Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong phần chung b...

Tài liệu Tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong phần chung bộ luật hình sự

.PDF
114
184
135

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN MINH PHƯƠNG TÍNH NHÂN ĐẠO CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực khoa học, đồng thời tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của luận văn này. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN TRẦN MINH PHƯƠNG MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ........................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 3 3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................ 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 6 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 6 6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận văn ................................................... 7 7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍNH NHÂN ĐẠO ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ .... 9 1.1. Khái niệm, nội hàm và ý nghĩa tính nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam .. 10 1.1.1. Khái niệm, nội hàm tính nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam.......... 10 1.1.2. Ý nghĩa tính nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam ............................ 13 1.2 Khái niệm, nội hàm và ý nghĩa tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................. 15 1.2.1 Khái niệm, nội hàm tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......................................................................... 15 1.2.2 Ý nghĩa tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................................................ 19 1.3. Tính nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của luật quốc tế và pháp luật một số nước....................................................... 20 1.3.1. Tính nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy đinh của luật quốc tế................................................................................................... 20 1.3.2 Tính nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật một số nước .................................................................................. 24 1.4. Tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ ............................................ 29 1.4.1. Quan niệm về người dưới 18 tuổi phạm tội và chính sách pháp luật hình sự áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................... 29 1.4.2. Tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam trước năm 1985 ......................................................... 31 1.4.3. Tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ............................................................................................................. 37 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................. 44 Chương 2: SỰ THỂ HIỆN TÍNH NHÂN ĐẠO CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 ................................................. 45 2.1. Sự thể hiện tính nhân đạo trong quy định về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội ....................................... 48 2.2. Sự thể hiện tính nhân đạo trong các quy định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................ 52 2.3. Sự thể hiện tính nhân đạo trong quy định về các biện pháp xử lý chuyển hướng, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội . 61 2.4. Sự thể hiện tính nhân đạo trong các quy định về hình phạt, quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......... 66 2.5 Sự thể hiện tính nhân đạo trong các quy định khác của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ................... 72 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................. 75 Chương 3: SỰ THỂ HIỆN TÍNH NHÂN ĐẠO QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2014 - 2018 VÀ ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH NÀY TRONG TƯƠNG LAI.............. 78 3.1. Sự thể hiện tính nhân đạo qua thực tiễn áp dụng các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2014 - 2018 ............................................ 79 3.2 Những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân cơ bản trong việc áp dụng các quy định mang tính nhân đạo về người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội ....................... 87 3.2.1 Những tồn tại, vướng mắc ................................................................... 87 3.2.2 Những nguyên nhân cơ bản ................................................................. 92 3.3 Định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định mang tính nhân đạo về người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015. ................ 94 3.3.1. Hoàn thiện các quy định mang tính nhân đạo về người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015. .................................................... 94 3.3.2. Những giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015. ............................................................................................................ 97 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................................. 99 KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................... 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 102 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật Hình sự LHQ: Liên hợp quốc NCTN: Người chưa thành niên QĐHP: Quyết định hình phạt TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHS: Trách nhiệm hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSNDTC: Viện kiểm sát tối cao XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU Số hiệu bảng số liệu Tên bảng số liệu Trang Tổng thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của Tòa 3.1 Hình sự - Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giai 80 đoạn 2014 - 2018 Tổng thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm đối với 3.2 người dưới 18 tuổi phạm tội của hai cấp Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội 80 giai đoạn 2014 - 2018 Tổng số thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm có 3.3 người dưới 18 tuổi phạm tội và hình phạt được áp dụng của Tòa Hình sự - Tòa án nhân dân thành phố 82 Hà Nội giai đoạn 2014 - 2018 Cơ cấu loại tội phạm do người dưới 18 tuổi thực 3.4 hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2014 - 2018 82 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là hệ thống pháp luật hình sự để phù hợp với tình hình thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới cũng như đáp ứng yêu cầu đối với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở đó Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành các văn bản, tiêu biểu như các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005, các Kết luận của Bộ Chính trị như Kết luận số 79KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014; các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI, XII của Đảng... để chỉ đạo, định hướng việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó có các quy định pháp luật hình sự. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa sâu sắc quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân và là cơ sở quan trọng để các đạo luật về hình sự ghi nhận vấn đề này. Những năm qua, pháp luật nước ta đã thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong đó có nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược cải cách tư pháp đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Tuy nhiên, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn diễn biến hết sức phức tạp, với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, trong đó nhóm tội phạm do người dưới 18 tuổi (trước đây được gọi là người chưa thành niên) thực hiện ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất. Điều này đặt ra yêu cầu cần phải có những chính sách pháp luật hình sự phù hợp để vừa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật đối với tội phạm nói chung vừa đảm bảo tính nhân đạo trong việc giáo dục, phòng ngừa đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 1 Từ khi pháp điển hóa lần đầu tiên năm 1985, BLHS đã có những ghi nhận cụ thể về người dưới 18 tuổi phạm tội. Mặc dù còn nhiều hạn chế, tuy nhiên chính BLHS năm 1985 là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc sửa đổi và hoàn thiện các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong các đạo luật về hình sự sau này. Căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, BLHS có những quy định về việc áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm và người phạm tội, tuy nhiên dựa trên những yếu tố đặc thù như độ tuổi; giới tính; tình trạng hạn chế năng lực hành vi…mà BLHS có những chính sách riêng thể hiện tính nhân đạo, tính hướng thiện trong việc áp dụng quy định pháp luật hình sự để giải quyết vụ án. Trong đó các quy định đối với việc xử lý vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội thể hiện rõ nét nhất chính sách hình sự nhân đạo – là đặc trưng cơ bản của pháp luật hình sự Việt Nam trong chính sách xử lý tội phạm và người phạm tội. Trải qua ba lần pháp điển hóa năm 1985, năm 1999 và năm 2015 của BLHS, chế định người dưới 18 tuổi phạm tội luôn được quan tâm, tiếp thu những ý kiến đóng góp để sửa đổi và hoàn thiện, phù hợp với các quy định của Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Hiến pháp năm 2013, các văn bản pháp lý khác và thực tiễn tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện, thể hiện tính nhân đạo trong chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng cao hơn, sát hơn so với đặc điểm, sự phát triển về nhận thức và tác động của xã hội đối với đối tượng này. Bắt đầu từ BLHS năm 2015, thuật ngữ “người chưa thành niên” trong các BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 đã được nhà làm luật thay thế bằng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi”, như vậy người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi sẽ được hiểu là người chưa thành niên theo như các BLHS trước đây và để đảm bảo tính thống nhất trong việc nghiên cứu nội dung của Luận văn này, tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” thay cho thuật ngữ “người chưa thành niên” xuyên suốt luận văn kể cả các quy định của pháp luật quốc tế về người chưa thành niên cũng được thay đổi cho phù hợp; tác giả chỉ trừ những 2 đoạn trích nguyên văn từ tài liệu tham khảo của các tác giả khác, điều luật trong các Bộ luật hình sự (BLHS) sẽ giữ đúng nội dung. BLHS 2015 có cấu trúc bao gồm : Phần chung và Phần riêng. Tuy nhiên, do tính chất rộng lớn, đa dạng và phức tạp của những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như giới hạn phạm vi nội dung của luận văn. Vậy nên, trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ có thể đề cập đến những vấn đề nào liên quan đến Phần chung mà không đề cập đến các quy định của Phần riêng trong luận văn này. Để tiếp tục có những đánh giá, nhận xét mang tính chuyên sâu về tính nhân đạo của BLHS năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, tác giả chọn đề tài: “Tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong Phần chung Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội).” làm Luận văn thạc sĩ Luật học thấy là cấp thiết hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tính nhân đạo của BLHS là một trong những chính sách hình sự quan trọng của Nhà nước ta trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó thể hiện rõ nhất trong các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong thời gian qua, nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học và các tác giả đã có những công trình nghiên cứu liên quan đến các quy định của BLHS về người dưới 18 tuổi phạm tội, tuy nhiên chỉ ở mức độ khái quát chung trong chính sách hình sự, các nguyên tắc xử lý. Trong đó bao gồm các công trình sau: Trước hết về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: 1) “Chương XII – Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội”, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007 (Tập thể tác giả do GS.TSKH Lê Cảm chủ biên); 2) “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội“ giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân 2005; 3 3) TS. Trần Văn Biên – TS. Đinh Thế Hưng ,Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2017; 4) Đinh Văn Quế, Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015 lần thứ nhất,Nxb Thông tin và truyền thông năm 2017. Về luận án tiến sĩ có các đề tài: 1) “Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam” của tiến sĩ Hồ Sỹ Sơn năm 2007, Viện Nhà nước và pháp luật; 2) “Tội phạm ở lứa tuổi vị thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa)” của tiến sĩ Phạm Đình Chi năm 2005, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; 3) “Pháp luật về quyền của con người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam” của tiến sĩ Vũ Thị Thu Quyên 2015, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; 4) “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay” của tiến sĩ Hoàng Minh Đức năm 2016, Học viện Khoa học xã hội. Về luận văn thạc sĩ có các đề tài: 1) “Bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong tư pháp hình sự Việt Nam” của thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh năm 2008, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; 2) “Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của thạc sĩ Nguyễn Tiến Hoàn năm 2013, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; 3) “Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo trong luật quốc tế” của thạc sĩ Phạm Thị Hồng Xuyến năm 2015, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; 4) “Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự việt nam” của thạc sĩ Mai Chí Đức năm 2017, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội; 4 5) “Nguyên tắc nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam” của thạc sĩ Trần Thị Thùy Dương năm 2018, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội. Về các bài viết đăng tạp chí khoa học có: 1) “Những khía cạnh pháp lý hình sự về các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” của TS Trịnh Tiến Việt đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 13/2010; 2) “Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội và sự thể hiện trong Bộ luật hình sự” của Lê Thị Sơn đăng trên tạp chí Luật học số 3/2015. Dựa trên các kết quả nghiên cứu thực tế trên tác giả sẽ phân tích, đánh giá và tiếp thu các nội dung có giá trị khoa học phù hợp của các công trình này trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến luận văn; những quan điểm, luận điểm, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu đã được thừa nhận, được sử dụng trong các công trình nghiên cứu trên. Thông qua những nghiên cứu về lý luận, quy định pháp luật hình sự hiện hành và hoạt động thực tiễn của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc áp dụng các quy định của BLHS để giải quyết các vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội, tác giả sẽ chỉ ra những tồn tại và hạn chế. Trên cơ sở đó tìm ra những nguyên nhân, vướng mắc, đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung và thể hiện tính nhân đạo trong việc áp dụng những quy định của BLHS năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Do đó, luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà nghiên cứu khoa học luật nói chung và khoa học luật hình sự nói riêng, người tiến hành tố tụng và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Tư pháp hình sự, cũng như góp phần phục vụ hoạt động lập pháp và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay. 5 3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 3.1. Phương pháp luận nghiên cứu Phương pháp luận nghiên cứu của Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp luận khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Tội phạm học, Tâm lý học, Xã hội học với các phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong Phần chung BLHS năm 2015. 3.2. Phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài dựa trên quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, kết hợp với một số phương pháp khác theo yêu cầu của nội dung đề tài nghiên cứu. Tùy từng nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ áp dụng phương pháp nghiên cứu và lựa chọn địa điểm nghiên cứu cho phù hợp, đảm bảo hiệu quả, chất lượng cao nhất. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn là tính nhân đạo của các quy định trong Phần chung BLHS năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này trên địa bàn thành phố Hà Nội. Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu toàn diện các quy định thể hiện tính nhân đạo trong Phần chung BLHS năm 2015 liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội; mở rộng phạm vi nghiên cứu tính nhân đạo của các quy định trong Phần chung BLHS năm 2015 và chỉ ra sự thể hiện tính nhân đạo trong việc áp dụng pháp luật của các Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2014 - 2018. 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nội dung đề tài, Luận văn sẽ thực hiện những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây: 6 Thứ nhất, tiếp tục kế thừa, phát huy các kết quả của những quan điểm, công trình nghiên cứu đã được công bố trước đây từ đó đi đến thống nhất nhận thức chung về tính nhân đạo trong các quy định của BLHS năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Thứ hai, nghiên cứu và chỉ ra được những nội dung cơ bản về tính nhân đạo của các quy định trong Phần chung BLHS năm 2015 đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, phân tích quá trình hình thành và phát triển các quy định này từ thời kỳ trước năm 1985 và những lần pháp điển hóa BLHS, nghiên cứu pháp luật so sánh của một số quốc gia trên thế giới có nền pháp luật điển hình về tính nhân đạo trong các quy định của BLHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Thứ ba, tổng kết thực tiễn việc áp dụng các quy định trong BLHS về người dưới 18 tuổi phạm tội trên cơ sở số liệu thực tiễn công tác xét xử của hai cấp Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giai đoạn 2014 - 2018, từ đó chỉ ra những tồn tại, vướng mắc, nguyên nhân và định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định này trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận văn Thông qua những nghiên cứu về lý luận và phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng các quy định trong Phần chung BLHS năm 2015 về người dưới 18 tuổi phạm tội, tác giả chỉ ra những tồn tại, hạn chế. Trên cơ sở đó tìm ra những nguyên nhân, vướng mắc, đưa ra các giải pháp để định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định này trong thời gian tới cũng như nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định này trong BLHS năm 2015 về người dưới 18 tuổi phạm tội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các từ viết tắt, Danh mục các bảng số liệu và Phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 7 Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tính nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự. Chương 2. Sự thể hiện tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong Phần chung Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015. Chương 3. Sự thể hiện tính nhân đạo qua thực tiễn áp dụng các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2014 - 2018 và định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định này trong tương lai. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍNH NHÂN ĐẠO ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ Việt Nam là đất nước có lịch sử hình thành và phát triển trải qua hàng ngàn năm, có nền văn hóa đa dạng, phong phú nhưng vẫn thể hiện được bản sắc dân tộc với những nét đẹp truyền thống được giữ gìn và phát triển qua từng thế hệ. Nói tới truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, không thể không nhắc đến những tư tưởng, quan điểm đạo đức mang giá trị nhân văn, thể hiện đạo lý về tình thương con người bao trùm trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong việc xây dựng nền tảng của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng, tư tưởng nhân đạo càng được thể hiện sâu sắc hơn bao giờ hết. Tư tưởng này cũng được xác định là kim chỉ nam trong suốt lịch sử lập pháp qua các thời kỳ khác nhau mà nổi bật hơn cả là Bộ luật Hồng Đức thời kỳ phong kiến và các BLHS được pháp điển hóa từ năm 1985 cho đến nay. Tư tưởng nhân đạo trong pháp luật hình sự thể hiện bản chất của Nhà nước, chế độ thông qua việc ứng xử của Nhà nước đối với tội phạm và người phạm tội. Ở bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử hoặc ở các quốc gia trên thế giới, BLHS ra đời đều nhằm mục đích bảo vệ những giá trị cơ bản, cốt lõi như quyền con người, quyền công dân, chế độ chính trị…bị tội phạm xâm phạm. Tuy nhiên việc xử lý tội phạm không chỉ đơn thuần là trừng trị mà đó là một quá trình đấu tranh, cảm hóa, giáo dục đối với tội phạm. Chính vì vậy, tư tưởng nhân đạo luôn được ghi nhận trong các đạo luật hình sự để thể hiện quan điểm, chính sách của Nhà nước đối với việc xử lý tội phạm, thể hiện quan điểm cứng rắn, trừng trị cũng như sự khoan hồng, bao dung đối với những con người lầm lỡ vướng vào vòng lao lý. Qua những lần pháp điển hóa BLHS, tư tưởng nhân đạo trong việc xử lý người phạm tội đã được Nhà nước ta ghi nhận và ngày càng được bổ sung, 9 hoàn thiện cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta cũng như đáp ứng những đòi hỏi, yêu cầu trong các quy định quốc tế mà Việt Nam là thành viên ký kết hoặc tham gia. BLHS năm 2015 ra đời đánh dấu sự chuyển mình quan trọng trong việc xây dựng BLHS mang tính hướng thiện cao hơn, đảm bảo tối đa quyền con người, quyền công dân. Theo đó, một trong những nội dung trọng tâm được đề cập đến trong quá trình xây dựng và hoàn thiện trong BLHS năm 2015 đó chính là việc xác định các đối tượng ưu tiên được hưởng chính sách nhân đạo của nhà nước khi phạm tội hoặc khi xét xử được quan tâm bao gồm: Phụ nữ có thai, người dưới 18 tuổi, người già... Đặc biệt đối với đối tượng là người dưới 18 tuổi, xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý và những giới hạn trong nhận thức, BLHS năm 2015 đã có sự điều chỉnh mạnh mẽ trong chính sách hình sự. So với các BLHS trước đây, BLHS năm 2015 đã được sửa đổi theo hướng bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi phạm tội, trên tinh thần bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng. Vì vậy, để tiếp tục có những phân tích, đánh giá sâu hơn về tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật hình sự Việt Nam chúng ta cần nghiên cứu một cách tổng thể về mặt lý luận của quy phạm này. 1.1. Khái niệm, nội hàm và ý nghĩa tính nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm, nội hàm tính nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam Tư tưởng nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và nhà nước ta thể hiện đường lối xử lý đối với các tội phạm được xác định trên cơ sở coi trọng cả mục đích trừng trị và giáo dục, phòng ngừa tội phạm, trong đó mục đích giáo dục người phạm tội, đề cao tính hướng thiện luôn được đặt lên hàng đầu. Từ xưa đến nay, pháp luật hình sự Việt Nam luôn coi trọng và đề cao tính nhân đạo trong việc xử lý tội phạm và người phạm tội, trong đó người già và trẻ em luôn là đối tượng được pháp luật đặc biệt chiếu cố. Quốc triều hình luật 10 của thời Nhà Lê có quy định đặc biệt chiếu cố đối với người già, trẻ em, người tàn tật và phụ nữ phạm tội. Tồn tại với ý nghĩa xã hội sâu sắc, quan trọng, tính nhân đạo thể hiện đầy đủ nhất tư tưởng giữa con người với con người về lòng yêu thương cũng như mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong các quan hệ xã hội mà trong đó có lĩnh vực pháp luật hình sự. Theo đại từ điển tiếng Việt thì nhân đạo là “đạo đức thể hiện tình thương yêu với ý thức tôn trọng giá trị, phẩm chất của con người” [19, tr.1238]. Nhân đạo được hiểu theo nghĩa là đường đi của con người, đạo làm người. Con đường đó còn gọi là đạo lí, đạo lí là phải tôn trọng quyền lợi chính đáng của con người, không được xâm phạm đến sinh mệnh, thân thể, sự tự do về tư tưởng cũng như tình cảm của con người, thể hiện sự yêu thương, quý trọng giá trị con người. Xã hội loài người luôn có sự vận động không ngừng để phát triển, trong đó các giá trị cốt lõi luôn được tôn trọng và gìn giữ qua thời gian. Bất cứ một xã hội nào cũng tôn vinh cái đẹp, cái tốt, cái nhân văn, luôn hướng đến xây dựng một Nhà nước với sự hoàn thiện cao nhất mà ở đó người dân được sống trong một xã hội lành mạnh, an toàn và được đối xử một cách công bằng. Bởi vậy những giá trị về mặt đạo đức luôn có “đất lành” để phát huy hiệu quả, từ đó cùng với các công cụ quản lý xã hội khác của Nhà nước để điều chỉnh hành vi của con người theo một khuôn khổ, đúng mực và hài hòa. Thực tiễn cho thấy pháp luật và đạo đức đã hình thành nên một phạm trù mang tính chất căn cơ, và mang tính ràng buộc đối với hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới đó là tính nhân đạo. Pháp luật và nhân đạo luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau từ đó hình thành nên các giá trị đời sống mang tính tích cực. Trong đó tính nhân đạo sẽ là nhân tố tác động đến việc hình thành và hoàn thiện hệ thống pháp luật cơ bản của quốc gia, dân tộc mà nổi bật hơn cả đó là pháp luật hình sự; ngược lại pháp luật hình sự được xây dựng trên nền tảng tính nhân đạo sẽ thể hiện được bản chất Nhà nước trong việc đấu tranh chống tội 11 phạm cũng như đảm bảo nguyên tắc phòng ngừa chung. Bên cạnh đó, việc pháp luật thực định ghi nhận tính nhân đạo sẽ củng cố và giữ gìn, phát huy những giá trị cốt lõi trong đời sống xã hội nói chung và đời sống pháp lý nói riêng. Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, vấn đề nhân đạo đã được đề cập đến rất nhiều, nó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển, hoàn thiện của pháp luật hình sự qua các thời kỳ mà BLHS là văn bản thể hiện rõ nhất chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước trong việc xử lý tội phạm và người phạm tội. Trong khoa học pháp lý hình sự, các tác giả đã chỉ ra biểu hiện của tính nhân đạo trong chính những nguyên tắc cơ bản của BLHS, và cũng từ đó đã có nhiều tác giả đưa ra được khái niệm tính nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam như Phạm Văn Tỉnh nhận định nhân đạo là “với cái đức yêu thương con người, trên cơ sở tôn trọng phẩm giá, quyền và lợi ích của con người, nhân đạo là phạm trù khoa học xã hội học và là một giá trị xã hội được sản sinh trong quá trình đấu tranh chống cái ác của loài người, đặc biệt trong thời kỳ đấu tranh vì tự do, bình đẳng” [45, tr.29] hay như TS. Hồ Sỹ Sơn đưa ra khái niệm về nhân đạo như sau: “Ở nghĩa rộng, nhân đạo được hiểu là sự thừa nhận cá nhân là một giá trị, khẳng định lợi ích của con người là tiêu chí đánh giá các quan hệ xã hội. Vấn đề nhân đạo, vì vậy là vấn đề con người, liên quan đến tất cả mọi người. Ở nghĩa hẹp, nhân đạo được hiểu là sự yêu thương, quý trọng con người, là sự đối xử nhân từ, có tình người đối với họ” [40, tr.24]. Dù có hiểu theo nghĩa nào đi chăng nữa thì nhân đạo chính là vốn quý của con người, xuất phát từ bản chất yêu thương đồng loại, tôn trọng những giá trị tốt đẹp để hướng đến một xã hội công bằng, văn minh. Trên cơ sở những quan niệm của con người về tính nhân đạo trong đời sống xã hội cũng như trong khoa học pháp lý hình sự, tác giả đưa ra quan điểm cá nhân về tính nhân đạo trong luật hình sự như sau: “tính nhân đạo trong luật hình sự là sự thể hiện trong luật hình sự các quan điểm, thái độ của 12 Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo vệ các giá trị của con người, mong muốn đem lại những điều tốt đẹp nhất đối với con người” Xuất phát từ những khái niệm và luận giải của tác giả về tính nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam có thể chỉ ra nội hàm của tính nhân đạo như sau: Thứ nhất, tính nhân đạo trong luật hình sự đối với người phạm tội chủ yếu thể hiện qua các quy định về khoan hồng đối với người phạm tội trong chính sách xử lý. Thứ hai, tính nhân đạo được thể hiện đầy đủ và cụ thể nhất thông qua việc đặt ra các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, xem xét nhân thân, điều kiện hoàn cảnh phạm tội, hình phạt và quyết định hình phạt… Thứ ba, tính nhân đạo ghi nhận các giá trị của con người, tôn trọng và bảo vệ tối đa quyền con người, sự khoan hồng đối với người phạm tội bằng công lý và sự công bằng của xã hội. 1.1.2. Ý nghĩa tính nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam Nhân đạo là một phạm trù lịch sử cụ thể và tính giai cấp. Khi xã hội loài người phân chia giai cấp thì bắt đầu có sự bất bình đẳng, chính điều này đã nảy sinh ra các phong trào đấu tranh chống lại cái ác, đòi quyền tự do, bình đẳng giữa con người với con người với nhau. Chính từ đây “nhân đạo” cũng xuất hiện như là sự ghi nhận những giá trị cốt lõi của xã hội và là một trong những lý do để khi Nhà nước và Pháp luật ra đời thì nhân đạo đã được ghi nhận một cách chính thống và rộng rãi. Mỗi xã hội khác nhau hay nói cách khác mỗi Nhà nước khác nhau có quan niệm về tính nhân đạo khác nhau do các điều kiện kinh tế, văn hóa xã hội của các xã hội tương ứng quyết định. Trên cơ sở các yếu tố khác nhau đưa lại đã hình thành nên tư tưởng nhân đạo từ hạt nhân nhỏ nhất đó là mỗi con người đến nhóm người và lan rộng đến từng hệ thống pháp luật và toàn xã hội, do vậy ngay cả trong một xã hội nhất định đã không có và không thể có sự nhận thức và quan niệm thống nhất về nhân đạo. Mặt khác, tính nhân đạo còn được thể hiện ở các quan niệm truyền 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan