Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tính nữ trong tập thơ không bao giờ là cuối của xuân quỳnh...

Tài liệu Tính nữ trong tập thơ không bao giờ là cuối của xuân quỳnh

.PDF
60
165
84

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho em được thực hiện khóa luận tốt nghiệp này, đây là một cơ hội tốt để cho em bước đầu hình thành các kĩ năng nghiên cứu khoa học. Em cũng xin kính gửi lời cảm ơn chân thành đến giảng viên hướng dẫn Dương Thị Thúy Hằng trong suốt thời gian vừa qua đã nhiệt tình chỉ dạy, giúp đỡ để em hoàn thành tốt bài khóa luận tốt nghiệp này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn và xin kính chúc quý thầy cô sức khỏe, hạnh phúc. LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, xuất phát từ những yêu cầu trong việc học tập để hình thành định hướng nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên Dương Thị Thúy Hằng. Trong khóa luận, các dẫn chứng đều có nguồn gốc rõ ràng, được trình bày tuân thủ đúng nguyên tắc. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong khóa luận là trung thực chưa từng được ai công bố trước đây. Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung trình bày trong khóa luận này. Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2014 Tác giả khóa luận Tạ Thị Thanh Tân MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu............................................................................. 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 4 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 4 6. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 4 7. Đóng góp của khóa luận ........................................................................ 4 8. Bố cục khóa luận .................................................................................. 5 Chương 1: GIỚI THUYẾT CHUNG ............................................................. 6 1.1.Vấn đề tính nữ trong văn học ............................................................... 6 1.2 Xuân Quỳnh – Cuộc đời – Duyên nợ thơ ca........................................... 8 1.2.1 Cuộc đời...................................................................................... 8 1.2.2 Duyên nợ thơ ca – Quan niệm thơ ca ............................................ 10 1.2.3 Tuyển thơ Không bao giờ là cuối ................................................. 12 Chương 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH – HIỆN THÂN CỦA TÍNH NỮ TRONG TẬP THƠ “KHÔNG BAO GIỜ LÀ CUỐI” ........................................................ 14 2.1 Cái tôi yêu thương, dâng hiến............................................................. 14 2.2 Cái tôi âu lo, ám ảnh ......................................................................... 18 2.3 Cái tôi chở che, gắn bó ...................................................................... 24 Chương 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN TÍNH NỮ TRONG TẬP THƠ “KHÔNG BAO GIỜ LÀ CUỐI”................................................................. 27 3.1 Ngôn ngữ và giọng điệu thơ giàu tính nữ............................................. 27 3.1.1 Ngôn ngữ................................................................................... 27 3.1.2 Giọng điệu ................................................................................. 32 3.2 Biểu tượng ....................................................................................... 39 3.3 Không gian nghệ thuật – Thời gian nghệ thuật ..................................... 48 3.3.1 Không gian nghệ thuật ................................................................ 49 3.3.2 Thời gian nghệ thuật ................................................................... 52 KẾT LUẬN .............................................................................................. 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 57 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xuân Quỳnh – cái tên không hề xa lạ trong làng thơ Việt Nam sau 1975, là một nữ thi sĩ có vị trí xứng đáng trong dàn thơ trẻ kháng chiến chống Mỹ. Bà có sự định hình phong cách với bản sắc riêng rất rõ nét. Trải qua những năm tháng sống và viết, lao động nghệ thuật hết mình, bà đã để lại cho đời một di sản thơ ca thật đáng quý. Thơ Xuân Quỳnh hấp dẫn bạn đọc không chỉ vì cái hay cái đẹp của nghệ thuật mà còn là vì chất nữ tính đằm thắm in hằn trong mỗi câu thơ. Đó là những rung cảm, khát khao yêu thương dâng hiến và còn là những lo âu trăn trở của một người phụ nữ đã trải qua nhiều sóng gió trong cuộc đời. Tìm hiểu về tính nữ trong thơ Xuân Quỳnh chính là tìm hiểu một đặc điểm quan trọng về nội dung trong các sáng tác của thi sĩ. Tuyển thơ Không bao giờ là cuối chọn lọc những sáng tác đặc sắc nhất trong đời thơ nữ sĩ Xuân Quỳnh. Ở tuyển thơ này, chúng ta bắt gặp những bài thơ cả quen và lạ của nữ sĩ. Từ những bài thơ tình yêu đạt tới đỉnh cao khiến bao thế hệ bạn đọc đắm say như: Sóng, Tự hát, Chỉ có sóng và em…đến những vần thơ mang nặng nỗi trăn trở ưu tư về cuộc đời giữa “Những năm tháng không yên” của lòng người và của đất nước một thời “Tuổi trẻ đấy khói bom/ Tuổi trẻ đấy bùn đất/ Trong chiến hào dằng dặc nắng miền Trung/ Tuổi trẻ sang bên kia Trường Sơn” [11, tr137]. Trong tập thơ ta còn gặp những trang viết dành cho thiếu nhi rất nồng hậu, tươi vui với Bầu trời trong quả trứng, Tuổi Ngựa, Bay cao,… Tập thơ đã đi vào lòng người đọc, trở thành tiếng nói tâm tình về những ngọt bùi cay đắng ở đời, tiếng nói của tình yêu và tình mẫu tử hồn hậu, dung dị mà thiêng liêng. Những vần thơ ấy đã gieo vào lòng người đọc một tình yêu cuộc sống, tình yêu con người thiết tha. Với niềm yêu thích và mong muốn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh nói chung và về tuyển thơ Không bao giờ là cuối nói riêng, chúng tôi lựa chọn vấn đề tính nữ trong tập thơ Không bao giờ là cuối của nữ sĩ Xuân Quỳnh làm đề tài khóa luận cho mình. Chúng tôi hi vọng kết quả tìm hiểu của khóa luận này sẽ góp phần hữu ích vào việc tìm hiểu về thơ của bà. 1 2. Lịch sử vấn đề Khi người phụ nữ làm thơ, tác phẩm của họ thường được soi chiếu từ cái nhìn đặc điểm giới. Vi mạch sáng tạo trong thế giới thơ của những cây bút nữ bám rễ vào đặc điểm giới để đồng vọng và tự hóa giải những tâm hồn đa cảm. Ở Xuân Quỳnh, cái thiên tính nữ ấy chiếm hữu cả tâm hồn, cuộc đời và thơ bà. Đời và thơ Xuân Quỳnh chỉ là một. Đã có một số bài nghiên cứu đề cập đến cái phần nữ tính thiêng liêng trong thơ Xuân Quỳnh. Ngay từ tập thơ đầu tay in chung với Cẩm Lai Tơ tằm – Chồi biếc, thơ Xuân Quỳnh đã gây được sự chú ý với giới nghiên cứu, phê bình văn học. Lê Đình Kỵ trong bài Tơ tằm và chồi biếc đăng trên tạp chí Nghiên cứu khoa học số 1/1964 cũng đánh giá thơ Xuân Quỳnh “nhẹ nhàng, trong sáng, xinh xắn như một điệu múa dân tộc” [2, tr20]. Trong cuộc trao đổi về thơ Xuân Quỳnh năm 1984, Vương Trí Nhàn và Phạm Tiến Duật cũng đã phát biểu rằng: Ngày từ những tập thơ đầu tay, Xuân Quỳnh đã thể hiện: “Một sự chủ động mà chỉ người phụ nữ ngày nay mới có: những ao ước nhức nhối về hạnh phúc lứa đôi và sẵn sàng “giương vây” gìn giữ bằng được” [7, tr13]. Sau đó, bài viết Cánh chuồn trong giông bão của tác giả Chu Văn Sơn về thơ Xuân Quỳnh hàm chứa một cái nhìn tinh tế về thiên tính nữ trong sáng tác của nhà thơ này. Hình ảnh cánh chuồn bé bỏng, mỏng manh mang tin bão trong thơ Xuân Quỳnh cho tác giả ấn tượng về một trái tim thơ “cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biển giông và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi…” [12, tr21], luôn khắc khoải cái khao khát được chở che và gắn bó. Đóng góp mới của Chu Văn Sơn khi tiếp cận thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh nằm ở khái niệm chất thơ từ tổ ấm. Cùng với nỗi phấp phỏng, lo âu chiếm lĩnh điệu hồn Xuân Quỳnh, Chu Văn Sơn đã định danh cho con người này là “người đàn bà của muôn thuở” [12, tr22]. Bước vào thi giới Xuân Quỳnh là bước vào tòa lâu đài tâm hồn của một “Người đàn bà yêu và làm thơ” [3, tr228] – Đoàn Thị Đặng Hương. “Từ những bài thơ của thủa ban đầu còn nhiều hồn nhiên, mộc mạc và cả sự non nớt trong nghệ thuật đến những bài thơ đã già dặn, đã đi vào độ chín của một phong cách thơ đều lắng sâu những nỗi đau thầm kín: những nỗi đau và trăn trở của một cuộc đời và một số phận nghệ thuật của người đàn bà làm thơ” [3, tr228]. Tác 2 giả khẳng định “Những bài thơ tình của Xuân Quỳnh có một nhan sắc riêng, chân thật và đam mê mãnh liệt” [3, tr238]. Đây chính là “tiếng thơ rất sớm của một người con gái, một người đàn bà đã chủ động yêu và đòi quyền được yêu” [3, tr236]. Đây cũng chính là chân dung, con đường tình yêu – nghệ thuật Xuân Quỳnh đã đi và cống hiến cho đời. PGS.TS Lưu Khánh Thơ trong bài viết Xuân Quỳnh – Cuộc đời gửi lại trong thơ cũng có nhận định tương tự: “Dù đi vào những vấn đề lớn của đất nước hay trở về với những tình cảm riêng tư, thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng là tiếng nói rất riêng của một tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc sảo, đầy nữ tính” [11, tr267]. Song do dung lượng và tính chất của bài viết, tác giả chưa có dịp khơi sâu chất nữ tính trang trải suốt thế giới nghệ thuật của người phụ nữ tài hoa ấy. Nhìn chung cũng đã có những bài viết chạm vào mạch nữ tính trong thơ Xuân Quỳnh từ một vài phương diện cụ thể. Từ nhận định “cốt lõi của nữ tính là mẫu tính”, Thụy Sao trong bài viết Thơ Xuân Quỳnh – tiếng nói của tình yêu và tình mẫu tử (http://www.phunu.hochiminhcity.gov.vn) đã soi vào thơ bà mà thấy được ngọn lửa nồng ấm mà người mẹ Xuân Quỳnh đã thắp lên. Bản năng của một người phụ nữ hạnh phúc trong thiên chức làm mẹ đem đến cho thơ Xuân Quỳnh những lời ru ấp ủ tình thương. Cái thiên tính nữ ấy khiến Xuân Quỳnh có thể đi sâu vào thế giới tuổi thơ, thấu cảm đến tận đáy lòng những tâm tư của con trẻ. Hình ảnh một Xuân Quỳnh đậm chất nữ tính đôi khi được nhìn ngắm từ một tác phẩm thơ riêng lẻ. Nhiều tác giả đứng ở tiêu điểm của khát vọng nhân văn mà phân tích cắt lớp chiều sâu tư tưởng và kết cấu nghệ thuật của bài thơ Sóng, để bắt gặp ở đó những gì thuộc về cảm xúc tinh tế của tình yêu, khát khao tình yêu vừa hồn nhiên, chân thực, vừa mãnh liệt, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đôn hậu và đằm thắm. Song hầu như các công trình, bài viết trên chỉ mới đề cập đến yếu tố nữ tính trong thế giới thơ Xuân Quỳnh từ vài khía cạnh và nét biểu hiện riêng lẻ mà chưa có được cái nhìn bao quát, toàn diện. Đề tài nghiên cứu của chúng tôi chính là sự tiếp nối những suy nghĩ của các nhà nghiên cứu ở trên. Qua tuyển thơ Không bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh để chỉ ra thiên tính nữ độc đáo từ nguyên lí mẹ muôn thuở mà thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện thành tiếng nói nghệ thuật thao thức và ám ảnh tâm linh. 3 3. Mục đích nghiên cứu Nắm vững được các mảng kiến thức xoay quanh vấn đề “tính nữ” trong thơ ca Việt Nam. Có cái nhìn hệ thống, cụ thể về cuộc đời, sự nghiệp thơ ca của nữ sĩ Xuân Quỳnh và đặc biệt là về tinh tuyển Không bao giờ là cuối Thấy được những đặc điểm, phương diện của tính nữ biểu hiện trong tập thơ Không bao giờ là cuối, đồng thấy được sự ảnh hưởng của yếu tố tính nữ cũng như giá trị của nó trong tập thơ. Tích lũy kiến thức cần thiết giúp ích cho việc giảng dạy về thơ Xuân Quỳnh sau khi ra trường. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đề ra, đề tài phải thực hiện được các nhiệm vụ sau: Tập hợp những vấn đề lý thuyết có liên quan tới đề tài Khảo sát, thống kê và phân loại các đặc điểm, biểu hiện của tính nữ trong tập thơ Không bao giờ là cuối Phân tích các đặc điểm để thấy được giá trị nghệ thuật của nó 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Tập thơ Không bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh Phạm vi nghiên cứu: Sự đặc sắc, khác biệt của tính nữ trong Tập thơ Không bao giờ là cuối của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh 6. Phương pháp nghiên cứu Do tính chất và nhiệm vụ khoa học mà đề tài đặt ra, tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp như sau: Phương pháp thống kê – phân loại Phương pháp phân tích – tổng hợp. Phương pháp so sánh – chứng minh. 7. Đóng góp của khóa luận Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn như sau: 4 Về mặt lý luận: Giải quyết tốt vấn đề của đề tài góp phần bổ sung,làm rõ sự ảnh hưởng của đặc điểm giới đến sự định hình phong cách của tác giả, sự thể hiện chiều sâu tư tưởng và yếu tố thẩm mỹ – nghệ thuật trong sáng tác. Về mặt thực tiễn: Từ sự thống kê, đi sâu phân tích thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, khóa luận chỉ ra một phương diện tiêu biểu góp phần tạo nên phong cách của nhà thơ nữ hàng đầu nửa cuối thế kỉ XX ở cả hai khía cạnh nội dung và nghệ thuật đó là tính nữ, đồng thời giúp cho bạn đọc yêu thơ Xuân Quỳnh có thêm cơ sở để khám phá, cảm nhận những trang viết của nữ sĩ. 8. Bố cục khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khóa luận này gồm ba chương: Chương 1: Giới thuyết chung Chương 2: Cái tôi trữ tình – hiện thân của tính nữ trong tập thơ Không bao giờ là cuối Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện tính nữ trong tập thơ Không bao giờ là cuối 5 Chương 1: GIỚI THUYẾT CHUNG 1.1 Vấn đề tính nữ trong văn học Để có một cái nhìn tổng quát và khoa học đối với vấn đề Tính nữ trong tập thơ Không bao giờ là cuối của Xuân Quỳnh, chúng ta cần nắm được những kiến thức cơ bản liên quan: Giới tính, Tính nữ, Thiên tính nữ, Nguyên lí tính mẫu, nữ tính vĩnh hằng… Nói tới vấn đề tính nữ trước hết cần hiểu về giới tính. Giới tính là một vấn đề mang tính khoa học. Từ thủa Adam, Eva đến nay, loài người luôn ý thức tới vấn đề giới tính, đây là vấn đề mang tính xã hội, tính thẩm mỹ trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Giới tính là hiện tượng tự nhiên có liên quan đến mọi khía cạnh của cuộc sống. Hơn thế nữa, yếu tố giới tính còn là một trong những vấn đề quyết định sự sinh tồn của xã hội loài người. Tuy nhiên giới tính lại là vấn đề tế nhị, riêng tư, nên thật khó mà bày tỏ cùng người khác và khó mà có thể nói lên một cách trực tiếp để mọi người cùng biết – nhất là giới tính nữ. Do đó từ trước đến giờ người ta nhiều khi coi đó là một thứ cấm kị, tránh nói đến, nhất là ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Nói tới giới tính tức nói tới giới Nam và giới Nữ, về mặt sinh học, trong ba tuần đầu, thai nhi có hình thức của một bé gái, các tuần lễ sau đó mới bắt đầu hình thành giới, phân chia thành trai hay gái, loài người đã bắt đầu lịch sử của mình bằng chế độ mẫu hệ. Tuy nhiên từ khi coi Eva được sinh ra từ cái xương sườn của Adam, người ta lại mặc nhiên coi vai trò của nữ giới là vai trò bị lệ thuộc và bị chi phối bởi nam quyền. Và với hành vi xúi giục Adam ăn trộm táo thần, Eva bị coi là nguồn gốc của tội lỗi. Trên thế giới, một trong các quy định nghiêm ngặt của các nước Hồi giáo đó là: Phụ nữ phải che mặt khi ra đường, bên cạnh đó một số nước thì lại có tục thờ Mẫu rất phát triển, vai trò của người phụ nữ được đề cao “Lệnh ông không bằng cồng bà”. Tóm lại, giới tính là một vấn đề phức tạp. Nó gắn liền với ý thức hệ, chính trị, tôn giáo của từng vùng, miền văn hóa khác nhau nhưng nó đều được thể hiện rõ qua ngôn ngữ và văn học. Nguyên lí tính Mẫu trước hết là tụng ca những phẩm chất huyền diệu của người mẹ – mang bầu, sinh con, nuôi con. Theo quan niệm huyền thoại, người phụ nữ được xem là biểu tượng của vũ trụ, chứa đựng sức mạnh vĩ đại của vũ trụ. Trong cơ thể họ, mầm sống tự nhiên được sinh ra và phát triển nhờ hấp thụ chất sống từ chính họ. Họ trở thành Thánh Mẫu nhờ vai trò kép: vừa là người 6 mẹ, vừa là trinh nữ. Nguyên lí tính Mẫu có nguồn gốc từ truyền thống trọng Mẫu, tôn thờ Mẫu tồn tại từ rất lâu trong văn hóa loài người. Đối với nền văn hóa gốc nông nghiệp của Việt Nam, vai trò của nữ giới càng được đề cao bởi phẩm chất đảm đang, khéo léo. Trong tâm thức dân gian Việt, người mẹ có vai trò, vị trí quan trọng nhất: “Con dại cái mang”, “Cha sinh không tày mẹ dưỡng”, “Phúc đức tại Mẫu” (Tục ngữ). Trong một trường nghĩa nhất định, cụm từ nữ tính vĩnh hằng còn được gọi là Người Đàn Bà Vĩnh Cửu (V. Soloviev), Gái Muôn Đời (Đinh Hùng) hay Người Nữ Vĩnh Cửu (Nhật Chiêu). Điều đó có nghĩa là, nữ tính luôn có khả năng vượt thoát khỏi sự chế ngự của thời gian, mang thông điệp về vẻ đẹp nhân thế được bảo lưu, tái hiện và tái sinh. Tính nữ, hay chính là thiên tính nữ, hiểu một cách đơn giản là tính mềm mại, uyển chuyển của người phụ nữ. Đó là những phẩm chất tạo hóa ban tặng chỉ riêng cho nữ giới, những phẩm chất ấy làm nên vẻ đẹp và sự đặc biệt cho họ so với nửa kia còn lại của loài người. Trở về với tính nữ là trở về với sự an nhiên, hồn nhiên, chất phác của tâm tính. Nguồn cội của tính nữ lại gắn với các thiên chức cao quý của Eva. Như một sự thôi thúc tất yếu của bản năng, bất kì người đàn bà nào được sinh ra cũng biết cách mang nặng đẻ đau, chăm bẵm và lo lắng cho con cái đến cuối cuộc đời. Họ làm cho sự sống của con người sinh sôi nảy nở nhờ khả năng sinh sản. Người phụ nữ được tạo ra để làm tròn thiên chức của người mẹ, người vợ. Thiên chức đó cùng những chế định về tình cảm đặt người phụ nữ vào môi trường hình thành các tính cách, phẩm chất đặc trưng khác biệt so với nam giới. Thủy chung, giàu đức hy sinh, dịu dàng, bao dung là nét đẹp phẩm hạnh nổi bật của tính nữ. Nghệ thuật suy cho cùng là hành trình đi tìm và khám phá cái Đẹp. Người phụ nữ với vẻ đẹp phẩm chất đặc trưng của giới mình luôn là đối tượng thẩm mỹ của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, trong đó có văn học. Bắt rễ từ nền tảng văn hóa vốn coi trọng người phụ nữ, văn học Việt Nam đã xác tín cho vẻ đẹp phái tính của nữ giới bằng hệ thống những tác phẩm có tính ngợi ca: Thơ Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Tắt đèn, Người mẹ cầm súng, Hòn đất, Người con gái Việt Nam… Hình tượng người phụ nữ Việt Nam dù được phản ánh ở thời kì nào cũng là sản phẩm của ý thức tôn thờ thiên tính nữ vĩnh hằng. 7 1.2 Xuân Quỳnh – Cuộc đời – Duyên nợ thơ ca 1.2.1 Cuộc đời Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1942 tại làng La Khê, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Đây vùng quê nằm bên bờ sông Nhuệ hiền hòa, vùng quê có những mái chùa cổ kính, những con đường lát gạch, những lũy tre xanh và đặc biệt đây là làng quê nổi tiếng với nghề dệt the, dệt gấm. Những ngày thơ ấu, Xuân Quỳnh lớn lên cùng những tiếng hát, tiếng lách cách đưa thoi của những người thợ dệt, thợ quay tơ. Cái không gian quê mùa thôn dã ấy đã bao bọc, chở che tâm hồn thơ ngây và bất hạnh của Xuân Quỳnh ngay từ thủa bé thơ. Sinh ra trong một gia đình công chức nhỏ. Cha Xuân Quỳnh là ông Nguyễn Quang Thưởng (mọi người thường gọi là giáo Lục), ông là người lãng mạn, từng sáng tác văn chương, viết báo, dạy học. Sau khi mẹ Xuân Quỳnh mất, ông lấy vợ lẽ và có thêm bốn người con. Vì mâu thuẫn gia đình ông để hai chị em Xuân Quỳnh ở với bà nội rồi đưa vợ lẽ và các con vào Sài Gòn sống. Ông mất tại Sài Gòn. Mẹ là bà Nguyễn Thị Trích, bà lấy cha Xuân Quỳnh khi mới 17 tuổi. Năm 31 tuổi, sau khi sinh Xuân Quỳnh ít lâu bà qua đời vì bệnh lao. Có thể nói ngay từ khi sinh ra Xuân Quỳnh đã là đứa trẻ bất hạnh, côi cút, thiếu thốn tình yêu thương. Cuộc sống côi cút – nỗi đau mồ côi mẹ ám ảnh cả đời nhà thơ, sống cuộc đời mồ côi khiến nữ sĩ hiểu tình mẫu tử thiêng liêng và quý giá đến nhường nào đối với trẻ thơ. Cuộc sống nhọc nhằn bên người bà nội khắc khổ đã dạy cho Xuân Quỳnh những khéo léo từ thuở ấu thơ. Những yêu thương của bà đã vun đắp cho Xuân Quỳnh một tâm hồn đầy nữ tính: chu đáo, sớm lo âu hay trắc ẩn, Bù đắp cho những thiếu thốn về vật chất, bà cho Xuân Quỳnh cả một kho truyện cổ, tục ngữ, ca dao, những khúc Kiều, truyện thơ Nôm… Học hết tiểu học, Xuân Quỳnh ở nhà với bà rồi tham gia hoạt động văn nghệ thiếu nhi với bộ đội địa phương. Tháng 2 năm 1955, cô bé Xuân Quỳnh được tuyển vào đội múa của đoàn Văn công nhân dân Trung ương. Để lại sau lưng bờ sông Nhuệ hiền hòa, ngôi nhà ngói cổ năm gian, bà nội và những kỉ niệm tuổi ấu thơ Xuân Quỳnh đã hòa nhập cuộc đời mình vào đời sống nghệ thuật rộng lớn của đất nước. Đó là những ngày tháng náo nức của Xuân Quỳnh. Từ một cô bé mồ côi Xuân Quỳnh trở thành một diễn viên múa. Con đường nghệ thuật múa rộng mở: Xuân Quỳnh được đi biểu diễn ở nước ngoài, đi dự Đại hội Thanh niên Sinh viên thế giới năm 1959 tại Viên, thủ đô nước Áo. Song như một 8 mối nhân duyên đã định, Xuân Quỳnh táo bạo quyết định từ giã đoàn Văn công để đến với địa hạt thơ ca và sống cùng thơ cho đến hết những tháng ngắn ngủi của cuộc đời mình. Đây là sự quyết định bao trăn trở của bà. Bà trăn trở, lo lắng không phải vì danh vọng cho mình mà trăn trở vì sợ đi nhầm đường, sợ không làm nên trò trống gì: “Đó, trước mắt tôi là hạnh phúc, là yên ấm. Thế mà tôi từ bỏ tất cả. Tất nhiên trên đời này được cái nọ phải mất cái kia. Nhưng biết mình có được cái mà mình định đổi không? Tôi không ngại gian khổ về vật chất, tôi chỉ buồn về tình cảm. Chắc anh biết: Tôi, một con bé từ nhỏ luôn thiếu thốn tình cảm, mà bây giờ cũng chẳng hơn gì. Tôi bây giờ như kẻ đứng giữa ngã ba đường vắng mà trời thì tối, chẳng biết hỏi ai. Giá mà bây giờ có ai bảo hộ tôi một điều rằng: “Đi con đường này là đúng” thì dù biết có gục ngã giữa đường tôi vẫn cứ đi. Tôi chỉ sợ mình không biết phương hướng rồi sau này cũng ra trò trống gì, mà cứ lo nghĩ mã thế này thì hết đời…” [3, tr150]. Có đứng ở trong hoàn cảnh của Xuân Quỳnh ta mới hiểu được rằng bà yêu thơ lắm, yêu nhiều lắm nên mới dũng cảm và táo bạo quyết định như thế. Năm 1962, bà được chọn đi học khóa bồi dưỡng những nhà viết văn trẻ khóa I tại trường viết văn Nguyễn Du. Sau khi học xong, bà làm việc tại báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt nam. Năm 1963, Xuân Quỳnh có một tổ ấm bé nhỏ khi kết hôn với anh chàng nhạc công của Đoàn Văn công nhân dân, họ có một cậu con trai. Cũng thời gian này, bà đã hòa mình vào cuộc chiến tranh gian khó của dân tộc, đã ru con trên đường đi sơ tán, trong đường hầm, rồi gửi con cho mẹ chồng để đến với những tuyến lửa Vĩnh Linh, Quảng Bình gió Lào cát trắng,…để ghi lại những gian khổ trong cuộc sống, chiến đấu của dân tộc bằng những vần thơ bỏng rát hiện thực. Với những trang thơ ấy bà trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ thời chống Mỹ cứu nước. Những mất mát của tuổi thơ đã khiến cho niềm ao ước về tình yêu, hạnh phúc và một mái ấm gia đình luôn cháy bỏng trong lòng Xuân Quỳnh. Nhưng thật buồn khi hạnh phúc đến với bà quá nhọc nhằn. Cuộc hôn nhân với anh chàng nhạc công ở Đoàn Văn công tan vỡ, bà hụt hẫng và chơ vơ giữa đời như một đứa trẻ bỗng ngã nhoài ở ngay bước đi chập chững đầu tiên. Cuộc đời không phải lúc nào cũng quay lưng lại với người đàn bà dành tình yêu lớn cho thơ – Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh gặp Lưu Quang Vũ, người đàn ông đã đi qua một mối tình dang dở, người bạn nghề thấu hiểu sự đa mang nghệ sĩ ở 9 con người bà. Và rồi như là sự sắp đặt hữu ý của duyên phận. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Kết hôn với Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh đã phải đối diện với bao gian khó nhưng bù lại bà đã đi tới tận cùng của tình yêu và hạnh phúc. Bà đã chắt chiu thương yêu chăm lo cho đàn con gà vịt của mình để chúng luôn sống hòa thuận và gắn bó với nhau. Những vần thơ dào dào cảm xúc của bà cứ lần lượt ra đời. Những trang thơ, những vở kịch của Lưu Quang Vũ cũng lần lượt ra đời, tài năng và sự nghiệp của Lưu Quang Vũ được phát triển. Từ năm 1978 đến lúc mất Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Với tinh thần sáng tác nghiêm khắc, miệt mài bà đã để lại cho hậu thế một sự nghiệp văn chương đáng kể. Đầu tiên là thơ, sáng tác thơ có các tập: Tơ tằm – chồi biếc (in chung); Hoa dọc chiến hào; Gió Lào, cát trắng; Lời ru trên mặt đất; Sân ga chiều em đi; Tự hát; Hoa cỏ may (Giải thưởng văn học 1990 của Hội nhà văn); Thơ Xuân Quỳnh (1992, 1994); Thơ tình Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ (1994). Đặc biệt năm 2011, Nhà xuất bản Hội nhà văn đã cho ra đời tập thơ Không bao giờ là cuối , đây là cuốn tinh tuyển gồm những sáng tác thơ hay cùng với di cảo, thủ bút của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Các sáng tác cho thiếu nhi: Cây trong phố–Chờ trăng (in chung); Bầu trời trong quả trứng (Giải thưởng văn học năm 1982 – 1983); Truyện Lưu – Nguyễn; Bao giờ con lớn; Chú gấu trong vòng đu quay; Mùa xuân trên cánh đồng; Bến tàu trong thành phố; Vẫn có ông trăng khác. Giữa năm 1988, Xuân Quỳnh phải đối diện với căn bệnh tim chớm phát. Xuân quỳnh qua đời ngày 29/8/1988 trong một tai nạn giao thông tại cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương cùng chồng là nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và con trai út Lưu Quỳnh Thơ. 1.2.2 Duyên nợ thơ ca – Quan niệm thơ ca Xuân Quỳnh sinh ra trong một gia đình có cha và chị gái đều là những người yêu thơ và thích sáng tác thơ. Thấy cha làm thơ, chị gái làm thơ là Xuân Quỳnh cũng bắt chước làm thử. Sống trong môi trường ấy, thói quen làm thơ được ươm mầm trong Xuân Quỳnh một cách rất tự nhiên. Cha Xuân Quỳnh là một nhà giáo nhưng yêu thích nghệ thuật, ông sáng tác thơ mỗi khi có thể: từ Sài Gòn ra Hà Nội thăm gia đình ông có thơ, nhớ quê ông viết thơ hay sung sướng vì gia đình có thêm cô con gái Xuân Quỳnh ông viết thơ. Sau khi vào Sài Gòn, cha 10 Xuân Quỳnh đã để lại cho hai chị em bà mấy tủ sách. Theo bà kể “chúng tôi đọc ngấu nghiến hết cả, có cái hiểu, có cái chẳng hiểu nhưng rất say mê”. “Những truyện của Nam Cao, Nguyên Hồng mỗi khi đọc tới thấy sao mà giống tôi thế. Tôi có cảm tưởng là tôi cũng có thể viết được như vậy, một cách dễ dàng. Và tôi đã khao khát được viết.” “Nhưng say mê hơn cả vẫn là thơ” “Tôi đọc thơ của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Huy Cận, Xuân Diệu rất say sưa. Đằng sau những bài thơ bao giờ tôi cũng cảm thấy bao điều kỳ diệu. Và tôi tin rằng các nhà thơ là những vị thánh. Cho mãi đến bây giờ, tôi vẫn thấy thơ là một nghệ thuật kỳ diệu nhưng khó mà đi tới, mặc dù vậy vẫn không bao giờ có thể bỏ được thơ!” [9] Những năm hoạt động ở Đoàn văn công là một bước đệm tốt giúp cho Xuân Quỳnh bước vào lãnh địa thơ ca vững vàng. Bà bắt đầu viết thơ nhiều và có dịp được làm quen với nhiều nhà văn, nhà thơ thời bấy giờ: Vân Đài; Anh Thơ,… được đến dự buổi trao đổi nhận xét tập thơ Riêng chung của Xuân Diệu. Cứ thế, mỗi ngày một chút, men rượu thơ ca ngấm dần vào trái tim Xuân. Rồi Xuân Quỳnh được mời đi học lớp văn nghệ ở Quảng Bá, đi thực tế ở đảo Côtô,… Duyên nợ giữa Xuân Quỳnh và thi ca không chỉ được ươm mầm từ môi trường gia đình mà nó còn được bắt nguồn từ chính nhu cầu khát khao được viết của Xuân Quỳnh. Ở nơi sâu thẳm nhất của lí trí và con tim, nữ sĩ biết rằng mình sinh ra để được viết. Trong bản tiểu sử văn học viết ngày 29/8/1982, trả lời cho đề mục nguyên nhân bắt đầu hoạt động văn học, Xuân Quỳnh có ghi: “Vì thích thú. Làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Vì uất ức. Khi mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi quyết phải sống. Mà sống tức là phải viết” [3, tr137]. Bắt nguồn từ một tâm hồn đa mang, nhạy cảm của một người đàn bà vốn sinh ra là để dành cho thơ. Người đàn bà ấy long đong với bao giông bão, sóng gió của cuộc đời nhưng lại có một tâm hồn khát khao tình yêu đến tận cùng, vì thế trong những lời yêu nồng nàn, đắm say nhất tâm hồn ấy cũng đầy ắp những phấp phỏng lo âu về sự tan vỡ. Đến với những sáng tác thơ của Xuân Quỳnh người đọc nhận ra, những cung bậc cảm xúc trong thơ của bà bao giờ cũng được đẩy lên mức da diết, nồng nhiệt nhất. “Sống tức là phải viết”, người phụ nữ mỏng manh mang tâm hồn của một thi sĩ lớn đã thật mạnh mẽ khi đón nhận sứ mệnh thơ giao phó. 11 Nhà phê bình Vương Trí Nhàn từng nhận định: “Ấn tượng về một cái gì tự nhiên càng rõ rệt hơn khi người ta nhìn vào con đường Xuân Quỳnh đã qua để đến với văn học” [10]. Ngẫm kĩ, Xuân Quỳnh đã lựa chọn thi ca như một lẽ tất yếu, thường tình. Vì tự trong máu thịt, con người ấy đã mang chất văn chương thiên phú. Từ lúc đặt chân vào địa hạt thi ca đến lúc khép lại con đường thơ của riêng mình, Xuân Quỳnh lưu lại dấu ấn bằng phong cách thơ tự nhiên, chân thật đáng kinh ngạc. Người phụ nữ ấy không làm thơ mà viết như để kể lại những gì đã sống, đã trải. Tâm trạng trong thơ Xuân Quỳnh nảy sinh từ hoàn cảnh đời sống riêng của chính bà. Hiện thực trong thơ Xuân Quỳnh được tái sinh từ hiện thực đời sống thường nhật. Lấy sự chân thật làm điểm tựa cho cảm xúc sáng tạo, Xuân Quỳnh làm thơ một cách tự nhiên, bản năng. Về quan niệm thơ ca, đối với Xuân Quỳnh ý niệm về sự thai nghén để cho ra đời một tác phẩm dường như rất đơn giản: “Lúc viết những dòng này, tôi như người phát cuồng. Cứ phải ghi bằng hết ý nghĩ cứ ào ào kéo đến trong đầu không cần vần vèo gì vội. Còn sắp xếp lại, đặt vấn đề tôi làm sau, việc ấy đơn giản hơn” [3, tr197]. Khởi nguyên thơ Xuân Quỳnh là sự xúc động chân thành, nhu cầu bộc lộ cảm xúc một cách mãnh liệt nhất. “Nghĩa là sự làm thơ ăn ở những xúc động” “Còn hình thức thơ bốn chữ hay thơ tám chữ, chuyện ấy sẽ đến sau. Làm thơ mà có mỗi cái vần bắt không xong, thì còn tính chuyện viết lách làm quái gì nữa.” [3, tr197-198]. Dễ hiểu vì sao Xuân Quỳnh coi trọng nhất yếu tố tình cảm, cảm xúc trong thế giới nghệ thuật. Thơ phải là cái gì đó níu nhau chảy ra trong nguồn cơn xúc cảm, trong giây phút bừng ngộ của tư tưởng nghệ thuật. Thơ phải bật ra từ trong huyết quản của mình. Với Xuân Quỳnh, làm thơ đầu tiên là để tự thể hiện, tự khẳng định, để sáng tạo và để nối liền bản thân với đồng loại,vũ trụ. Xuất phát từ mình, chân thật với chính mình là điều cốt yếu dẫn đường cho sự ra đời của tác phẩm. Xuân Quỳnh thường nhìn thấy chính mình đầu tiên khi nhìn vào con người và sự vật xung quanh nên bà có thói quen diễn tả tâm trạng của mình qua thơ đúng đến từng khía cạnh nhỏ nhặt nhất. 1.2.3 Tuyển thơ Không bao giờ là cuối Tuyển thơ Không bao giờ là cuối dường như đã khái quát được cả cuộc đời và sự nghiệp thơ của nữ sĩ được nhiều thế hệ đọc giả Việt Nam yêu mến, trân trọng – Xuân Quỳnh. Với tuyển thơ này người đọc một lần nữa được nhìn lại 12 “đời thơ”, “đời yêu” của người phụ nữ có trái tim “biết ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa / Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” (Tự hát). Tuyển thơ bao gồm ba phần. Người đọc sẽ gặp Chồi biếc; Thuyền và biển; Sóng; Sân ga chiều em đi, Tự hát… những bài thơ man mác buồn mà ngập tràn hạnh phúc, đắng đót xót xa nhưng không bao giờ vơi yêu thương nồng nàn trong phần đầu tiên – Dẫu biết chắc rằng anh trở lại. Đến phần hai – Những năm tháng không yên, ta không khỏi xót xa trước cảnh đất nước chia lìa hai miền Nam – Bắc: “Gà gáy sáng thấy tóc đầm nước mắt Đất nước chia lìa đau cả giấc mơ” (Gặp cha) Bầu trời trong quả trứng là phần cuối của tuyển thơ. Phần này gồm những sáng tác thơ rất tươi vui, dí dỏm dành cho thiếu nhi như: Chuyện cổ tích về loài người; Bầu trời trong quả trứng; Bay cao; Tuổi ngựa… Từ khi ra đời tuyển thơ đã thu hút được nhiều sự chú ý của người đọc bởi ở đó chứa đựng những tác phẩm hay nhất trong đời thơ Xuân Quỳnh. Những bài thơ trữ tình giản dị, chân thật, nồng hậu góp phần làm toát lên tính nữ của tuyển thơ. Trong tuyển thơ, tính nữ thể hiện rõ nét ở sự tinh tế trong cảm nhận, uyển chuyển trong cấu tứ, giọng điệu và đặc biệt là ở những xúc cảm sâu thẳm tận cùng khi bà viết cho nhà viết kịch Lưu Quang Vũ - người đàn ông mà bà không ngừng yêu và không hết yêu cho tới tận cuối đời; viết cho mẹ, cho cha, cho chị, cho con, cho những người bà thương yêu. 13 Chương 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH – HIỆN THÂN CỦA TÍNH NỮ TRONG TẬP THƠ “KHÔNG BAO GIỜ LÀ CUỐI” Có thể nói, cái tôi trữ tình trong Không bao giờ là cuối là tiếng nói đầy xúc cảm, tinh tế và hồn hậu của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. Thông qua cái tôi trữ tình ấy, độc giả nhận ra phẩm cách con người, cuộc đời đầy bão giông của Xuân Quỳnh. Cái tôi trữ tình ấy còn chi phối tới cách cảm, cách nghĩ của thi sĩ về cuộc đời, nghệ thuật. Trong tuyển thơ, cái tôi trữ tình ấy hoá thân vào các nhân vật trữ tình khác nhau để có thể diễn đạt đầy đủ và sâu sắc nhất khát vọng tìm kiếm sự dũng cảm, tinh lực cho lao động nghệ. Cái tôi ấy hoá thân thành người cháu với những rung động tuổi thơ trước tiếng gà trưa như cổ tích, và hơn hết là sự hóa thân vào người mẹ để hiểu con, để an ủi vỗ về con, là người vợ với những lo toan bận rộn của cuộc sống thường nhật. Cũng có khi, cái tôi ấy chìm sâu trong những rung cảm, dự cảm về tình yêu ,về cuộc sống… Mỗi nhân vật trữ tình ẩn giấu cả một đại dương cảm xúc sâu sắc, nhân vật ấy khám phá bản thân, khám phá thế giới bằng cái nhìn nhiều chiều, nhiều sắc thái đối nghịch. Bởi thế có thể nói rằng, hiện thân của tính nữ trong Không bao giờ là cuối là cái tôi nhiều chiều, cái tôi giữa các mặt đối lập nhau: Khát khao yêu thương, dâng hiến nhưng ẩn chứa sự lo âu, ám ảnh nên luôn khát khát khao sự chở che, gắn bó. 2.1 Cái tôi yêu thương, dâng hiến Phải chăng bởi tấm lòng vị tha vô biên, sự chân thành là bản chất đời thường của Xuân Quỳnh mà trong thơ bà dù nhìn ở khía cạnh nào ta cũng thấy thật ấm áp vì cái tôi nội tâm, cái tôi yêu thương và giàu trắc ẩn. Cái tôi yêu thương đó dễ động lòng trắc ẩn trước những con người nhỏ bé, bất hạnh, côi cút. Không biết bao nhiêu lần trong Không bao giờ là cuối những tiếng thương da diết, đầy xúc cảm được vang lên. Đó là tiếng thương dành cho người chị phương xa vò võ một mình: “Đã bao mùa gió đổi Chị đi dạy học xa Ngày sơ tán, tháng Ba Mưa rào hầm ngập nước Em thương về lớp học 14 Có đường hào ra sân…” (Tháng Ba, viết cho chị) Là tiếng thương, sự lo sợ cho một cánh chuồn mỏng manh: “Không tìm đâu được chốn nương nhờ Mỏng mảnh thế làm sao chịu nổi Chuồn chuồn ơi báo làm chi bão tới Trời bão lên rồi mày ở đâu?” (Chuồn chuồn báo bão) Thương từ con dế bị bỏ rơi: “…Thương con dế dưới hầm Những năm bom đạn sống cùng lời ru” (Lời ru trên mặt đất) Đến sự phẫn nộ trước cảnh con bò kéo xe bị người chủ đánh bằng xẻng, người cha kéo lê hai đứa con trên mặt đường bẩn thỉu để đi xin ăn. Rồi rưng rưng thương cái dáng tảo tần của người mẹ quê mùa lam lũ: “Đau xót bàn chân phèn chua xót kẽ”, lại thương thân phận một cô gái lấy chồng nơi chiêm trũng không dễ gì “Gửi ai cho mẹ bát canh cần”… Thế đó, thơ Xuân Quỳnh làm người ta ấm lòng vì sự đồng cảm, sẻ chia. Trái tim của người đàn bà trong Không bao giờ là cuối có lúc nào được ngủ yên vì sự đa mang? Thơ về tình yêu là mảng thơ đặc sắc nhất của Xuân Quỳnh. Vì “Xuân Quỳnh có một nhân bản yêu đương cực kì mãnh liệt, là một người con gái có thể sống chết vì tình” [16, tr188], lúc nào cũng sợ không thể nói hết được những lời thương yêu: “Lời yêu thương ngàn lần em muốn nói”; “Lòng em thương làm sao mà nói được”. Có thể nói, địa hạt thơ tình chính là nơi cái tôi yêu thương, tận hiến mang điệu tâm hồn tính nữ rõ nét và rất riêng. Cái chất riêng ấy là sự đằm thắm, bao dung, dịu êm mà dữ dội đến mức táo bạo. Không giấu giếm khát khao yêu đương của mình. Cũng như bao người phụ nữ khác, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh sống và yêu bằng tất cả sự đắm đuối, nồng nàn đến vụng dại, cả tin: “Không sĩ diện đâu, nếu tôi yêu được một người Tôi yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm 15 Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng… Và cả anh, anh yêu của riêng em Khi anh nói yêu em, trái tim em đập chừng mạnh quá Mạnh đến nỗi em tưởng là nghe rõ Tiếng tim anh đang đập vì em…” (Thơ viết cho mình và những người con gái khác) Ở thơ Xuân Quỳnh, tình yêu còn là tượng trưng cho cái đẹp, cái cao quý, tượng trưng cho niềm khát khao được tự hoàn thiện mình: “Em yêu anh, yêu anh như điên Em viết những bài thơ tình yêu tưởng anh là ý, tứ Trán em bớt dô ra, bàn tay không vụng nữa Tay này đây, em may áo cho anh… Và khi nào anh buồn, em sẽ hát Bài hát tình yêu ca ngợi con trai Không chỉ anh nghe, hát cho cả mọi người Để họ biết thế nào là hạnh phúc… ” (Thơ viết cho mình và những người con gái khác) Cái tôi khát khao yêu và dâng hiến trong thơ Xuân Quỳnh luôn ở hai thái cực đối lập “dữ dội” mà “dịu êm”: “Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể…” “Làm sao được tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ” (Sóng) Người đàn bà trong Không bao giờ là cuối hiện diện và mang theo sứ mệnh tự nguyện dâng hiến tình yêu. Người đàn bà ấy chắt chiu từng lượng nhỏ tình 16 thương để đắp xây hạnh phúc và xót xa khi nghĩ đến cảnh người chồng một mình trên con đường xa ngái: “Thương chiếc xe anh nhọc nhằn trong gió Mái nhà nào đêm nay anh dừng chân.” (Không đề) Chẳng kể lúc ở gần mà khi xa cách những yêu thương, lo lắng của người đàn bà ấy vẫn luôn luôn trìu mến. Sự lo lắng trong lòng đã hóa thành những nỗi ước ao dịu dàng, đằm thắm rất nữ tính: “Ước chi làm chiếc nón che anh Đêm gió lạnh em xin làm ngọn lửa Áo ướt ai phơi, ba lô ai xếp hộ Mong sao trời ngừng mưa” (Không đề) Người đàn bà trong Không bao giờ là cuối là người đàn bà mang cốt cách tâm hồn người phụ nữ Việt Nam truyền thống tự xa xưa: người yêu, người vợ, người mẹ với những thiên chức muôn đời, với đức hy sinh cao cả và vị tha. “... Trời mưa lạnh tay em khép cửa Em phơi mền vá áo cho anh Tay cắm hoa tay để treo tranh Tay thắp sáng ngọn đèn đêm anh đọc Năm tháng qua đi mái đầu cực nhọc Tay em dừng trên vầng trán âu lo...” (Bàn tay em) Cái tôi trữ tình trong Không bao giờ là cuối đâu chỉ khát khao, dâng hiến cho tình yêu, cho hạnh phúc cá nhân, cái tôi ấy còn hòa mình vào những năm tháng không yên của dân tộc để hiến dâng cho đất nước, tổ quôc. “Tôi sẵn lòng đem hiến cả đời tôi Cho cát trắng và gió Lào quạt lửa” (Gió Lào cát trắng) 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan