việt nam thập niên đầu thế kỷ xxi từ góc nhìn phân tâm học

.PDF
156
981
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VĂN THỊ PHƯƠNG TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HUẾ, 2016 ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ VĂN THỊ PHƯƠNG TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 62 22 01 21 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hồ Thế Hà HUẾ, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng bảo vệ ở bất kỳ học vị nào. Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận án này đã được ghi rõ nguồn gốc. Huế, ngày 20 tháng 8 năm 2016 Tác giả luận án Văn Thị Phương Trang LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện luận án, tôi đã nhận được sự góp ý, giúp đỡ tận tình của các thầy cô khoa Ngữ Văn, các thầy cô ở phòng đào tạo sau đại học trường Đại học Khoa học Huế, các thầy cô ở phòng đào tạo Đại học Huế. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành về sự giúp đỡ đó. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Hồ Thế Hà - người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận án này. Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp nơi tôi công tác đã động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận án. Tác giả luận án NCS. Văn Thị Phương Trang MỤC LỤC Trang A. MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................2 3. Cơ sở lý thuyết .......................................................................................................2 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................2 5. Đóng góp khoa học của luận án ...........................................................................3 6. Cấu trúc luận án ....................................................................................................4 B. NỘI DUNG ............................................................................................................5 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI .......................................................5 TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC.........................................................................5 1.1. Các khuynh hướng phê bình văn học trên thế giới từ góc nhìn phân tâm học ...............................................................................................................................5 1.1.1. Phê bình phân tâm học tiểu sử ..........................................................................5 1.1.2. Phê bình phân tâm học văn bản ........................................................................7 1.1.3. Phê bình phân tâm học người đọc ....................................................................9 1.2 Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phân tâm học ......12 1.2.1. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 -2000) từ góc nhìn phân tâm học ..............................................................................................13 1.2.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học .....................................................................................................18 1.3. Nhận xét tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phân tâm học và hướng triển khai của luận án .....................................................................23 1.3.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu ........................................................................23 1.3.2. Hướng triển khai của luận án .........................................................................24 CHƯƠNG 2. PHÂN TÂM HỌC VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG PHÂN TÂM HỌC TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI ........26 2. 1. Một số lý thuyết căn nền của phân tâm học .................................................26 2.1.1. Lý thuyết về tâm thần bộ .................................................................................26 2.1.2. Lý thuyết về tính dục và phức cảm ..................................................................35 2.1.3. Lý thuyết cổ mẫu và phân tâm học về lửa. ......................................................40 2.2. Quan niệm của phân tâm học về sáng tạo văn học .......................................46 2.2.1. Sáng tạo văn học từ vai trò của vô thức..........................................................46 2.2.2. Sáng tạo văn học từ vai trò của ham muốn.....................................................50 2.3. Những ảnh hưởng phân tâm học trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI ................................................................................................................53 2.3.1. Những tiền đề cơ bản của việc vận dụng phân tâm học trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI...................................................................................53 2.3.2. Khái quát những ảnh hưởng phân tâm học trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI ...................................................................................................57 CHƯƠNG 3. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT ......................62 VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI .....................................................62 TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC.......................................................................62 3.1. Kiểu nhân vật với đời sống vô thức, tâm linh ................................................62 3.1.1. Nhân vật với sự quẫy đạp của vô thức ............................................................62 3.1.2. Nhân vật với sự ám ảnh tâm linh ....................................................................70 3.2. Kiểu nhân vật với các phức cảm .....................................................................77 3.2.1. Nhân vật với mặc cảm thân phận - mặc cảm hoạn .........................................77 3.2.2. Nhân vật với mặc cảm Oedipe ........................................................................85 3.3. Kiểu nhân vật với đời sống tính dục thường ngày ........................................89 3.3.1. Nhân vật với nỗi khát khao tính dục ...............................................................89 3.3.2. Nhân vật với sự nổi loạn của cô đơn và ẩn ức ................................................95 CHƯƠNG 4. PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN CỦA TIỂU THUYẾT ..............100 VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI ...................................................100 TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC.....................................................................100 4.1. Biểu tượng .......................................................................................................100 4.1.1. Biểu tượng Lửa ..............................................................................................101 4.1.2. Biểu tượng Nước ...........................................................................................108 4.2. Không gian và thời gian nghệ thuật .............................................................115 4.2.1. Không gian và thời gian từ góc nhìn tâm linh, vô thức ...............................116 4.2.2. Không gian và thời gian từ góc nhìn đời thường ..........................................124 4.3. Ngôn ngữ .........................................................................................................128 4.3.1. Ngôn ngữ nhuốm màu sắc dục tính ...............................................................129 4.3.2. Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm ..................................................................133 C. KẾT LUẬN .......................................................................................................140 D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 144 1 A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đã từ lâu, trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam, phân tâm học không còn là một mảng mờ, theo hàm nghĩa chứa đựng những ẩn thức bất khả lí giải trước cái nhìn dè dặt của giới nghiên cứu. Cuộc sống càng mở ra nhiều góc nhìn đa diện, nhiều chiều vào tâm thức con người, thì phân tâm học càng có cơ hội cung cấp cho con người cách kiến giải của cuộc hành trình đi - đến, yêu - ghét, sống - chết trong “cõi nhân gian bé tí” (chữ dùng của Nguyễn Khải) mà cũng rất đỗi bao la này. Như những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người, cả văn học và phân tâm học đều tìm được sự giao nhau ở đối tượng phản ánh. Việc vận dụng lý thuyết phân tâm học soi chiếu vào tác phẩm văn học là cần thiết để góp một hướng nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về con người và cuộc sống. Từ phân tâm học, vấn đề trong tác phẩm văn học được soi chiếu ở góc nhìn rất con người, với những ước mơ thầm kín như dồn nén, phút chốc chợt vỡ ra. Người đọc bắt gặp điều vốn không dám thổ lộ, như một miền ẩn ức và trong khoảnh khắc, họ lại khát khao bộc lộ cả điều không thể. Con người tìm trong văn học một cảm giác thỏa mãn khi trái tim người nghệ sĩ thực sự chạm vào sâu thẳm tâm hồn người đọc. Trong cõi mờ xa xăm ấy, phân tâm học có lúc đã chỉ ra được con đường dẫn con người về với bản ngã trong vô thức và tưởng tượng. Hóa ra, cái giây phút người nghệ sĩ thăng hoa nhất để làm nên tuyệt tác có khi cũng chỉ là những chơi vơi không thể lý giải, là những giấc mơ ban ngày của người sáng tạo trên hành trình đan xé giữa ý thức và vô thức. Hoá ra, thế giới ẩn dụ đầy biểu tượng của tiểu thuyết nói riêng và văn học nói chung lắm lúc lại quy tụ về một điểm đầy náo nức, lặng thinh nào đó ở thẳm sâu tâm hồn. Tiếp cận mảng văn học Việt Nam trong vòng 10 năm gần đây, đặc biệt ở mảng tiểu thuyết, người đọc ngỡ ngàng trước sự nở rộ của nhiều nhà văn tìm tòi và trải nghiệm. Hiện thực cuộc đời đã được tác giả soi chiếu từ góc nhìn riêng, cách thể nghiệm riêng. Bức tranh toàn cảnh của đời sống như động đậy, phập phồng trên trang viết. Đó cũng là lúc con người thực sự sống sâu với đời và rung cảm với chính 2 mình. Ở mảng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI, với hàng loạt vấn đề mới mẻ được đặt ra, việc chọn nhiều toạ độ, nhiều góc nhìn khác nhau để có thể tham chiếu bổ sung cho nhau thật sự là hướng nghiên cứu cần thiết. Mặt khác, không thể phủ nhận rằng, phân tâm học có thế mạnh trong việc mở ra một đối thoại mới ở những miền nội tâm uẩn khúc - đặc biệt khi gắn liền với xung động sáng tạo tinh thần này. Có thể nói, từ tọa độ phân tâm học để quét cái nhìn riêng về mảng tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI - vấn đề không phải là không thú vị. Từ sự yêu thích của bản thân, sự hấp dẫn của tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI khi phóng chiếu phân tâm học vào tác phẩm, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài Tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học, mong được góp một cái nhìn riêng vào việc tiếp cận quá trình vận động và phát triển của văn xuôi đương đại nước ta mà chủ yếu là tiểu thuyết trong xu thế đổi mới và hội nhập với nền văn học nhân loại. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận án: tập trung nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI ẩn chứa yếu tố phân tâm học qua những hiện tượng văn học nổi bật như: tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Thuận, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Bình Phương... - Phạm vi nghiên cứu của luận án được giới hạn ở việc tìm hiểu biểu hiện của phân tâm học qua hai bình diện nội dung tư tưởng và phương thức nghệ thuật; đồng thời làm rõ được ý nghĩa của những phương diện nghệ thuật ấy. 3. Cơ sở lý thuyết - Lý thuyết phân tâm học gồm nhiều vấn đề. Trong luận án này, chúng tôi chủ yếu sử dụng học thuyết của Freud (lý thuyết về tâm thần bộ, thuyết tính dục và mặc cảm), lý thuyết cổ mẫu của Jung, phân tâm học về lửa của Bachelard… Từ đó, soi chiếu vào một số hiện tượng tiêu biểu của tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ hai phương diện nội dung và phương thức nghệ thuật để thấy được những đóng góp và sáng tạo của các nhà tiểu thuyết giai đoạn này. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Với phương pháp nghiên cứu này, nền tảng và điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu là tri thức lý luận gồm các quan 3 điểm, các học thuyết. Ở đây, người viết tiến hành nghiên cứu, hệ thống hóa, vận dụng phân tâm học làm lý thuyết căn nền cho luận án. - Phương pháp phân loại: sử dụng phương pháp này, người viết tiến hành phân loại, khu biệt các biểu hiện đặc thù về các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học. Đồng thời, cũng bằng phương pháp nghiên cứu này, người viết phân loại các kiểu phương thức thể hiện được sử dụng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại từ góc nhìn phân tâm học như các loại biểu tượng, các kiểu không gian - thời gian, các đặc điểm về ngôn ngữ... - Phương pháp cấu trúc, hệ thống: sử dụng phương pháp này, người viết sắp xếp, xây dựng cấu trúc luận án một cách hợp lý, có hệ thống trên cả hai phương diện nội dung và phương thức nghệ thuật. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: trong quá trình triển khai luận án, người viết tiến hành so sánh các tác phẩm của các nhà văn để tìm các nét gặp gỡ tương đồng, lẫn nét riêng của từng cá tính sáng tạo, đồng thời chỉ ra sự vận động của tiểu thuyết từ góc nhìn phân tâm học. Ngoài ra, người viết còn tiến hành sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp bình giảng văn học để làm nổi bật phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. 5. Đóng góp khoa học của luận án Luận án trình bày một cách hệ thống, khoa học về tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học trên hai phương diện nội dung và hình thức. Về nội dung, luận án đi sâu làm nổi bật về vấn đề các kiểu nhân vật qua lăng kính của phân tâm học như kiểu nhân vật với đời sống vô thức, tâm linh; kiểu nhân vật với các phức cảm; kiểu nhân vật với đời sống tính dục hằng ngày. Về phương thức biểu hiện, luận án tìm hiểu các vấn đề về biểu tượng, thời gian - không gian nghệ thuật cũng như ngôn ngữ mang dấu ấn phân tâm học nhằm làm nổi bật giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng của tác phẩm. Từ đó, luận án sẽ mang đến một cái nhìn mới về diện mạo tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI khi soi chiếu từ phân tâm học. 4 6. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của luận án gồm có 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học Chương 2. Phân tâm học và sự ảnh hưởng phân tâm học trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI Chương 3. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học Chương 4. Phương thức biểu hiện của tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học 5 B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TIỂU THUYẾT VIỆT NAM THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC 1.1. Các khuynh hướng phê bình văn học trên thế giới từ góc nhìn phân tâm học Ở phương Tây, nghiên cứu văn học cho đến hôm nay đã trải qua ba hệ hình tư duy: tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện đại. Trước ảnh hưởng của những thành tựu triết học, ngôn ngữ học và phân tâm học, mỗi hệ hình tư duy của khoa học nghiên cứu văn học đều bộc lộ những khả năng và hạn chế nhất định. Mối quan hệ giữa lí thuyết phân tâm học và nghiên cứu văn học đã mở ra những phương pháp nghiên cứu mới, tập trung sự chú ý tới ba yếu tố cơ bản là tác giả, văn bản và người đọc. Elizabeth Wright trong công trình Phê bình phân tâm học hiện đại (1982) đã nói đến ba khuynh hướng phê bình phân tâm học. Đó là phê bình phân tâm học tiểu sử, phê bình phân tâm học văn bản và phê bình phân tâm học người đọc. Trước khi giới thiệu tổng quan tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn phân tâm học và hướng triển khai đề tài nghiên cứu theo phân tâm học, chúng tôi có cái nhìn khái lược về ba khuynh hướng phê bình văn học đó. 1.1.1. Phê bình phân tâm học tiểu sử Chúng ta biết rằng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ hình thành tư duy khoa học tiền hiện đại ở phương Tây. Đây là lúc người ta nhận ra rằng, ý nghĩa, bản chất của văn học không phải tự nó nói lên, mà để nhận biết chúng, cần phải tiếp cận một cách trung thành mọi hoạt động của tác giả trong đời sống hằng ngày liên quan đến văn bản văn học. Chủ nghĩa thực chứng của H.Taine ra đời trong bối cảnh đó. Nghiên cứu văn học tiền hiện đại trực tiếp gắn nghĩa của tác phẩm với người đã viết ra nó. Nghĩa nội tại của văn bản không xuất phát từ bản chất của văn học mà từ thông điệp chủ ý, từ tính ý hướng của tác giả. Nhiều công trình lý thuyết về nghiên cứu phê bình văn học đã đề cao môi trường, thời điểm và chủng tộc theo tinh thần thực chứng của H.Taine. Theo H.Taine, tác phẩm và tác giả đều nằm trong mối 6 quan hệ nhân quả, để hiểu tác phẩm, nhà nghiên cứu cần phải hiểu những nguyên cớ lịch sử - con người đã tạo ra nó. Không phải ngẫu nhiên mà phê bình phân tâm học tiểu sử đã có đất sống. Người đặt nền móng cho nghiên cứu phân tâm học tiểu sử không ai khác là S. Freud. Theo Freud, phân tâm học có thể khám phá các yếu tố tâm lý của người nghệ sỹ để soi sáng nội dung tác phẩm. Với căn nền là vô thức, Freud đã xây dựng học thuyết phân tâm học của mình và ông đã dùng lí thuyết đó để diễn giải lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, bắt đầu khám phá về vô thức sáng tạo nơi Sophocle và Shakespeare. Freud cho rằng vô thức - tiềm thức, ý thức và siêu thức làm nên cơ chế hoạt động tâm thần. Vô thức chính là tâm thần, nó bao gồm những hiện tượng mà ý thức không kiểm soát được. Vô thức quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người. Nội hàm khái niệm dục năng (libido) của S.Freud không chỉ là hoạt động sinh lý thông thường mà bao hàm cả bản năng sống và bản năng chết, chúng ảnh hưởng đến hành vi tích cực và tiêu cực của con người. Liên quan đến quá trình trưởng thành và sự phát triển nhân cách của con người còn có yếu tố tính dục, nhất là tính dục ấu thơ. S.Freud xem phức cảm Oedipe là một trong những phức cảm quan trọng chi phối tình cảm và đạo đức con người trong suốt quá trình sống. Tất cả những yếu tố trên đây đã được Freud vận dụng để nghiên cứu các tác phẩm văn học, xuất phát từ người sáng tạo. Các bài viết của S.Freud về văn học từ năm 1905 đến 1928 đều tập trung vào phân tâm học tiểu sử (tác giả). Tất cả nhằm trả lời cho câu hỏi: tại sao người ta phải viết văn? Viết văn là sự giải thoát những ẩn ức nằm sâu trong vô thức nhà văn. Chỉ qua tên các bài viết của Freud cũng đã toát lên tinh thần đó của ông: Lời nói tế nhị và quan hệ của nó với vô thức (1905), Hoang tưởng và giấc mơ trong truyện Gradiva của Jensen (1906), Sáng tạo văn học và giấc mơ khi tỉnh (1908), Kỉ niệm tuổi thơ của Léonard de Vinci (1910)… Bằng những khởi đầu của Freud, phê bình phân tâm học tiểu sử đã trở thành một khuynh hướng với những tên tuổi như Charles Mauron, Jean Delay, René Laforgue, Marie Bonafarte… Các nhà phê bình văn học này dựa trên căn nền lý 7 thuyết phân tâm học của Freud đã lưu ý người đọc phải có hiểu biết về tâm lý của các nhà văn thì mới hiểu được quá trình sáng tác của họ. Cần phải hiểu đời sống tinh thần của nhà văn, kể cả những ham muốn thì người đọc mới hiểu được các ẩn dụ và biểu tượng trong tác phẩm văn học. Muốn làm được như vậy, nhà nghiên cứu phê bình văn học cần phải bám sát các dữ liệu đời tư của từng nhà văn, kể cả quá khứ của anh ta, xem những ẩn dụ ám ảnh là nơi con người vô thức của nhà văn thể hiện. Công trình viết về Edgar Poe (1933) của M. Bonafarte để lại dấu ấn quan trọng, tiêu biểu cho phương pháp phê bình phân tâm học tiểu sử. Điểm nổi bật ở công trình này là Bonafarte đã tìm cách soi sáng chứng loạn tâm thần ở Poe và sự chuyển dời vô thức nơi ông qua việc nhà văn này bị ám ảnh bởi hình ảnh người mẹ chết khi còn quá trẻ. Còn J. Delay thì lại coi trọng vai trò của những năm đầu đời đối với mỗi nhà văn, nhất là tính di truyền trong gia đình, vì tất cả những gì đã xảy ra đó đều ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sỹ. Tuy nhiên, những thể nghiệm của M. Bonafarte, Charles Mauron, Jean Delay, René Laforgue và các nhà phê bình phân tâm học tiểu sử khác đã không tránh khỏi những hạn chế. Phương pháp xếp chồng văn bản của C. Mauron đã khám phá huyền thoại cá nhân nhà văn không phải thích hợp để nghiên cứu mọi thể loại văn học, nhất là đối với kịch, do tính chất biểu diễn sân khấu đặc thù của nó. Với nền tảng lý thuyết phân tâm học của Freud, trong tinh thần thực chứng của tư duy nghiên cứu phê bình văn học tiền hiện đại, các nhà phê bình phân tâm học tiểu sử hầu như chỉ diễn giải tâm lý bằng văn học, xem tiểu sử tác giả là nguồn gốc của mọi sự phóng chiếu lên quá trình sáng tạo nghệ thuật. (Những hạn chế của khuynh hướng phê bình phân tâm học tiểu sử này chúng ta cũng thấy trong các công trình phê bình văn học của Trương Tửu). Cách làm này đã bỏ qua tính chất quá trình của sự tạo nghĩa nơi văn bản, nó mặc định những kết quả thông qua việc hiểu và cập nhật mọi dữ liệu liên quan đến tiểu sử tâm lý tác giả. 1.1.2 Phê bình phân tâm học văn bản Trong tư duy lý thuyết văn học tiền hiện đại, người ta không phủ nhận vai trò của văn bản nhưng lại xem văn bản chỉ là công cụ của sự tạo nghĩa đã có từ trước, 8 chịu sự chi phối của bối cảnh xuất xứ và chủ ý của người sáng tác. Nghiên cứu văn học tiền hiện đại, vì thế, trực tiếp gắn nghĩa tác phẩm với người tạo ra văn bản. Và phê bình văn học theo khuynh hướng phân tâm học tiểu sử đã vận dụng những nội dung lý thuyết phân tâm học về vô thức trong tinh thần đó. Nhưng rồi, khuynh hướng phê bình phân tâm học tiểu sử đã bị chính các nhà phân tâm học sau đó phê phán vì những hạn chế mà người viết đã trình bày ở trên. Từ đây, để thay đổi, thay vì đề cao vô thức tác giả, người ta nhấn mạnh nhiều đến quá trình tạo dựng văn bản, chuyển từ phân tích phân tâm học tiểu sử sang các yếu tố nằm trong văn bản, mang tính chất nội quan. Một trong những người có ảnh hưởng lớn đến phê bình phân tâm học văn bản là Carl Gustav Jung (1875 – 1961), tác giả của nhiều công trình nghiên cứu như Tâm lí học vô thức (1912), Biện chứng giữa cái tôi và cái vô thức… Là học trò của S. Freud, Jung đã phát triển và bổ sung những khám phá mới về vô thức, với việc phân chia vô thức thành hai nhóm: vô thức cá nhân và vô thức tập thể, được cấu trúc bằng các siêu mẫu. Theo Jung, quá trình cá nhân hoá được các siêu mẫu mặt nạ nhân cách, căn tính nữ, căn tính nam, bóng âm và vô thức tự ngã chi phối và dẫn dắt. Ngay cả libido cũng được Jung chia làm hai loại: libido hướng nội và libido hướng ngoại. Tuỳ theo đó, mà người thì thích sống lặng lẽ, cô độc, kẻ thì sống quảng giao, vui vẻ. Như vậy, trong khi Freud dùng văn học để diễn giải lý thuyết về phân tâm học thì Jung lại dùng chính các tri thức phân tâm học để soi sáng cơ chế sáng tạo văn học. Và phê bình siêu mẫu của Jung đã mở ra những khả năng mới cho khoa học văn học, ảnh hưởng đến nhiều nhà phê bình văn học sau này. Một đại diện khác của phê bình phân tâm học văn bản là Gaston Bachelard, người đã vận dụng các lý thuyết phân tâm học theo hướng thuần tuý vô thức, khơi nguồn từ các trạng thái vật chất như nước, lửa, không khí, đất… Các yếu tố này tồn tại trong vô thức tập thể với tư cách là siêu mẫu. Theo Bachelard, những tiếp xúc đầu đời của con người với ngoại giới, với thế giới vật chất sẽ để lại dấu ấn trong thế giới vô thức như là những siêu mẫu và ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo của người nghệ sĩ. Các công trình Phân tâm học về lửa (1938), Nước và những giấc mơ (1938), Không khí và những giấc mơ (1943)… của Bachelard đã cho thấy hướng 9 nghiên cứu của ông chịu ảnh hưởng từ Jung nhưng được phát triển hơn trong tinh thần phân tâm học vật chất. Một người Pháp nữa không thể không nói đến ở đây là Jacques Lacan (1901 – 1981), người đã diễn giải lại học thuyết Freud trong ánh sáng của cấu trúc và cấu trúc luận. Theo Elizabeth Wright, Lacan đã không quan tâm đến việc vô thức bản năng đi trước ngôn ngữ. Ông không chỉ khẳng định vô thức cũng được cấu trúc như là một ngôn ngữ mà còn nhấn mạnh rằng vô thức cũng là sản phẩm của ngôn ngữ. Nếu Freud cho rằng vô thức tồn tại trước khi ngôn ngữ có thể hoạt động thì Lacan lại cho rằng vô thức và ngôn ngữ xuất hiện đồng thời với nhau. Khi ngôn ngữ không có khả năng duy trì sự thoả mãn thì lúc đó vô thức xuất hiện qua khe hở giữa ngôn ngữ và ý muốn. Ngôn ngữ chỉ tạo cho chủ thể một vị trí để anh ta phát ngôn, vì thế theo Lacan, phê bình văn học nên tập trung vào những cấu trúc của ham muốn. Ông đề cao biểu tượng trong sáng tác văn học, xem biểu tượng là chìa khoá để giải mã vô thức. Phê bình văn học theo tinh thần phân tâm học văn bản của Lacan chủ trương phân tích các biểu tượng, tìm những sự trùng hợp, lặp đi lặp lại để lý giải chúng bằng lý thuyết phân tâm học. Đây là khuynh hướng phê bình văn học tạo điều kiện mở rộng sự liên tưởng, giúp nhà phê bình có thêm những khả năng diễn giải văn bản văn học. 1.1.3. Phê bình phân tâm học người đọc Bước sang thời hiện đại, với việc nhận ra sự khác biệt giữa văn bản văn học và tác phẩm văn học, lí luận văn học hiện đại đã vượt lên tư duy lý luận văn học tiền hiện đại. Đến lượt mình, tư duy lý luận hiện đại đã có những khám phá mới hơn về đặc trưng bản thể của văn bản văn học trong quan hệ với những yếu tố khác. Trong bài viết Trên đường đến với tư duy lý luận văn học hiện đại, sau khi nêu lên câu hỏi Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học là gì, nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung cho rằng hai vấn đề phải đề cập đến: một là tính chất ngôn ngữ, cái quyết định đặc trưng của văn bản văn học, hai là khả năng tạo lập một đời sống riêng của văn bản văn học. Đó là quá trình tạo ra đời sống cụ thể của văn bản văn học trong quan 10 hệ với người đọc. Đây là cơ sở để lý luận văn học hậu hiện đại thể hiện tham vọng lấy mỹ học tiếp nhận thay cho mỹ học sáng tạo. Như ở phần trên đã đề cập việc vận dụng lí thuyết phân tâm học vào phê bình phân tâm học tiểu sử và phê bình phân tâm học văn bản đã có những thành tựu nhất định. Trong khi đó, phê bình phân tâm học người đọc vận dụng lí thuyết phân tâm học để chỉ ra vô thức của người đọc trong quá trình tiếp nhận văn bản văn học thì lại chỉ được nói đến nhiều sau sự xuất hiện của Norman Holland, đại diện tiêu biểu nhất của khuynh hướng phê bình này. Norman Holland xuất hiện đúng vào thời kỳ mà mỹ học tiếp nhận đang rất sôi động, với nhiều công trình lý thuyết đề cao vai trò của người đọc trong quá trình tạo nghĩa của văn bản văn học. Và cái nhìn phân tâm học của ông về chủ thể tiếp nhận, vì thế, càng có ý nghĩa khoa học, được dư luận chú ý. Công trình được nhắc đến nhiều nhất của N. Holland là Cái tôi (1985), một chuyên luận nói về bản chất con người một cách tập trung nhất bằng phân tâm học. Công trình này đặt ra vấn đề tại sao trong con người cá nhân vừa có cái riêng tư lại vừa có cái phổ quát? Tại sao trong con người cá nhân có cả nhân loại? Lý giải vấn đề này, chúng ta sẽ hiểu được sự phong phú, đa dạng của người đọc. Họ vừa giống nhau, lại vừa khác nhau khi cùng tiếp nhận một văn bản văn học. Điều này lý giải tại sao văn bản văn học không đến với tất cả mọi người bằng một gương mặt duy nhất. Công trình Cái tôi của Norman Holland đều tập trung làm rõ bản chất của người đọc và quá trình diễn biến tâm lí của họ. Ví dụ tình trạng nào của não bộ quyết định việc người đọc cảm nhận được một ngôn ngữ như là văn học? Vì sao mỗi người đọc lại có cách diễn giải khác nhau về ý nghĩa của văn bản? Sau các công trình Phân tâm học và Shakespeare (1966), Các động cơ của phản ứng văn học (1968) thì công trình Năm loại người đọc (1975) đã dành hẳn sự quan tâm của Holland về người đọc. Ông rút ra bốn nguyên tắc thể hiện những phản ứng của người đọc trước một văn bản văn học là tự thân, phòng vệ, tưởng tượng, chuyển hoá. Đây cũng là bốn bước mà một người đọc trải qua để tạo nên quá trình tiếp nhận, quyết định phương thức tồn tại của tác phẩm văn học như các nhà lý luận tiếp nhận vẫn nói. Holland đã lưu ý đến những năm tháng tuổi thơ của người đọc cũng 11 có ảnh hưởng lớn đến quá trình tiếp nhận văn học. Không phải ngẫu nhiên mà Holland đã nghiên cứu các nhà văn lớn của chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX như Balzac, Dickens, Gogel. Mặc dù các công trình phân tâm học người đọc của N. Holland vẫn còn nhấn mạnh quá nhiều đến cái vô thức của người đọc, nhưng không giống Bonaparte (phê bình phân tâm học văn bản), người đã xem văn bản như là bằng chứng tâm lí của nhà văn, Holland đã nhận ra sự xung đột của nhà văn và độc giả trong văn bản, và ông dựa vào đó để xác lập lý thuyết của mình. Quan niệm của Holland đã lưu ý đến mối quan hệ mơ hồ nhất của quá trình văn học. Ông đã không tìm kiếm nguyên tắc tổ chức trong văn bản mà tìm ở người đọc, khi người đọc bắt đầu công việc trên văn bản một cách phù hợp với bản tính của mình. Theo đó, đọc là sự tái tạo bản sắc riêng của người đọc, vì thế chúng ta nên so sánh các phản ứng khác nhau của những người đọc khác nhau về văn bản văn học để nhận ra mối quan hệ có được nhờ những liên tưởng tự do xuất hiện từ nội dung mà các hành động liên tưởng tự do được hình thành giữa các cá nhân người đọc. Từ đây, Holland cho rằng không có gì xảy ra trong văn bản, mà tất cả xảy ra trong bạn đọc. Khái niệm sự thoả hiệp của Holland cần phải được hiểu trên nền tảng là bản chất tự nhiên, liên chủ thể của sự hiểu văn bản, khi những người đọc khác nhau tiếp tục khám phá ra những nghĩa mới của văn bản và đưa chúng vào hướng tiếp cận mới. Có thể nói, mỗi khuynh hướng phê bình phân tâm học đều có một thế mạnh cùng những hạn chế tất yếu khác nhau. Với khuynh hướng phê bình phân tâm học tiểu sử, yếu tố cuộc đời nhà văn được đặt lên hàng đầu. Chính những chấn động tinh thần của tác giả sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tác phẩm. Việc tìm hiểu, soi chiếu các yếu tố về cuộc đời, gia đình và thời đại nhà văn đang sống là cần thiết. Tuy nhiên, đó không phải là yếu tố quyết định trong việc giải mã tác phẩm. Nếu người đọc quá thiên về khuynh hướng phê bình này sẽ không tránh khỏi những suy diễn, áp đặt. Đặc biệt, với các tác phẩm đương đại, khi mà yếu tố cuộc đời nhà văn chưa thực sự được công khai thì rõ ràng khuynh hướng phê bình này sẽ gặp không ít khó khăn. Ngược lại, với khuynh hướng phê bình phân tâm học người đọc cũng sẽ rơi vào chủ quan, xuyên tạc nếu chỉ dựa vào vô thức người đọc để xác định mạch ngầm ý nghĩa 12 của tác phẩm, dù tiếp nhận văn học là một khâu không thể thiếu trong quá trình văn học. Đối với khuynh hướng phê bình phân tâm học văn bản, nhìn một cách khách quan, phương pháp nghiên cứu này về cơ bản sẽ mang lại những ý nghĩa có tính khoa học. Đối tượng nghiên cứu của phương pháp này chính là văn bản văn học và yếu tố tồn tại trong văn bản văn học. Việc giải mã lớp vỏ ngôn từ, nghiên cứu ký ức tập thể, các tập tục tín ngưỡng được lưu giữ qua các siêu mẫu, biểu tượng, cũng như sự liên hệ giữa thế giới hình tượng cùng với cơ chế thăng hoa trong vô thức tác giả sẽ là con đường dẫn dắt người đọc tìm đến với thông điệp thẩm mỹ của tác phẩm. Rõ ràng, nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc nhìn phân tâm học là quá trình giải mã những vùng mờ vô thức được ẩn giấu đằng sau lớp vỏ ngôn từ. Các nhà phê bình Việt Nam cũng đã vận dụng phương pháp phê bình phân tâm học để nghiên cứu văn học với hai con đường cơ bản, từ việc phóng chiếu ham muốn vô thức tác giả vào tác phẩm hoặc sự vận dụng những vấn đề phân tâm học để phân tích một số bình diện nghệ thuật trong tác phẩm. Đó là sự vận dụng hai khuynh hướng phê bình phân tâm học tiểu sử và phân tâm học văn bản. 1.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phân tâm học Phân tâm học dù đi vào Việt Nam từ rất sớm nhưng cả một thời gian dài không thể tìm được sự hòa nhập để phát triển. Những gì Freud mang đến bị coi là sự “phản động”, “nhục mạ” con người. Quá trình tiếp nhận lý thuyết phân tâm học vào nghiên cứu văn học Việt Nam quả là một chặng đường gian nan với những thăng trầm đứt nối. Nếu như trong sáng tác văn chương, Vũ Trọng Phụng vận dụng học thuyết Freud với những tác phẩm như Làm đĩ, Giông tố, Số Đỏ thì trong lĩnh vực phê bình, phải kể đến hai cây bút tiêu biểu là Trương Tửu và Nguyễn Văn Hanh. Đến giai đoạn văn học sau 1954, theo Trần Hoài Anh, trong bài viết Vấn đề ứng dụng phân tâm học vào phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 - 1975, ở miền Nam, với tính chất một xã hội tiêu thụ, ảnh hưởng lối sống tự do theo kiểu văn hóa Âu Mỹ, phân tâm học và một số học thuyết khác của phương Tây đều có thể phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng nhiều đến văn hóa nghệ thuật, đặc biệt là lĩnh vực phê bình. Ở miền Bắc, do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, phê bình phân tâm học vẫn 13 còn nhiều giới hạn. Trong bài viết Phân tâm học về phê bình văn học ở Việt Nam, Đỗ Lai Thúy đã nhận định rằng, sau năm 1954, ở miền Bắc, mặc dù học thuyết Freud bị phê phán kịch liệt, nhiều người vẫn lén sử dụng luận điểm dồn nén - ẩn ức - thăng hoa để giải thích một số hiện tượng văn học. Nhìn chung, giai đoạn trước đổi mới, việc vận dụng lý thuyết phân tâm học còn là một vấn đề dè dặt, chưa thực sự là một trào lưu phổ biến trong sáng tác và phê bình văn học. Bạn đọc cũng như giới phê bình cũng chưa có cái nhìn toàn diện và khách quan về phân tâm học, chủ yếu chỉ nhận thức phân tâm học như một học thuyết về tính dục. Sau năm 1986, với khuynh hướng đổi mới toàn diện và hội nhập, phân tâm học đã được vận dụng khá nhiều vào nghiên cứu văn học, chủ yếu là tham chiếu vào các tác phẩm đương đại từ vấn đề ẩn ức tính dục, phức cảm, cũng như lý thuyết cổ mẫu của Jung. Nhìn chung, từ sau năm 1986, vấn đề phân tâm học được vận dụng và soi chiếu tác phẩm văn học, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết. 1.2.1. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 -2000 từ góc nhìn phân tâm học Từ sau năm 1975, về phương diện sáng tác, văn học đã có sự chuyển mình. Những lớp vỏ tư tưởng cũ kỹ một thời đã phần nào được xoá bỏ, văn học dần đi vào cõi sâu tâm hồn con người. Ở giai đoạn này, thể loại tiểu thuyết thực sự lên ngôi, nở rộ về cả số lượng lẫn chất lượng nghệ thuật. Từ lâu, tiểu thuyết được xem như thể loại chính, loại hình nghệ thuật khám phá đời sống, lịch sử một cách toàn diện. Ở thời kỳ đổi mới, các cây bút tiểu thuyết đã mạnh dạn xé toang lớp màn quan niệm, nền nếp một thời để tìm về những điều rất thực. Các nhà văn đã mạnh dạn để nhân vật nói lên những khát khao thầm kín với một tinh thần dân chủ, và ít nhiều mang màu sắc phân tâm học như Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Lê Lựu với Thời xa vắng, Dương Hướng với Bến không chồng, Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma. Chính vì thế, các nhà phê bình cũng đã tìm thấy nét mới trong những sáng tác tiểu thuyết giai đoạn này. Trong cuốn Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nguyễn Thị Bình đã có một cái nhìn khái quát toàn diện về sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam từ sau năm 1975 trên cơ 14 sở một số loại hình tiêu biểu như tiểu thuyết theo lối hư cấu lịch sử, tiểu thuyết theo phong cách hậu hiện đại. Song, dù ở loại hình nào, hầu hết các tác phẩm tiểu thuyết thời kỳ này đều “dồn vào cách xử lý hiện thực: một hiện thực đa chiều, hiện thực vừa có tính nhất định, vừa đáng ngờ, vừa hữu lý, vừa phi lý, vừa trật tự, vừa hỗn loạn, vừa thuộc về cái rành rõ lý trí, vừa như thuộc cõi siêu linh bí ẩn huyền hồ” [8, tr. 125]. Chẳng hạn như “Việc Bảo Ninh lựa chọn cái hiện thực của tiềm thức, tâm linh, hiện thực bên trong một con người” [8, tr. 127] được xem là sự cách tân có hiệu quả. Tiểu thuyết nói riêng và văn xuôi Việt Nam nói chung giai đoạn này bắt đầu quan tâm đến con người bản năng, con người tâm linh “thâm nhập được vào cả cõi mờ xa của ý thức, vùng chập chờn giữa ý thức và vô thức, vùng bí ẩn của tâm linh. Quan niệm về tính phức tạp, bí ẩn của con người đã dẫn dắt văn học đi tìm “những con người khác nhau” bên trong một con người” [8, tr. 70] như một tất yếu của hiện thực. Cùng đề cập đến vấn đề con người trong tiểu thuyết đương đại, Nguyễn Văn Long cũng đã có bài viết Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn từ sau 1975. Tác giả Nguyễn Văn Long cho rằng: “Con người cũng được văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện, nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ quát” [53, tr. 16]. Rõ ràng, một trong những nét mới của tiểu thuyết giai đoạn này là sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người cũng như cách nhìn và phản ánh đời sống. Các nhà tiểu thuyết đã khai thác con người ở nhiều khía cạnh như tâm linh, bản năng... để có thể có một cái nhìn toàn diện hơn về con người. Trong Một hướng tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới trong Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11/ 2006, Nguyễn Bích Thu khẳng định: “Các cây bút tiểu thuyết từ sau đổi mới đã có ý thức đi sâu vào thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhận diện con người đích thực. Sự xuất hiện con người tâm linh biểu hiện sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn học. Tiểu thuyết bắt đầu tiếp cận với thế giới đằng sau thế giới hiện thực, đó là thế giới tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ” [53, tr. 4]. Có thể thấy rằng, hầu hết
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan