Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tổ chức và hoạt động của đoàn đại biểu quốc hội tỉnh đăk nông...

Tài liệu Tổ chức và hoạt động của đoàn đại biểu quốc hội tỉnh đăk nông

.PDF
81
312
123

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ============= VÕ VĂN NAM TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH ĐĂK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội, 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ============= VÕ VĂN NAM TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH ĐĂK NÔNG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn: TS. LÊ ANH TUẤN Hà Nội, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự định hướng, giúp đỡ của thầy hướng dẫn. Các số liệu, kết quả in trong luận văn là khách quan, trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi được bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN VÕ VĂN NAM i LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của quý thầy, cô giáo và của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trước hết tôi xin gửi tới quý thầy giáo, cô giáo Học viện Khoa học xã hội, lời chào trân trọng, lời chúc sức khỏe và lời cảm ơn sâu sắc. với sự quan tâm, giảng dạy, chỉ bảo tận tình, chu đáo của quý thầy cô, đến nay tôi đã hoàn thành luận văn, đề tài:“Tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông”. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Lê Anh Tuấn, đã quan tâm giúp đỡ, tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này trong thời gian qua. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến lãnh đạo Học viện Khoa học xã hội, Khoa luật đã trực tiếp và gián tiếp giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Đắk Lắk, 10 tháng 5 năm 2019 Học viên VÕ VĂN NAM ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ v MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI ............................................... 7 1.1. Sự cần thiết phải có Đoàn đại biểu Quốc hội ............................................. 7 1.2. Địa vị pháp lý và chức năng của Đoàn đại biểu Quốc hội ....................... 10 1.2.1. Sự hình thành và phát triển chế định Đoàn đại biểu Quốc hội ............. 10 1.2.2. Vị trí, vai trò của Đoàn đại biểu Quốc hội ............................................ 13 1.2.3. Tổ chức và nhiệm vụ của Đoàn đại biểu Quốc hội ............................... 16 Tiểu kết chương............................................................................................... 19 Chương 2: THỰC TIỄN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI - QUA HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH ĐĂK NÔNG TỪ QUỐC HỘI KHÓA XII (2007-2011) ĐẾN NAY ................................................................................................................ 22 2.1. Sơ lược đặc điểm về địa lý, kinh tế - xã hội tỉnh Đăk Nông.................... 22 2.2. Bối cảnh hoạt động của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay .................... 23 2.3. Thực tiễn tổ chức Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông từ Quốc hội khóa XII (2007-2011) đến nay ........................................................................ 24 2.3.1. Cơ cấu tổ chức của Đoàn đại biểu Quốc hội Khóa XII tỉnh Đăk Nông (Nhiệm kỳ 2007 – 2011) ................................................................................. 24 2.3.2. Cơ cấu tổ chức của Đoàn đại biểu Quốc hội Khóa XIII tỉnh Đăk Nông (Nhiệm kỳ 2011 – 2016) ................................................................................. 25 2.3.3. Cơ cấu tổ chức của Đoàn đại biểu Quốc hội Khóa XIV tỉnh Đăk Nông (Nhiệm kỳ 2016 – 2021) ................................................................................. 25 2.4. Thực tiễn hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông từ khóa XII đến nay ...................................................................................................... 27 iii 2.4.1. Về hoạt động xây dựng pháp luật ......................................................... 27 2.4.2. Hoạt động giám sát.................................................................................. 29 2.4.3. Hoạt động tiếp xúc cử tri ....................................................................... 38 2.4.4. Hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân .................................................................................................... 41 2.4.5. Quan hệ công tác của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh. ........................... 43 2.4.6. Một số nhận xét về hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách tại địa phương trong thời gian qua. ..................................................................... 44 2.5. Một số tồn tại, hạn chế ............................................................................. 46 2.5.1. Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, hoạt động của Đoàn ĐBQH tỉnh Đăk Nông còn những tồn tại, hạn chế sau................................................46 2.5.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế .............................................. 48 2.5.3. Một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông................................................................................. 51 kết Tiểu chương ..............................................................................................Error! Bookmark not defined. Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH ĐĂK NÔNG ......................................................................................................................... 53 3.1. Về cơ cấu Đại biểu Quốc hội ................................................................... 56 3.2. Hoàn thiện các quy định về Quốc hội và hoạt động của Quốc hội .............. 58 3.3. Về bộ máy giúp việc của Đoàn đại biểu Quốc hội .................................. 60 3.4. Phương hướng về tổ chức và hoạt động Đoàn đại biểu Quốc hội từ thực tiễn Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông..........................................................62 KẾT LUẬN .................................................................................................... 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 72 iv DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ĐBQH: Đại biểu Quốc hội ĐĐBQH: Đoàn đại biểu Quốc hội HĐND: Hội đồng nhân dân NCS: Nghiên cứu sinh PGS-TS: Phó giáo sư, tiến sỹ TXCT: Tiếp xúc cử tri UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc hội UBND: Ủy ban nhân dân UBMTTQ: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc XHCN: Xã hội chủ nghĩa v MỞ ĐẦU + Tính cấp thiết của đề tài Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam xác định “Nhà nước Việt Nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [2, tr.27]. Quan điểm này đã được thể chế hóa qua các bản Hiến pháp và gần đây nhất Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [Điều 2 - Hiến pháp 2013]. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải cải cách toàn diện Bộ máy nhà nước. Trong đó việc đổi mới Quốc hội rất quan trọng, vì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp Quốc hội, hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và hiệu quả của sự phối hợp hoạt động với các cơ quan, tổ chức hữu quan. Đoàn đại biểu Quốc hội là một hình thức tổ chức đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là tổ chức của các đại biểu Quốc hội được bầu tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc được chuyển đến công tác tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội do Luật tổ chức Quốc hội và Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại 1 biểu Quốc hội quy định. Hiệu quả hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội đóng góp quan trọng vào hiệu quả hoạt động chung của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội mà đại biểu Quốc hội trong Đoàn là thành viên. Thực tế cho thấy, hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội đã góp phần tạo nên thành công và chất lượng cho các kỳ họp Quốc hội. Tuy nhiên, với thực trạng pháp luật về Đoàn đại biểu Quốc hội hiện nay và thực tế thi hành pháp luật liên quan đến Đoàn đại biểu Quốc hội ở tỉnh Đăk Nông đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần làm sáng tỏ. Đoàn đại biểu Quốc hội có phải là một cơ quan của Quốc hội hay không? Nếu không phải là cơ quan của Quốc hội thì Đoàn đại biểu Quốc hội là cơ quan gì? Với cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội trong Đoàn đại biểu Quốc hội nói chung, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông nói riêng và thực trạng tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu giúp việc hiện nay có thể bảo đảm cho các Đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện được tốt nhiệm vụ, quyền hạn mà Luật quy định hay không? Từ những phân tích trên đây, tác giả cho rằng việc nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông” là rất cần thiết. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức, hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội qua thực tiễn của tỉnh Đăk Nông, từ đó tìm giải pháp, đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội nói chung và Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông nói riêng. + Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đã có rất nhiều các nghiên cứu, các đề tài khoa học về Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Tuy nhiên, hiện mới chỉ có một vài nghiên cứu về chức năng, vai trò và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội; Một số bài viết về Đoàn đại biểu Quốc hội của các cán bộ tại Văn phòng Quốc hội được đăng tải rải rác ở các tạp chí và sách báo khác nhau. Trong các giáo trình Hiến pháp hay các sách chuyên khảo về Quốc hội thì phần về Đoàn đại biểu Quốc hội cũng chỉ chiếm một dung lượng rất nhỏ (chỉ một vài trang thậm chí là nửa trang). Có 01 luận văn Thạc sỹ về “Tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội trong thời kỳ đổi mới” của Trần Văn Tám. 2 Đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tổng thể có hệ thống và khá toàn diện về tổ chức, hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội; từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp cụ thể hoàn thiện hình thức tổ chức, phương thức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội. Các tài liệu đã thu thập được: - Các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung và Hiến pháp ban hành năm 2013. - Các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam. - Luật tổ chức Quốc hội; Quy chế hoạt động của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội; Luật hoạt động giám sát của Quốc hội… - Sách chuyên khảo Quốc hội trong Nhà nước Pháp quyền – GS.TS Nguyễn Đăng Dung. - Các bài viết về Quốc hội của các tác giả GS.TS Nguyễn Đăng Dung; TS. Nguyễn Sỹ Dũng; TS. Trần Ngọc Đường; TS. Bùi Xuân Đức… - Quốc hội Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn – Văn phòng Quốc hội. - Báo cáo hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông Khoá XII, XIII. + Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII (2007-2011) cho đến nay. - Đánh giá thực trạng hoạt động của hình thức Đoàn đại biểu Quốc hội qua hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông từ đầu nhiệm kỳ khóa XII (2007-2011) đến nay (tỉnh Đăk Nông được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 2004, theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội trên cơ sở chia tách tỉnh Đăk Lăk thành 2 tỉnh Đăk Lăk và Đăk Nông). 3 + Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên, có hệ thống về tổ chức và hoạt động của Đoàn ĐBQH qua thực tiễn tổ chức và hoạt động của Đoàn ĐBQH tỉnh Đăk Nông, từ đó chỉ ra những vấn đề lớn về lý luận và thực tiễn hoạt động; đề xuất các kiến nghị cụ thể về tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội nói chung và của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông nói riêng. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định về địa vị pháp lý, tổ chức và hoạt động của các Đoàn đại biểu Quốc hội. + Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Tác giả luận văn đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, đối chiếu, so sánh, thống kê và tổng hợp; phương pháp phân tích quy phạm cũng được tác giả vận dụng để phân tích, bình luận một số quy định pháp luật. + Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Mục đích: Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Đoàn ĐBQH qua thực tiễn tỉnh Đăk Nông từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của Đoàn ĐBQH nói chung và của Đắk Nông nói riêng phù hợp với đặc điểm cụ thể của tỉnh Đắk Nông. Nhiệm vụ: - Tổng hợp lại các quy định về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội trong các văn bản quy phạm pháp luật. - Đánh giá thực trạng về tổ chức, hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tại địa phương (cụ thể Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông). - Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của các quy định hiện hành và thực tiễn hoạt động, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể. Ý nghĩa: Trong phạm vi nghiên cứu nhất định, luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội trên cơ sở những đòi hỏi xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Đã đánh giá khách quan thực trạng chất lượng hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội và đưa ra phương hướng giải pháp bảo đảm chất lượng hoạt 4 động của tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu trên có thể áp dụng trong quá trình tổ chức và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội. Khả năng ứng dụng trong thực tiễn: Luận chứng và luận cứ trình bày ở luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo và các kiến nghị tác giả luận văn đề xuất có thể áp dụng trong quá trình nghiên cứu để sửa đổi Quy chế hoạt động của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội; Sửa đổi Luật Tổ chức Quốc hội. + Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI 1.1. Sự cần thiết phải có Đoàn đại biểu Quốc hội. 1.2. Địa vị pháp lý và chức năng của Đoàn đại biểu Quốc hội. 1.2.1. Sự hình thành và phát triển chế định Đoàn đại biểu Quốc hội. 1.2.2. Vị trí, vai trò của Đoàn đại biểu Quốc hội. 1.2.3. Nhiệm vụ của Đoàn đại biểu Quốc hội. Tiểu kết chương Chương 2. THỰC TIỄN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI – QUA HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH ĐĂK NÔNG KHÓA XII (NHIỆM KỲ 2007 – 2011) ĐẾN NAY. 2.1. Sơ lược đặc điểm về địa lý, kinh tế - xã hội tỉnh Đăk Nông. 2.2. Bối cảnh hoạt động của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. 2.3. Thực tiễn tổ chức Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông nhiệm kỳ khóa XII đến nay. 2.3.1. Cơ cấu tổ chức của Đoàn đại biểu Quốc hội Khóa XII tỉnh Đăk Nông (Nhiệm kỳ 2007 – 2011). 2.3.2. Cơ cấu tổ chức của Đoàn đại biểu Quốc hội Khóa XIII tỉnh Đăk Nông (Nhiệm kỳ 2011 – 2016). 5 2.3.3. Cơ cấu tổ chức của Đoàn đại biểu Quốc hội Khóa XIV tỉnh Đăk Nông (Nhiệm kỳ 2016 – 2021). 2.4. Thực tiễn hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông từ khóa XII đến nay. 2.4.1. Về hoạt động xây dựng pháp luật. 2.4.2. Hoạt động giám sát. 2.4.3. Hoạt động tiếp xúc cử tri. 2.4.4. Hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. 2.4.5. Quan hệ công tác của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh 2.4.6. Một số nhận xét về hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách tại địa phương trong thời gian qua. 2.5. Một số tồn tại, hạn chế. 2.5.1. Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, hoạt động của Đoàn ĐBQH tỉnh Đăk Nông còn những tồn tại, hạn chế sau 2.5.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. 2.5.3. một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động của Đoàn ĐBQH tỉnh Đăk Nông . Tiểu kết chương Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TỈNH ĐĂK NÔNG 3.1. Về cơ cấu đại biểu Quốc hội 3.2. Về hoàn thiện các quy định về Quốc hội và hoạt động của Quốc hội. 3.3. Về bộ máy giúp việc Đoàn đại biểu Quốc hội 3.4. Phương hướng về tổ chức và hoạt động Đoàn đại biểu Quốc hội từ thực tiễn Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Đăk Nông 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI 1.1. Sự cần thiết phải có Đoàn đại biểu Quốc hội Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, bởi vì Quốc hội là cơ quan duy nhất được nhân dân trực tiếp bầu ra. Trong hệ thống cơ quan nhà nước, nhân dân còn trực tiếp bầu ra đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Nhưng Hội đồng nhân dân chỉ là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân từng địa phương bầu ra. Chính việc Quốc hội do cử tri trong toàn quốc bầu ra từ những đại diện của mọi thành phần trong xã hội, từ mọi địa phương trên đất nước đã tạo ra cho Quốc hội ưu thế đặc biệt, hơn hẳn các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước. Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp. Việc soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp và thủ tục, trình tự giải thích Hiến pháp do Quốc hội quy định. Căn cứ vào Hiến pháp, Quốc hội ban hành Luật, Nghị quyết. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đứng đầu toàn bộ các cơ quan hợp thành bộ máy nhà nước, Quốc hội phải thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng thuộc về sinh mệnh của đất nước. Về nội dung, theo quy định của pháp luật hiện hành, những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội. Nhìn chung, quy định pháp luật về quy trình Quốc hội xem xét, quyết định khá chặt chẽ, đầy đủ các bước, các khâu, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, về cơ bản bảo đảm phản ánh đầy đủ ý kiến của các đại biểu Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan, bảo đảm chất 7 lượng các quyết định; quy trình thường xuyên được cải tiến hoàn thiện hơn. Các nghị quyết của Quốc hội về các vấn đề quan trọng của đất nước về cơ bản đã cụ thể hoá kịp thời và đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Chất lượng các báo cáo thẩm tra của các cơ quan Quốc hội ngày càng được nâng cao, có chính kiến rõ ràng hơn, mang tính phản biện hơn làm cơ sở các đại biểu Quốc hội thảo luận, biểu quyết; nhiều nội dung được đưa vào trong các Nghị quyết của Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, thể hiện trách nhiệm cao trước cử tri và nhân dân cả nước. Quốc hội thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng đầy đủ hơn những nội dung thuộc thẩm quyền, có tính chất thường xuyên hơn và dần đi vào nền nếp. Quy trình thảo luận, xem xét, quyết định bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Chất lượng các quyết định của Quốc hội được nâng lên. Các quyết định của Quốc hội được các ngành, các cấp nghiêm chỉnh triển khai và có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực sự là cơ sở quan trọng để Quốc hội thực hiện chức năng giám sát, góp sức cùng các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân quy định một cách rõ ràng cụ thể (Điều 37): Thẩm tra báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước quy định tại khoản 1 Điều 13 của Luật này thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội phụ trách hoặc theo sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Giám sát văn bản quy phạm pháp luật quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Luật này; Giám sát chuyên đề; Tổ chức hoạt động giải trình những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội phụ trách; Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; Kiến nghị về việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. 8 Đoàn đại biểu Quốc hội là một hình thức tổ chức đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước ta. Hình thức tổ chức Đoàn đại biểu Quốc hội ra đời ngay từ kỳ họp thứ ba của Quốc hội Khóa I và tồn tại từ đó cho đến nay. Theo quy định của pháp luật hiện hành, Đoàn đại biểu Quốc hội là tổ chức của các đại biểu Quốc hội được bầu tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc được chuyển đến công tác tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, do đó không nên coi Đoàn đại biểu Quốc hội là một cơ quan của Quốc hội hay một cấp tổ chức trong Quốc hội, nhưng thực tế chưa phải mọi ý kiến đã thống nhất trong việc phân biệt Đoàn đại biểu Quốc hội có phải là cơ quan hay tổ chức độc lập trong Quốc hội, cũng như trong việc nhìn nhận khách quan vị trí, vai trò và chức năng của Đoàn đại biểu Quốc hội. Mặc dù sự nhìn nhận và đánh giá về Đoàn đại biểu ở các thời kỳ có khác nhau, nhưng thực tiễn hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội nửa thế kỷ qua cho thấy, hình thức tổ chức Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương có vị trí, vai trò quan trọng và không thể thiếu được trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Điều 3 Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 nhấn mạnh “ Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp của Quốc hội, hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội...”. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XII (2007 – 2011) cũng khẳng định: “Quốc hội khóa XII có 63 Đoàn đại biểu Quốc hội. Từ thực tiễn hoạt động cho thấy, mô hình tổ chức Đoàn đại biểu Quốc hội là tương đối phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong điều kiện hiện nay, bảo đảm tiến hành các hoạt động của đại biểu Quốc hội tại địa phương và các kỳ họp Quốc hội… Thông qua Đoàn, hoạt động của đại biểu Quốc hội được phát huy, mở rộng quan hệ với cử tri, đồng thời tạo điều kiện để các đại biểu Quốc hội hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao. Trên thực tế, các Đoàn đại biểu Quốc hội đã ngày càng thực hiện có hiệu quả hơn nhiệm vụ xây dựng pháp luật, giám sát, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, theo dõi đôn đốc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân…; 9 giữ mối quan hệ công tác và phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan ở địa phương, ở trung ương và các hoạt động tại kỳ họp Quốc hội, góp phần quan trọng vào kết quả hoạt động chung của Quốc hội”. Báo cáo công tác nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XIII (2011 - 2016) tiếp tục khẳng định: “ Các Đoàn đại biểu Quốc hội khóa XIII được bảo đảm cơ cấu, số lượng hợp lý; tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Đoàn; thực hiện tốt việc phối hợp công tác với các cơ quan của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan, tổ chức hữu quan ở trung ương và địa phương. Thông qua Đoàn đại biểu Quốc hội, hoạt động của đại biểu Quốc hội được phát huy, quan hệ gắn bó với cử tri được tăng cường, tạo điều kiện để các đại biểu Quốc hội lắng nghe, tiếp thu, phản ánh ý kiến cử tri trong quá trình tham gia xây dựng luật, giám sát, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân…; góp phần để đại biểu làm tốt vai trò người đại biểu Nhân dân”. 1.2. Địa vị pháp lý và chức năng của Đoàn đại biểu Quốc hội 1.2.1. Sự hình thành và phát triển chế định Đoàn đại biểu Quốc hội Tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa I, Đoàn đại biểu Quốc hội đã được hình thành theo các đơn vị hành chính khu hoặc liên khu để đại biểu Quốc hội được bầu trong một đơn vị hành chính liên hệ với Đoàn chủ tịch kỳ họp hoặc trao đổi ý kiến trong nhóm về những vấn đề liên quan đến kỳ họp, làm cho kỳ họp Quốc hội được tiến hành thuận lợi. Mục đích ban đầu khi thành lập Đoàn đại biểu Quốc hội là để phục vụ hoạt động Quốc hội được tốt hơn trong kỳ họp, nhưng quá trình phát triển cho thấy, Đoàn đại biểu Quốc hội không chỉ tồn tại và phát huy tác dụng trong kỳ họp mà còn tồn tại và phát huy tác dụng ở ngoài kỳ họp. Do Quốc hội nước ta hoạt động không thường xuyên, đại biểu Quốc hội đa số là kiêm nhiệm, công tác và sinh sống chủ yếu tại địa phương nên hình thức tổ chức Đoàn đại biểu Quốc hội tỏ ra thích hợp để giữa hai kỳ họp, đại biểu Quốc hội ở địa phương có thể thông qua Đoàn liên hệ với lãnh đạo Quốc hội ở Trung ương, liên hệ với các đại biểu Quốc hội trong cùng một địa phương và liên hệ với cử tri tại địa phương mình. Đây chính là những lý do khách quan dẫn đến Đoàn đại biểu 10 Quốc hội vẫn tồn tại và phát triển song song với các cơ cấu, tổ chức khác của Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp, cơ cấu tổ chức của Quốc hội gồm Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, các luật về tổ chức Quốc hội theo các bản Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 đều có những quy định về vị trí, vai trò và chức năng của Đoàn đại biểu Quốc hội. Cụ thể là: - Luật tổ chức Quốc hội năm 1960 quy định: Đại biểu Quốc hội có thể họp thành các đoàn đại biểu địa phương theo đơn vị tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương. Trong mỗi kỳ họp của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội trao đổi ý kiến về những vấn đề cần thiết của kỳ họp. Giữa hai kỳ họp Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội giữ mối quan hệ với Ủy ban thường vụ Quốc hội [14, Điều 3]. Với nội dung này, Đoàn đại biểu Quốc hội tuy được xác định trong cơ cấu, tổ chức của Quốc hội nhưng không phải là một cơ cấu, tổ chức mang tính chất bắt buộc; nội dung hoạt động của Đoàn chủ yếu là trao đổi những vấn đề cần thiết trong kỳ họp. Theo Luật tổ chức Quốc hội năm 1960, các Đoàn đại biểu Quốc hội còn có quyền giới thiệu người ra ứng cử chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội để Quốc hội bầu. - Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981 quy định: Đại biểu Quốc hội ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương hợp thành Đoàn đại biểu Quốc hội địa phương và cử ra Trưởng đoàn. Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức hoạt động của Đại biểu Quốc hội tại các đơn vị bầu cử. Các Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội và các Đại biểu Quốc hội giữ quan hệ với Chủ tịch Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Mỗi năm hai lần, các Đoàn đại biểu Quốc hội thông báo cho Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và Ủy ban Mặt trận tổ quốc ở địa phương về hoạt động của các Đại biểu Quốc hội ở địa phương [16, Điều 71]. Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981 đã mở rộng hơn 11 quyền của Đoàn đại biểu Quốc hội trong việc giới thiệu các chức danh để Quốc hội bầu: Chủ tịch, Phó Chủ tịch Quốc hội; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và các Ủy viên Hội đồng Nhà nước; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thư ký và các Ủy viên của Hội đồng dân tộc; Chủ nhiệm và các thành viên khác của Ủy ban thường trực của Quốc hội. Nhiệm vụ, quyền hạn của Đoàn đại biểu Quốc hội còn được quy định trong Quy chế về Đại biểu Quốc hội do Quốc hội ban hành. Khác với Luật tổ chức Quốc hội năm 1960, thì ở thời kỳ này Đoàn Đại biểu Quốc hội được xác định là hình thức tổ chức bắt buộc trong cơ cấu, tổ chức của Quốc hội, nội dung hoạt động của Đoàn chủ yếu là tổ chức hoạt động cho đại biểu Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp, khác với giai đoạn trước chủ yếu tổ chức hoạt động trong kỳ họp, còn ngoài kỳ họp bảo đảm mối liên hệ giữa Đại biểu Quốc hội với lãnh đạo Quốc hội ở trung ương. Qua kinh nghiệm của các nhiệm kỳ Quốc hội mà đặc biệt là nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII (1987-1992) cho thấy, việc tổ chức Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương là cần thiết, đã phát huy tác dụng tích cực trong thực tế. Ghi nhận thực tế này, Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992 một lần nữa khẳng định lại vị trí của Đoàn đại biểu Quốc hội, theo đó: Các đại biểu Quốc hội được bầu trong một tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương hợp thành Đoàn đại biểu Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn, có thể có Phó Trưởng Đoàn để tổ chức hoạt động của Đoàn, giữ mối liên hệ với Chủ tịch Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, cơ quan chính quyền địa phương, Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các cơ quan, tổ chức khác ở địa phương về các vấn đề liên quan đến hoạt động của đại biểu Quốc hội. Mỗi đoàn có thể có từ một đến hai đại biểu làm việc theo chế độ chuyên trách [18, Điều 48]. - Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 tiếp tục khẳng định: Đoàn đại biểu Quốc hội là tổ chức của các đại biểu Quốc hội được bầu tại một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc được chuyển đến công tác tại 12 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đoàn đại biểu Quốc hội có Trưởng đoàn hoặc Phó Trưởng đoàn là đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách. Trưởng đoàn và Phó Trưởng đoàn do Đoàn đại biểu Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội của Đoàn và được Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Đoàn đại biểu Quốc hội có trụ sở làm việc. Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội là cơ quan tham mưu, giúp việc, phục vụ hoạt động của các đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội tại địa phương. Kinh phí hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội do ngân sách nhà nước bảo đảm. [Điều 43]. Với quy định này, có thể nói Đoàn đại biểu Quốc hội như một cơ quan độc lập tại địa phương, có bộ máy, trụ sở làm việc riêng, có con dấu và kinh phí hoạt động hàng năm. Vị trí, vai trò, chức năng và phương thức hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội còn được quy định cụ thể trong Nội quy kỳ họp Quốc hội và trong Quy chế về hoạt động của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội. So sánh với các quy định của pháp luật qua các thời kỳ về Đoàn đại biểu Quốc hội, tôi nhận thấy: + Vai trò của Đoàn đại biểu Quốc hội trong việc giới thiệu bầu các chức danh trong bộ máy nhà nước ở trung ương không được tiếp tục duy trì; + Từ một chủ thể không bắt buộc, Đoàn đại biểu Quốc hội là một chủ thể pháp lý bắt buộc trong cơ cấu, tổ chức của Quốc hội, tuy không phải là cơ quan hay một cấp tổ chức trong Quốc hội; + Điểm mới so với các quy định trước đây là mỗi Đoàn đại biểu Quốc hội có thể có từ một đến nhiều Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách. Quy định này thể hiện hướng từng bước chuyển Quốc hội dần sang chế độ hoạt động thường xuyên, trong đó có bộ phận Đại biểu Quốc hội chuyên trách. + Quy định của pháp luật qua các thời kỳ có xu hướng dần dần làm cho Đoàn đại biểu Quốc hội thành một tổ chức có nhiệm vụ, quyền hạn độc lập, hoạt động thường xuyên ở địa phương. 1.2.2. Vị trí, vai trò của Đoàn đại biểu Quốc hội 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan