Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tìm hiểu các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao việt nam...

Tài liệu Tìm hiểu các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao việt nam

.DOC
84
453
54

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TÌM HIỂU CÁC TỪ NGỮ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TRONG CA DAO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Vinh 2006 LỜI CẢM ƠN. MỞ ĐẦU. 1. Lý do chọn đề tài...................................................…...................4 2. Lịch sử vấn đề........................................................…...................4 3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu.................….........................5 4. Phương pháp nghiên cứu...........................................…...............6 5. Dự kiến bố cục của luận văn........................................….............7 Chương 1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1. Vấn đề tên gọi và trường nghĩa chỉ người.....................…...........8 2. Những nghiên cứu về con người trong nghệ thuật.........…........18 3. Ca dao và vấn đề phản ánh của ca dao về con người.........…....21 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TRONG CA DAO VIỆT NAM. 1. Kết quả thống kê, khảo sát.................................….....................29 2. Phân loại số liệu khảo sát.....................................…...................34 3. Vị trí xuất hiện giữa các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao Việt Nam.............................................………...........................40 4. Khả năng kết hợp của các danh từ chỉ bộ phận cơ thể người với các từ loại khác trong ca dao Việt Nam.................…........………............44 Chương 3. ĐẶC TRƯNG NGỮ NGHĨA CỦA CÁC TỪ NGỮ CHỈ BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI TRONG CA DAO VIỆT NAM 1. Nhận xét chung................................................................................52 2. Đặc trưng ngữ nghĩa của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao Việt Nam.....................................................................……….52 3. Vai trò của sự phản ánh của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao Việt Nam...................................................………..........77 KẾT LUẬN.......................……..........................................................81 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................……................................83 TÀI LIỆU KHẢO SÁT...............................…...................................85 2 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Lêi c¶m ¬n Chúng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Phan Mậu Cảnh, người trực tiếp hướng dẫn, xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo và bạn bè thân hữu đã giúp đỡ, động viên chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài này. Vinh, tháng 12- 2006 Tác giả: Nguyễn Thị Hà. 3 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. 1.1. Ca dao Việt Nam là viên ngọc quý luôn toả sáng trong không gian, thời gian.Với ngôn ngữ tinh tế, sinh động, duyên dáng, giàu hình tượng và đầy chất thơ, ca dao luôn đi vào lòng người, được người người thuộc và truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. 1.2. Ca dao phản ánh đời sống, trí tuệ, tâm hồn, tình cảm của con người Việt Nam. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về ca dao, trong đó có cả những công trình nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ. Trong ca dao, có một lượng từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người rất đáng quan tâm. Đây là đối tượng cũng đã được tìm hiểu trong một số bài viết, luận văn... Nhưng việc tìm hiểu nhóm từ ngữ này trong ca dao thì chưa được khảo sát đầy đủ và hệ thống. 1.3. Nghiên cứu từ ngữ trong ca dao nói chung và từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người nói riêng nhằm góp phần tìm hiểu ngôn ngữ từ góc độ tư duy, văn hoá và xã hội. Đây là những lĩnh vực có tính thời sự hiện nay trong ngôn ngữ học. Đó chính là những lý do cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề tài này. 2. Lịch sử vấn đề Trong phần này chúng tôi sẽ nêu một số hướng nghiên cứu có liên quan đến đề tài này. 2.1. Những công trình nghiên cứu về ca dao và ngôn ngữ, thi pháp của ca dao. 2.1.1. Hướng nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ. Một số công trình đã tìm hiểu ca dao Việt Nam từ góc độ ngôn ngữ, tiêu biểu như: Tác giả Cao Huy Đỉnh đã nghiên cứu lời đối đáp trong ca dao trữ tình, (Tạp chí văn học, 9/1996). Tác giả Mai Ngọc Chừ đề cập đến những ngôn ngữ ca dao Việt Nam, (Tạp chí văn học 2/1991). 4 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Tác giả Nguyễn Văn Khang, nói đến sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ,(Tạp chí văn hoá thông tin, NXB, Hà Nội)... 2.1.2. Hướng nghiên cứu từ góc độ thi pháp. Nguyễn Xuân Kính (1992), nghiên cứu tổng thể của ca dao về mặt thi pháp: - Thi pháp học và việc nghiên cứu thi pháp của ca dao. - Ngôn ngữ trong ca dao. - Kết cấu trong ca dao. - Một số biểu tượng trong ca dao. ( Thi pháp ca dao – NXB KHXH, Hà Nội 1992) Trần Đình Sử (1998), nghiên cứu những đặc điểm của thi pháp ca dao: - Nhân vật trữ tình trong ca dao. - Kết cấu trong ca dao. - Hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ trong ca dao. 2.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến trường nghĩa chỉ người như: Các tài liệu viết về từ vựng - ngữ nghĩa của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp và Nguyễn Đức Tồn (2002) trong “ Tìm hiểu đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người việt “ ( trong sự so sánh với những dân tộc khác) NXB ĐHQG HN… 2.3. Những đề tài khoá luận, luận văn có liên quan đến từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người: Luận văn thạc sỹ “Đặc trưng ngữ nghĩa của tục ngữ Việt Nam” (1999) - Nguyễn Thị Thu Hương dưới cái nhìn chung về ngữ nghĩa của tục ngữ, luận văn tốt nghiệp Đại học “ Khảo sát nhóm tục ngữ tiếng Việt chứa từ chỉ bộ phận cơ thể người” - Trần Thị Thanh Hà ( khoá 2002-2006) đã đề cập khá rõ về các vấn đề thuộc từ chỉ bộ phận cơ thể người trong tục ngữ. Riêng việc “ tìm hiểu các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao Việt Nam” đang còn là vấn đề mới mẻ, nên chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài này. 3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu. 5 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Luận văn khảo sát các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người xuất hiện trong ca dao Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu. Nguồn tư liệu lấy từ các cuốn: “ Ca dao Việt Nam” - Nguyễn Bích Hằng, NXB VHTT, H., 2004, cuốn “ Ca dao trữ tình Việt Nam” (do Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ Quang Hào,Sưu tầm và biên soạn) , NXB Giáo dục, 1998. Ngoài ra còn có cuốn “ Tục ngữ - Ca dao- dân ca Việt Nam” – Vũ Ngọc Phan, NXB văn học, 2005. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: Như ta đã biết từ chỉ bộ phận cơ thể người là những từ ra đời rất sớm, thuộc vốn từ cơ bản của người việt, vì đây là những từ gần gũi với đời sống con người nhất. Vì vậy, cao dao đã sử dụng những từ này làm chất liệu. Luận văn có nhiệm vụ sau: -Tổng kết những vấn đề lý thuyết xoay quanh khái niệm tên gọi của ngôn ngữ và các công trình nghiên cứu có liên quan. - Thống kê, phân loại các từ ngữ gọi tên các bộ phận cơ thể người trong ca dao Việt Nam. - Miêu tả các đặc điểm về ngữ pháp của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao Việt Nam. - Trình bày đặc trưng ngữ nghĩa của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người và vai trò của nó trong việc biểu hiện nội dung ngữ nghĩa. 4.Phương pháp nghiên cứu. Để thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản sau: 4.1 Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại. a) Khảo sát lấy số liệu. b) Thống kê số liệu. c) Phân loại số liệu sau khi đã khảo sát. 4.2 Phương pháp miêu tả, phân tích, tổng hợp. Miêu tả, phân tích cụ thể các từ ngữ sau đó tổng hợp và đi đến kết luận cụ thể. 4.3 Phương pháp so sánh, đối chiếu. So sánh, đối chiếu số liệu từ nhiều đến ít. Khi có số liệu, người miêu tả, phân tích các từ ngữ chỉ bộ phận người trong ca dao Việt Nam, sau đó đối chiếu với một số thể loại khác có liên quan. 6 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí 5. Dự kiến bố cục của luận văn. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những khái niệm liên quan đến đề tài. Chương 2: Đặc điểm ngữ pháp của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao Việt Nam. Chương 3: Đặc trưng ngữ nghĩa và vai trò của các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao Việt Nam. Chương 1 NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1 .Vấn đề tên gọi và trường nghĩa chỉ người. 7 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí 1.1.Vấn đề tên gọi và từ. 1.1.1. Từ và khái niệm từ: Từ là một đơn vị quan trọng đã được bàn luận nhiều trong suốt quá trình nghiên cứu của ngôn ngữ học. F.De.Saussure đã viết: "...Từ là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng chúng ta như một cái gì đó trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ, mặc dù khái niệm này khó định nghĩa"(F.De.Saussure ,1973). Cho đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về từ. Mặc dù có nhiều cách định nghĩa khác nhau về từ nhưng có thể thấy rằng mỗi ý kiến lại làm rõ thêm khái niệm từ ở một khía cạnh nào đó , chứ chưa có khái niệm nhất quán , nhưng tổng hợp các ý kiến lại thì có thể khái quát lại như sau: " Từ là một đơn vị của ngôn ngữ , gồm một hoặc một số âm tiết có nghĩa nhỏ nhất, có cấu tạo hoàn chỉnh và được vận dụng tự do để cấu tạo nên câu."(13.18). Từ có nhiều chức năng quan trọng nhưng có hai chức năng cơ bản thường được nhắc đến : chức năng định danh (gọi tên) và chức năng tạo câu. Như vậy, vấn đề tên gọi của các sự vật, hiện tượng và con người liên quan đến chức năng định danh của từ. 1.1.2. Vấn đề tên gọi: Khi bàn về vấn đề tên gọi, chúng ta có thể chia làm thành hai loại đó là tên riêng và tên chung. 1.1.2.1. Tên riêng: Có rất nhiều ý kiến về tên riêng. Tiêu biểu là một số ý kiến sau: - “Tên riêng là dùng để chỉ một cá thể ( một con người cụ thể, một sự vật cụ thể, một tổ chức cụ thể)”.( Hoàng Phê. Một số vấn đề quan điểm trong vấn đề tên riêng không phải tiếng việt" Ngôn ngữ" 3.H.1983.Tr11). 8 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí - "Tên riêng là những ký hiệu thuần tuý không có nghĩa, có những tên riêng vốn có nghĩa thì cái nghĩa đó thường cũng không ai nghĩ đến, nó trở thành một sự "vô nghĩa", chức năng của tên riêng chỉ là vấn đề nhận diện, làm sao cho nhận diện chúng không nhầm và dễ dàng" ( Hoàng Phê ,vấn đề cải tiến và chuẩn hoá chính tả " Ngôn ngữ" 3.4 H., Tr 19-20). Có khi tên riêng lại được định nghĩa: - " Tên riêng là tên gọi của từng cá nhân, cá thể, phân biệt với những cá nhân, cá thể cùng loại "( Từ điển tếng Việt NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học Hà Nội – Đà Nẵng 1995).Còn trong cuốn" Những vấn đề ngôn ngữ học.", Hội nghị khoa học, 2002, (NXB KHXH) lại cho rằng: " Có thể xem tên riêng là ký hiệu ngôn ngữ đặc biệt được tạo thành từ một hệ thống kí hiệu đã có để gọi tên cho một đối tượng khác, có chức năng gọi tên để phân xuất và định danh riêng cho một đối tượng cá biệt, đơn nhất so với đối tượng cùng loại". Như vậy mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tổng hợp lại thì ta có thể khái quát : tên riêng là tên gọi của từng cá nhân, cá thể, nó như là một ký hiệu để nhằm phân biệt với những cá nhân, cá thể khác cùng loại, chẳng hạn như tên người ( Mai, Huệ, Đào); tên gọi các con vật: con Vàng, con Vện...; tên một số loại cây : cây Na, cây Đào...; tên gọi các hiện tượng tự nhiên như: Sao Hỏa, Sao Kim...; tên địa danh: Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình… 1.1.2.2. Tên chung: Có thể khái quát về tên chung như sau: Tên chung là tên gọi thường gắn bó với một lớp đối tượng cùng loại. Nó có mối quan hệ với khái niệm mang tính khái quát hoá ,chức năng cơ bản của tên chung là gọi tên để thông báo, để biểu niệm. Ví dụ: Tên người: đàn ông, đàn bà..; tên động vật, chim, thú..; tên thực vật: cây, cỏ...; tên các hiện tượng tự nhiên: sông, núi, biển, hồ.. 9 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí 1.2. Trường nghĩa và trường nghĩa chỉ người 1.2.1. Vấn đề trường nghĩa - Tiêu chí để xác lập trường nghĩa. Khi bàn về vấn đề trường nghĩa thì các nhà nghiên cứu đã có một số ý kiến như sau: Theo Nguyễn Thiện Giáp (8.39) thì lý thuyết trường nghĩa xuất phát từ những tiền đề của trường phái Humboldt mới ( quan niệm mặt nghĩa của ngôn ngữ là một kết cấu chặt chẽ được phân chia ra thành những trường hoặc những phạm vi khái niệm) và phần nào từ những tư tưởng của F.de Saussure về tính hệ thống của ngôn ngữ và những phương pháp kết cấu trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ. Đỗ Hữu Châu ( 4.150) cũng khẳng định lý thuyết về trường là sự cụ thể hoá lý thuyết về tính hệ thống của ngôn ngữ trong lĩnh vực từ vựng. Như vậy khái niệm trường nghĩa là kết quả của việc nghiên cứu tính hệ thống và cấu trúc của hệ thống từ vựng về mặt ngữ nghĩa. Vốn từ của một ngôn ngữ có thể được phân chia ra thành những trường nghĩa khác nhau dựa vào quan hệ ý nghĩa giữa các từ hay giữa các nhóm từ. Tuy nhiên, cần chấp nhận một thực tế là không thể phân chia triệt để tất cả các từ trong vốn từ vào các trường và cũng không có một ranh giới dứt khoát giữa các trường bởi trên thực tế một từ có thể đi vào nhiều trường khác nhau tuỳ thuộc vào tiêu chí phân lập trường. Đỗ Hữu Châu quan niệm về trường nghĩa đó là " mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa.Với các trường nghĩa, chúng ta có thể phân định một cách tổng quát những quan hệ ngữ nghĩa trong từ vựng thành những quan hệ ngữ nghĩa giữa các trường và những quan hệ ngữ nghĩa trong lòng mỗi trường" ( 4.171). 10 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Vậy trường nghĩa là một tập hợp các từ có sự đồng nhất ở một nét nghĩa nào đó. Các từ trong cùng một trường luôn có quan hệ ý nghĩa với nhau và quan hệ ý nghĩa này vừa là cơ sở để xác lập vừa có tác dụng liên kết các đơn vị từ vùng trong một trường nghĩa. Có nhiều cách xác lập trường nghĩa và do đó cũng có nhiều kiểu trường nghĩa khác nhau. Một số trường nghĩa được nói tới là trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm, trường nghĩa tuyến tính và trường nghĩa liên tưởng. Cơ sở để xác lập trường nghĩa là ý nghĩa của từ mà ý nghĩa của từ là ý nghĩa ngôn ngữ nên tiêu chí để xác lập các trường phải dựa trên những tiêu chí ngôn ngữ học. Tiêu chí để phân lập trường nghĩa biểu vật là sự đồng nhất ở một nét nghĩa biểu vật nào đó giữa các từ. Nói cách khác, những từ cùng biểu thị các đối tượng , các hoạt động trạng thái, tính chất, đặc điểm... thuộc cùng một phạm vi hiện thực, cùng một chủ điểm thì hợp thành trường biểu vật. Ví dụ: Các từ : đầu, đuôi, tay, cánh, mõm, mỏ, miệng, bụng, lòng, vây... có sự đồng nhất ở nét nghĩa biểu vật chúng là những từ chỉ bộ phận cơ thể người hay động vật. Nhưng giữa các từ đó lại lập thành từng nhóm, có sự phân lập thành trường nghĩa, sự vật chỉ bộ phận cơ thể người: đầu , tay, miệng, bụng, lòng, da,... và trường chỉ cơ thể động vật: đuôi, cánh, mõm, miệng, bụng, lòng, vây...Nếu lấy nét nghĩa phạm trù khác để phân lập thì cả ba trường này có thể là trường bộ phận của trường lớn hơn, là trường nghĩa động vật, hay trường nghĩa người. Như vậy, trong một trường nghĩa sự vật có thể bao gồm nhiều trường nghĩa hẹp hơn, cấp độ thấp hơn với số lượng từ ít hơn nhưng lại đồng nhất ở nhiều nét nghĩa hơn. Các từ có càng ít nét nghĩa đồng nhất thì phạm vi các trường càng rộng và do đó số lượng từ tập hợp trong trường càng nhiều. 11 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Để xác lập trường nghĩa biểu niệm thì phải dựa vào một nét nghĩa đồng nhất nào đó trong nghĩa biểu niệm của các từ. Cũng như trường biểu vật, một trường biểu niệm lớn có thể bao gồm nhiều trường nghĩa biểu niệm nhỏ hơn dựa trên sự đồng nhất và khác biệt về một hay một số nét nghĩa nào đó. Ví dụ: Dựa vào nét nghĩa phạm trù " ở trạng thái y" có thể tập hợp các từ như " cắt ", " pha", " thái"...và các từ như: " vỡ", " sứt", " mẻ", "gãy" ...Nhưng có thể theo nguyên tắc khác, theo sự đồng nhất của toàn bộ cấu trúc biểu niệm gồm những nét nghĩa phạm trù. Theo nguyên tắc này, các từ dẫn trên sẽ thuộc hai trường biểu niệm, trường ( hoạt động) , (Tác động đến X) - (làm cho X ở trạng thái Y) gồm các từ như "cắt", "pha", "thái" và các trường (ở trạng thái Y) gồm các từ "vỡ", "sứt","mẻ","rách"... cũng như vậy chúng ta sẽ thành hai trường nhỏ: thứ nhất, trường (tình cảm - trạng thái) gồm các từ như: "sợ hải", "kinh hoàng", "yêu đương", "ngạc nhiên"...và trường (tình cảm- quan hệ) gồm các từ như: "yêu", "ghét", "nhớ"... (3,256). Trường nghĩa tuyến tính là một tập hợp các từ thường được đúng theo quan hệ hàng ngang (tuyến tính) trong cụm từ hay trong câu. Trường nghĩa này cho biết khả năng kết hợp vô cùng rộng rải với các từ khác do bản thân cấu trúc ngữ nghĩa của nó và do hiện tượng chuyển hoá của nó. Vì vậy để xác lập một trường nghĩa tuyến tính phải tính đến hiện tượng này. Theo Đỗ Hữu Châu (4.257) có ba nguyên tắc đồng thời cũng là ba tiêu chí xác lập trường tuyến tính: các từ lập thành một tuyến tính với một từ trung tâm nào đó là các từ mà quan hệ cú pháp giữa chúng với từ trung tâm là sự tường minh hoá các quan hệ có tính tiềm ẩn giữa các nét nghĩa trong cấu trúc ngữ nghĩa của từ trung tâm; các từ đó phải phù hợp với nét nghĩa biểu vật của từ trung tâm; các từ phải phù hợp với yêu cầu nét nghĩa tận cùng của từ trung tâm. 12 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Ví dụ: lấy từ: nắm"(động từ) làm trung tâm có thể xác lập trường nghĩa tuyết tính của nó gồm các từ : tay, vai áo, cái bánh, tóc, thời cơ, vấn đề, nội dung, vững chắc, hời hợt , sâu sắc... Các từ này phải thoả mãn ba điều kiện cụ thể trên, cụ thể là: các từ này khi kết hợp với từ trung tâm: (ví dụ: nắm vạt áo: hoạt động cụ thể bằng tay, nắm vấn đề: hoạt động của tư duy trừu tượng), các từ này đều có nét nghĩa phù hợp với nghĩa biểu vật của từ "nắm" là liên quan đến hoạt động của bàn tay con người và liên quan đến một khối được nén chặt hay một lượng nào đó, các từ này có những nét nghĩa gần với trung tâm "nắm" chứ không gồm những từ có nét nghĩa quá xa với những nét nghĩa của từ trung tâm như: người yêu, tim đen, hoặc ví dụ: từ tuyến tính của “tay” là búp măng, mềm, ấm, lạnh.... nắm, cầm khác từ “đi” là nhanh, chậm, tập tễnh... Trường nghĩa liên tưởng là sự tập hợp các từ theo quan hệ liên tưởng phải phù hợp với một trong những nét nghĩa của từ đang xét. Có hai loại trường liên tưởng: Trường hướng tâm và trường ly tâm. - Trường hướng tâm: là trường mà các từ liên tưởng tới luôn có quan hệ với từ trung tâm hoặc là điểm xuất phát để hướng tới từ trung tâm. - Trường ly tâm: là trường liên tưởng không có định hướng các từ được liên tưởng đến ngày càng xa với những quan hệ ngữ pháp của từ trung tâm. Ví dụ: Từ " bò" trong tiếng pháp gợi lên sự liên tưởng: 1- Bò cái, bò mộng, bê, sừng, gặm cỏ, nhai trầu...; 2- Sự cày bừa, cái cày, cái ách; 3 - Những ý niệm về tính thụ động mà chúng ta gặp trong các lối so sánh, các thành ngữ Pháp...( 4,188). Lý thuyết về trường nghĩa có tác dụng rất lớn đối với việc miêu tả từ vựng của các ngôn ngữ một cách có hệ thống. Vì vậy khi đi vào tìm hiểu các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người trong ca dao Việt Nam thì 13 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí chúng ta không thể không nói qua về khái niệm trường nghĩa và tiêu chí xác lập nó. 1.2.2. Trường nghĩa chỉ bộ phận cơ thể người. Nguyễn Đức Tồn khi nghiên cứu vấn đề từ chỉ bộ phận cơ thể người ông đã thống kê được trong tiếng Việt cứ 397 từ chỉ bộ phận cơ thể người và 397 đơn vị này gọi tên 289 bộ phận cơ thể khác nhau của con người, trong đó những bộ phận được gọi bằng những tên khác nhau (92/289 bộ phận, chiếm tỉ lệ 32%). * Về cơ sở định danh: Hệ thống từ chỉ bộ phận cơ thể người có từ rất lâu đời từ khi con người tri giác được về chính bản thân mình, con người đã xác định được những đặc trưng làm cơ sở định danh cho các bộ phận cơ thể: - Đặc trưng hình thức: Đặc trưng này được chọn làm cơ sở cho 52 % (110/221) tên gọi của bộ phận cơ thể người tiếng Việt (qua khảo sát, phân tích 221 tên gọi tiếng việt của Nguyễn Đức Tồn). Ví dụ: nhãn cầu, lá mía, mắt cá... - Đặc trưng vị trí: Số lượng tên gọi có đặc trưng ví trí làm cơ sở chiếm 22% (46/221). Ví dụ: Tai trong, mang tai, nhân trung, xương sườn... - Công dụng , chức năng: Đặc trưng này là khu biệt của 9% số tên gọi tiếng Việt (20/221). Ví dụ : Dây thanh, ruột thừa... - Đặc trưng vật lý: Đặc trưng này đã được người việt sử dụng trong 6.6% ( 15/221) số trường hợp để làm cơ sở định danh bộ phận cơ thể. Ví dụ : ruột già , ruột non, màng cứng... - Kích thước, kích cỡ: 14 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Trong tiếng Việt có khoảng 6.1% (13/221) số tên gọi bộ phận cơ thể người được dựa trên đặc trưng kích thước , kích cỡ. Ví dụ: Đại não, tiểu não, ngón cái... - Những đặc trưng tản mạn khác (màu sắc, cấu tạo, hành vi ...) chỉ có 3.7% (8/221). Số trường hợp tên gọi bộ phận cơ thể người trong tiếng việt dựa trên những đặc trưng này, chẳng hạn: tròng trắng , huyết mạch... Như vậy, các đặc trưng hình thức và vị trí được sử dụng làm cơ sở định danh bộ phận cơ thể người nhiều hơn tất cả các đặc trưng khác. Trong đó đặc trưng hình thức luôn luôn đứng đầu, có giá trị nhất đối với cơ sở định danh. Điều này hoàn toàn phù hợp với những quy luật nhận thức và biểu thị đối tượng. * Về cấu trúc ngữ nghĩa: Theo số liệu thống kê của Nguyễn Đức Tồn qua đối tượng phân tích là 251 tên gọi thì trong cấu trúc ngữ nghĩa tên gọi bộ phận cơ thể người tiếng Việt xuất hiện 10 dạng thông tin ( hay 10 loại nghĩa vị ) đó là : - Tên gọi chỉ loại (bộ phận chỉnh thể trực tiếp) trong trường từ vựng tiếng việt, tần số nghĩa vị này là 57% (143/251). Chẳng hạn: “đầu” - " phần trên cơ thể cùng thân thể con người", “tay” - " bộ phận cơ thể phía trên con người từ vai đến ngón tay". - Vị trí (các yếu tố cụ thể hoá ngữ nghĩa là : trên - dưới, trái phải, trong - ngoài, trước - sau...). Tần số nghĩa vị này trong tiếng Việt là 53% (134/251) có thể có vị trí tuyệt đối (" trên cùng", " phía trên") hoặc vị trí tương đối (chẳng hạn: dưới (cái gì), sau (cái gì). Ví dụ " lông mày" – “vệt lông mày hình cung ở trên hốc mắt”. - Chức năng bộ phận cơ thể: Nghĩa vị này chiếm 34% (85/251) trong trường, có thể có hai trường hợp: chỉ ra chức năng thực của bộ phận cơ thể người như: chức 15 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí năng tiêu hoá , bài tiết, tuần hoàn , hô hấp..., hay chỉ ra chức năng giả, chức năng biểu trưng của bộ phận cơ thể người như: bụng , dạ... biểu trưng ý nghĩa , tình cảm con người: tốt bụng, sáng dạ... - " Tính sở thuộc" (người hoặc động vật thuộc cả hai) của bộ phận cơ thể nào đó. Trong trường từ vựng tiếng Việt, nghĩa vị này chiếm 22% (55/251). Nghĩa vị này thường hàm ẩn trong siêu nghĩa vị " chỉnh thể trực tiếp ". Nó được biểu hiện tường minh khi trong ngôn ngữ có hai từ khác nhau, một từ biểu thị một bộ phận cơ thể người, từ kia biểu thị bộ phận cơ thể động vật, chẳng hạn "lông" - " những sợi đơn hay kép mọc ở ngoài da cầm thú hoặc da người". - Cấu trúc: tần số nghĩa vị này trong trường chiếm 19% (48/251) khi trong định nghĩa không dẫn ra " tên gọi chỉ loại" thì nghĩa vị "cấu trúc" được dùng thay thế cho siêu nghĩa vị này, chẳng hạn: " thuỷ tinh thể" - "bộ phận của mắt dưới dạng thấu kính trong suốt, lồi hai mắt, co giản được"; " lợi" - "mô cơ bao phủ chân răng". - Kích thước: Nghĩa vị này có tần số xuất hiện là 14% (35/251) có khả năng: chỉ ra đại lượng tuyệt đối như: “tá tràng” - " phần ruột non tiếp với dạ dày, dài chừng 12cm", hay chỉ ra đại lượng tương đối như: “tay” – “bộ phận phía trên cơ thể, từ vai đến ngón”. - Hình thức, hình dạng: Trong từ vựng tiếng Việt tần số nghĩa vị này là 11% (28/251) chẳng hạn: “nhãn cầu” – “phần chính của mắt, hình cầu, nằm trong hõm mắt”. - Thuộc tính vật lý: Nghĩa vị này chiếm 9% (23/251) trong trường từ chỉ bộ phận cơ thể người tiếng việt. Ví dụ: “thịt” - "phần mềm dưới da bao phủ xương trong cơ thể", "phần mềm của cơ thể người và động vật". - Màu sắc: 16 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Nghĩa vị này chỉ chiếm 4% (9/251) trong trường từ vựng chẳng hạn: "máu"- "chất lỏng màu đỏ chảy trong các mạch của cơ thể người và động vật". - Thời gian: chiếm tần số ít nhất trong các nghĩa vị, chỉ chiếm 0.8% (2/251). Ví dụ: "răng khôn" - "răng hàm thứ ba mọc sau 20 tuổi". Trong từ vựng ngữ nghĩa tên gọi bộ phận cơ thể người là "nhóm chức năng", cấu trúc của trường này được xây dựng theo bộ phận chỉnh thể (dẫn theo Nguyễn Đức Tồn, (tr 269)). Hạt nhân cấu trúc ngữ nghĩa của trường từ vựng chỉ bộ phận cơ thể người gồm siêu nghĩa " vị trí", "chức năng", " tính sở thuộc" (người , động vật, hoặc cả hai). Thuộc về ngoại vi của cấu trúc ngữ nghĩa trường này là các nghĩa vị còn lại: "cấu trúc", "kích thước", "hình thức", "thuộc tính vật lý", "thời gian”, "màu sắc". Cũng theo ý kiến của Nguyễn Đức Tồn qua việc phân tích, thống kê các định nghĩa từ điển thì các tên gọi bộ phận cơ thể con người được chia thành hai trường nhỏ: trường tên gọi bộ phận cơ thể người đúng nghĩa của từ (chẳng hạn: đầu, tay, tai, mắt, tim, ruột...) và trường tên gọi "khu vực " tên cơ thể người (ví dụ: vùng thóp, lỗ chân lông, huyết..), tiểu trường tên gọi bộ phận cơ thể người nằm ở hạt nhân, tiểu trường tên gọi " khu vực" trên cơ thể thuộc ngoại vi của trường từ vựng ngữ nghĩa chỉ bộ phận cơ thể người nói chung. * Về cấu tạo: Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập (hay phân tích tính). Vì vậy nó chi phối đến đặc điểm định danh trong ngôn ngữ này. Cách định danh theo lối phân tích đóng vai trò chủ đạo trong tiếng việt. Cho nên điều tất yếu là trong trường từ vựng - ngữ nghĩa tiếng việt chỉ bộ phận cơ thể người có gần 37.8% (150/397), những tên gọi bộ phận cơ thể người được xây dựng theo lối tạo từ ghép, chẳng hạn: tâm thất, lưỡng quyền, đồng tử, nhãn cầu... 17 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Tên gọi bộ phận cơ thể người là từ đơn tiết, được cấu tạo trên cơ sở sử dụng một tổ hợp âm tiết biểu thị đặc trưng nào đó được chọn lựa từ trong số các đặc trưng của bộ phận cơ thể người chỉ chiếm gần 27% (108/397) trong trường từ vựng ngữ nghĩa tiếng việt, chẳng hạn: thóp, sọ, gáy, tay, chân... Kiểu định danh theo kiểu đặc trưng ngữ hoá một cụm từ trong tiếng việt chiếm 29% (117/397). Ví du: tròng trắng, màng lưới, răng hàm, ngón trỏ, bàn tay... Như vậy xét từ phương tiện cấu tạo từ, trong trường từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt bộ phận cơ thể người định danh theo lối tạo từ ghép là chủ yếu. Tóm lại, từ chỉ bộ phận cơ thể người là lớp từ thuộc vốn từ vựng cơ bản, được sử dụng rộng rải trong giao tiếp, phát ngôn, lớp từ này có cấu trúc nghĩa phong phú , cấu tạo đa dạng, sử dụng từ chỉ bộ phận cơ thể là một nhu cầu tất yếu để con người bộc lộ hiểu biết về chính bản thân mình về thế giới. 2. Những nghiên cứu về con người trong nghệ thuật. Cái đẹp của thế giới tự nhiên khi đi vào trong Nghệ thuật, qua sự sáng tạo của con người đã trở nên rực rỡ, lung linh với muôn sắc màu khác nhau. Song có lẽ cái đẹp mà Nghệ thuật quan tâm và tập trung chú ý hơn cả là vẻ đẹp của con người. Vẻ đẹp hình thể của con người xưa nay luôn là đề tài hấp dẫn đối với nghệ thuật. Vì vậy ở mỗi môn Nghệ thuật có một cách thể hiện về vẻ đẹp hình thể con người khác nhau. Cụ thể là: 2.1. Con người trong điêu khắc. Trong hệ thống các loại hình nghệ thuật, nếu văn học là nghệ thuật sử dụng ngôn từ; âm nhạc dùng âm thanh; điện ảnh, sân khấu lấy cơ thể diễn viên làm chất liệu để phản ánh thể hiện cuộc sống thì mảng 18 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí khối của những vật liệu có sẳn trong tự nhiên( đất, gỗ, đá...) hoặc vật liệu nhân tạo (thạch cao, đồng...) lại trở thành vật liệu để xây dựng hình tượng của nhà điêu khắc. Vẻ đẹp hình thể của con người xưa nay luôn là một đề tài hấp dẫn đối với nghệ thuật nói chung và các nhà điêu khắc nói riêng. Pho tượng David của Michelangelo sống mải cùng thời gian bởi trong tác phẩm này, nhà điêu khắc đã thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo, tuyệt mỹ về hình thể con người. Đó là chân dung một chàng trai với thân hình lực lưởng, cân đối, đôi mắt gợi cảm mở to vừa điềm tỉnh vừa linh hoạt, sống mũi thẳng, vành môi dứt khoát...tất cả đều gợi lên vẻ đẹp, sức mạnh và hạnh phúc của tuổi trẻ, khiến cho người xem không khỏi kinh ngạc, xuýt xoa.(5,173). 2.2. Con người trong hội hoạ. Giống điêu khắc, hội hoạ cũng là nghệ thuật tạo hình, nhưng khác điêu khắc phản ánh hiện thực trong không gian ba chiều , hội hoạ phổ biến phản ánh hiện thực trên mặt phẳng với chất liệu màu sắc, hình khối. Vì thế không phải ngẫu nhiên, Leonardovinci coi hình khối là điều quan trọng nhất và cũng là linh hồn của hội hoạ. Bộ môn nghệ thuật này vì thế có mục đích tự thân mà nhằm biểu hiện tư tưởng, tình cảm của con người trong cuộc sống, chúng ta chiêm ngưỡng bức tranh Joconde của Leonardovinci không thể dững dưng và không khỏi đặt ra nhiều câu hỏi: Monalisa đã nghĩ gì trong đôi mắt, nụ cười kia là nụ cười vui hay buồn, khinh miệt hay hóm hỉnh... Tác giả đã tạo ra bức tranh rất đẹp và đầy ý nghĩa, mang tính tạo hình cao. (5.189). 2.3. Con người trong tác phẩm văn học. Nếu như hội hoạ, điêu khắc sử dụng màu sắc, đường nét, khối mảng... thì công cụ của văn học lại chính là ngôn từ. Bằng ngôn từ, văn học đã tạo nên những hình ảnh về con người thật đẹp, cụ thể như: 19 Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí Trong văn học Việt Nam thì “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã miêu tả vẻ đẹp " nghiêng nước, nghiêng thành" của chị em Thuý Kiều, Thuý Vân cũng đã làm rung động, thán phục biết bao thế hệ người đọc... bằng cảm nhận độc đáo của mình, Nguyễn Du đã khắc hoạ nên bức tranh về hình thể của hai chị em Thuý Kiều rất rõ với những câu thơ tiêu biểu như: Khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân tác giả đã vẻ lên vẻ đẹp phúc hậu của người phụ nữ: ...Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Còn khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều thì Nguyễn Du lại miêu tả với một vẻ đẹp hết sức độc đáo: Kiều càng sắc s¶o mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn Làn thu thuỷ, nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước , nghiêng thành Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai. Hay như tác giả Lê Anh Xuân đã miêu tả vẻ đẹp của cô du kích miền Nam: Em đẹp lắm mùa xuân bừng dậy Súng trên vai cũng đẹp như em Em ơi sao tóc em thơm vậy Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng Ta yêu giọng em cười trong trẻo Ngọt ngào như nước dừa xiêm. (5.175) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan